Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên trung học cơ sở ở huyện hoàn đất, tỉnh kiên giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.59 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN HÒN ĐẤT,
TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Long An, 6/2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN HÒN ĐẤT,
TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số

: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Quang



Long An, 6/2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được
sự động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh đạo; các thầy giáo,
cô giáo; các bạn đồng nghiệp và gia đình. Tôi xin chân thành cám ơn:
- Trường Đại học Vinh; trường Đại học Kinh tế - Công nghiệp Long An; các
thầy, cô giảng dạy lớp cao học Chính trị học K21 đã giảng dạy và tạo điều kiện
thuận lợi để bản thân hoàn thành luận văn.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hòn Đất; Lãnh đạo các trường Trung học
Cơ sở trên địa bàn huyện Hòn Đất; Văn phòng Huyện ủy, Văn phòng Ủy ban nhân
dân, Ban Tuyên giáo huyện ủy Hòn Đất đã nhiệt tình cung cấp thông tin, số liệu,
cho ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho bản thân trong quá trình nghiên cứu thực tế
để làm luận văn.
- Gia đình đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho bản thân trong
quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.
TS. Trần Viết Quang - Người hướng dẫn khoa học đã tận tâm bồi dưỡng kiến thức,
phương pháp nghiên cứu và trực tiếp giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn
này.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, song chắc rằng luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi kính mong nhận được những lời chỉ dẫn
của các thầy giáo, cô giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các bạn đồng nghiệp để
luận văn được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- Cán bộ, giáo viên

- CBGV

- Chủ nghĩa xã hội

- CNXH

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- CNH, HĐH

- Giảng viên cao cấp

- GVCC

- Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ

- GS, PGS, TS, ThS

- Trung học cơ sở

- THCS

- Văn hóa chính trị

- VHCT

- Xã hội chủ nghĩa


- XHCN


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................01
B. NỘI DUNG..........................................................................................07
Chương 1. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ
SỞ........................................................................................................................07
1.1. Văn hóa chính trị...............................................................................07
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giáo viên
Trung học cơ sở hiện nay....................................................................................29
Chương 2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN
GIANG HIỆN NAY...........................................................................................43
2.1. Khái quát về các trường Trung học cơ sở và đội ngũ giáo viên các trường
Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Hòn đất, tỉnh Kiên Giang hiện nay............43
2.2. Ưu điểm và hạn chế về văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên Trung học
cơ sở ở huyện Hòn đất, tỉnh Kiên giang........................................................... 51
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HÓA
CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN
HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY................................................66
3.1. Phương hướng nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giáo viên Trung
học cơ sở huyện Hòn đất, tỉnh Kiên giang hiện nay............................................66
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giáo viên
Trung học cơ sở ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang hiện nay............................72
C. KẾT LUẬN.........................................................................................93
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................96
E. PHỤ LỤC............................................................................................99



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân ta bao gồm
những nội dung cơ bản như: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN); xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc... Các nội dung đó hòa trong một tổng thể không thể
tách rời, không thiếu mặt nào.
Văn hóa chính trị (VHCT) trong xã hội thực sự là phương thức điều hành xã
hội; nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một phương diện của văn hóa, VHCT với các tính chất, đặc
điểm, chức năng của mình là nâng cao trình độ chính trị cho con người. Điều đó, có
nghĩa VHCT không phải là biểu hiện bề ngoài của chính trị, mà thẩm thấu trong cơ
thể chính trị; nó là sức sống và do đó là sức mạnh bên trong của đời sống chính trị.
Như vậy, VHCT có vai trò vô cùng to lớn trong hoạt động chính trị, nó không chỉ
phản ánh đời sống chính trị, mà còn nằm ngay trong mọi thành phần, mọi hoạt động
chính trị của con người, nó tác động mạnh mẽ và toàn diện tới phương hướng, tính
chất, nội dung, kết quả và hiệu quả của hoạt động chính trị.
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức nói
chung cũng như đội ngũ giáo viên trung học cơ sở (THCS) nói riêng đã có những
đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước
trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện,
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên” [2,
tr.1].



Tuy nhiên, thực tiễn ở nước ta cho thấy, mặc dù đội ngũ cán bộ, đảng viên
nhìn chung đã đạt đến một trình độ VHCT nhất định, đáp ứng cơ bản yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước. Song, bên cạnh đó, có một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên vẫn còn nhiều thiếu hụt những giá trị VHCT như: thiếu giác ngộ lý tưởng
cách mạng, hạn chế về trình độ và năng lực nhận thức, khả năng hoạt động thực
tiễn, sa sút về phẩm chất, đạo đức và lối sống…dẫn đến nguy cơ đối với vận mệnh
của Đảng, gây mất ổn định chính trị, làm giảm niềm tin của dân đối với Đảng và
Nhà nước. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) cũng nhấn mạnh: “Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản
lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, cơ hội thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” [2, tr.1] điều đó làm giảm uy tín của
Đảng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Đội ngũ giáo viên của các trường Trung học cơ sở ở huyện Hòn Đất, tỉnh
Kiên Giang đã và đang tích cực phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ và đã
đạt được nhiều thành tích đáng được biểu dương trong thời gian qua. Qua đó, họ đã
tạo nên sắc diện VHCT cho chính mình trong đời sống chính trị. Tuy nhiên, đội ngũ
giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang vẫn còn những hạn chế, yếu
kém chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn của địa phương, đất nước trong tình
hình mới. Do vậy, cần phải có những giải pháp kịp thời nhằm khắc phục và nâng
cao VHCT cho đội ngũ giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang hiện
nay.
VHCT có vai trò rất quan trọng, song về phương diện lý luận, ở nước ta nó
chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo, nghiêm túc, dường như nó bị
hòa tan trong các khoa học chính trị. Do vậy, VHCT cũng chưa được quan niệm,


chưa được hiểu như một lĩnh vực văn hóa độc lập với những nét đặc thù với tính
chất và bản chất riêng, với sức mạnh và vai trò quan trọng của nó.

Từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX, một số công trình nghiên cứu của văn
hóa chính trị bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Ban đầu là những bài báo, bài tạp chí đăng
trên những tạp chí khoa học như: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí triết học, Tạp chí
nghiên cứu lý luận, Tạp chí văn hóa-nghệ thuật…Những năm cuối thế kỷ XX xuất
hiện một vài cuốn sách viết về VHCT. Đó là: “Văn hóa chính trị Việt Nam- truyền
thống và hiện đại” của giáo sư (GS) Nguyễn Hồng Phong; “Văn hóa chính trị và
việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” do giáo sư, tiến sĩ
(GS.TS) Phạm Ngọc Quang chủ biên; “Vai trò của văn hóa trong hoạt động chính
trị của Đảng ta hiện nay” do GS.TS Trần Văn Bính chủ biên; và cũng phải kể đến
các tác giả như Trần Văn Giàu: “Giá trị truyền thống Việt Nam”; Hồng PhongPhạm Xuân Nam: “Văn hóa và phát triển”; Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm:
“Cơ sở văn hóa Việt Nam”; Huỳnh Khái Vĩnh: “Văn hóa lối sống” v.v…
Trong những năm gần đây, VHCT trở thành một trong những vấn đề hấp dẫn,
lôi cuốn các nhà nghiên cứu. Ở các trường đại học đã xuất bản nhiều giáo trình có
sự phân tích thích đáng cho VHCT như: Giáo trình Chính trị học do Viện Khoa học
Chính trị thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, hay giáo trình
Chính trị học của Khoa Luật trường Đại Học Vinh do Phó giáo sư, Tiến sĩ, Giảng
viên cao cấp (PGS.TS.GVCC) Đoàn Minh Duệ và PGS.TS Nguyễn Đăng Dung
đồng chủ biên.
Trong thời gian gần đây, cũng đã có một số luận văn thạc sỹ (ThS), luận án
TS chuyên ngành chính trị học đã đi sâu vào đề tài VHCT. Đó là: luận văn ThS
“VHCT và những giá trị tiêu biểu của VHCT Việt Nam truyền thống” của tác giả
Lâm Quốc Tuấn; luận văn ThS “Văn hóa chính trị Việt Nam và vai trò của nó đối
với công cuộc đổi mới hiện nay” của tác giả Lê Tấn Lập; luận văn ThS “Góp phần
làm rõ khái niệm và chức năng của niềm tin chính trị” của Phạm Thị Thúy Hồng;


Luận văn ThS “Văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông ở
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà tĩnh hiện nay” của Nguyễn Thị Bích Hợp; Luận văn
ThS “Tư duy lý luận của đội ngũ Hiệu trưởng các trường Tiểu học hiện nay” của Đỗ
Thị Thanh Hương; Luận văn ThS “Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng

bộ thành phố Cao lãnh, tỉnh Đồng tháp trong giai đoạn hiện nay” của Mai Kiến
Trúc... Các luận án, luận văn đó đã bước đầu đem lại những đóng góp có ý nghĩa
cho việc xây dựng VHCT, làm rõ đặc điểm, vai trò của VHCT trong đời sống chính
trị - xã hội.
Sự phát triển của bản thân chính trị học nói chung và lý luận về VHCT nói
riêng; đặc biệt là đòi hỏi nâng cao chất lượng VHCT của cán bộ Đảng, nhà nước
hiện nay đang đặt ra một cách bức thiết việc nghiên cứu sâu sắc về VHCT, về
VHCT trong từng con người cụ thể với tư cách là những chủ thể chính trị trong hệ
thống chính trị Việt Nam. Đội ngũ cán bộ giáo viên THCS trên cả nước nói chung
và đội ngũ giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nói riêng là một lực
lượng – chủ thể chính trị to lớn và hết sức quan trọng trong sự nghiệp trồng người –
đào tạo ra những chủ thể chính trị mới hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Với tất cả những lý do trên, đề tài: "Văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên
Trung học Cơ sở ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang hiện nay" mong muốn khảo sát
thực trạng, năng lực, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ giáo viên các trường
THCS để đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao văn hóa chính trị cho đội
ngũ giáo viên THCS các trường, góp phần vào sự nghiệp đổi mới về công tác dạy và
học trong nhà trường.
Luận văn này muốn đi sâu nghiên cứu VHCT, nhằm đưa VHCT tới mọi hoạt
động sống của các chủ thể chính trị, trong đó có việc nâng cao VHCT cho đội ngũ
giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang như là sự tiếp nối những công
trình đã có ở trên; nhằm tạo một bước phát triển mới về phương diện lý luận cũng
như thực tiễn của quá trình xây dựng đội ngũ giáo viên THCS hiện nay nói chung


và cán bộ giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nói riêng. Đề tài
mong đóng góp tiếng nói nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp cách
mạng chung của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm
nâng cao VHCT cho đội ngũ giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang,
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ bản chất, đặc điểm, vai trò của VHCT; sự cần thiết và những yêu
cầu nâng cao VHCT cho đội ngũ giáo viên THCS hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng VHCT của đội ngũ giáo viên THCS ở huyện
Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao VHCT cho đội ngũ
giáo viên THCS trong cả nước nói chung và giáo viên THCS trên địa bàn huyện
Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu vấn đề VHCT của đội ngũ giáo viên THCS, qua đó làm
rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao VHCT cho đội
ngũ này.
Phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát, điều tra, nghiên cứu vấn đề VHCT của đội ngũ giáo viên THCS ở
huyện Hòn đất, tỉnh Kiên giang trong giai đoạn từ 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:


- Vận dụng kiến thức chính trị học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
phân tích, làm rõ những vấn đề VHCT cũng như vai trò của nó trong hoạt động
chính trị của chủ thể chính trị; kế thừa các thành tựu nghiên cứu của những người đi
trước về VHCT; dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguồn lực
con người để phân tích nhu cầu về chủ thể chính trị theo yêu cầu cách mạng hiện
nay.
Phương pháp nghiên cứu:

- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; tiếp cận đối tượng từ chính trị học; các phương pháp lịch sử - lôgíc,
phân tích – tổng hợp, khái quát hóa trong quá trình thực hiện luận văn.
5. Đóng góp về lý luận và thực tiễn cuả luận văn
- Luận văn phân tích, làm rõ tầm quan trọng và sự tác động đặc thù của
VHCT tới đội ngũ giáo viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang và đưa ra
những giải pháp sát thực, hữu hiệu nhằm nâng cao VHCT cho đội ngũ giáo viên
THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nói riêng và giáo viên THCS trên cả nước
nói chung.
- Luận văn làm rõ những đặc điểm, yêu cầu về VHCT đối với đội ngũ giáo
viên THCS ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang trong việc nâng cao chất lượng của
đội ngũ cán bộ này.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
VHCT và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy trong các trường THCS trên
địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nói riêng và các trường THCS trong cả
nước nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.



B. NỘI DUNG
Chương 1
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Văn hóa chính trị
1.1.1. Khái niệm văn hóa chính trị
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa

Văn hoá là một khái niệm đa diện, đa nghĩa do vậy sự biện giải về văn hóa có
vô vàn những cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét về đặc trưng văn hoá, mỗi quốc gia
đều có những nét riêng của mình. Còn về mặt địa lý, thế giới hiện tại coi như được
chia thành 2 phần Đông và Tây với ranh giới là đường nối liền chạy chéo từ lưu vực
sông Nile đến dãy Ural; theo đó văn hoá thế giới có thể phân thành hai loại hình,
văn hoá phương Đông - trọng tĩnh và văn hoá phương Tây - trọng động, tương ứng
với hai nguồn gốc nông nghiệp và nguồn gốc du mục. Văn hóa gốc nông nghiệp
trong ứng xử với môi trường tự nhiên có ý thức tôn trọng, sống hoà hợp với thiên
nhiên, lối tư duy tổng hợp, biện chứng, chủ quan, cảm tính và kinh nghiệm; ứng xử
với môi trường xã hội thì dung hợp trong tiếp nhận. Mềm dẻo hiếu hòa trong đối
phó. Văn hóa du mục luôn muốn chinh phục và chế ngự thiên nhiên, lối nhận thức
về phân tích, khách quan, lý tính và thực nghiệm, ứng xử trong xã hội theo cách độc
tôn khi tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó. Tuy nhiên, hiểu nội hàm của
văn hoá không tách biệt rạch ròi như vậy. Có nhiều học giả gắn khái niệm văn hoá
với các nền văn minh, hoặc với thực tế về chính trị, kinh tế, tôn giáo, khoa học kỹ
thuật, đạo đức và xã hội. Nhà xã hội học Mỹ Clifford Geertz quan niệm : khái niệm
văn hoá chính là những ý nghĩa được lưu truyền trong lịch sử thể hiện trong những
hình thái hành vi, một hệ thống nhận thức được truyền giữ thể hiện cách thức mà


theo đó con người trao đổi, cư xử với nhau và phát triển nhận thức của mình về cuộc
sống.
Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội
loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm.
Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hoá: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà
giáo hoá thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ). Ở phương Tây, để chỉ
đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ kuitura. Những
chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ
cultus là văn hoá với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự
nhiên và giáo dục cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ

có những phẩm chất tốt đẹp.
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hoá (văn
minh) thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hoá
của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hoá hướng về trí lực
và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B. Taylor là đại diện của họ.
Theo ông, văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có
được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Ở thế kỉ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi theo F. Boas, ý nghĩa văn hoá
được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải
theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn hoá không xét
ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác, trong quá trình lao động, ý thức của con
người xuất hiện, và ngay trong hoạt động lao động đó, con người đã tạo ra văn hóa.


Trong mấy thập kỷ vừa qua, vị trí vai trò của văn hóa ngày càng được khẳng
định trong đời sống nhân loại cũng như sự phát triển bền vững của các quốc gia,
khái niệm văn hóa ngày càng được nhắc đến nhiều hơn, trở nên phổ biến và thâm
nhập vào trong mọi hoạt động của con người.
Theo ông Phederico Mayo – Tổng giám đốc UNESCO thì: “Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị,
các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân
tộc” [28, tr.31]. Định nghĩa trên đã tiếp cận văn hóa dưới góc độ hoạt động và văn
hóa là hệ thống giá trị chuẩn mực đồng thời nhấn mạnh đặc tính dân tộc của văn
hóa.
Ở Việt Nam, trước cách mạng Tháng Tám, đã có một số học giả trong và
ngoài nước nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Đề cương văn hóa Việt Nam năm

1943 của Đảng ta và những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lĩnh vực văn
hóa, tư tưởng đã đặt nền móng cho lý luận văn hóa theo quan điểm Mác – Lênin ra
đời.
Từ thực tiễn lịch sử lâu dài của dân tộc, trong tác phẩm “văn hóa đổi mới”, cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử
của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng các dân tộc Việt Nam
vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để
không ngừng phát triển và lớn mạnh, viết nên những trang sử lạ lùng bởi tính kiên
cường trong hoạn nạn, bởi khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước” [12,
tr.9] … “Cốt lõi của sức sống đó là văn hóa với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất
của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí
tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thụ cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh
và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình
và không ngừng lớn mạnh” [12, tr.10].


Là người am hiếu văn hoá phương Đông và phương Tây, Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn” [22, tr. 431]. Hồ Chí Minh nêu rõ, hoạt động sáng
tạo văn hóa là hoạt động có ý thức có mục đích của loài người. Văn hóa với quan
niệm rộng, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất, những giá trị tinh thần và
phương thức sinh hoạt.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa khơi dậy tiềm năng, phát huy sức sáng tạo của

con người, tạo ra sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần. Văn hóa
phải được đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị” [11, tr.36].
Để thích ứng với xu thế hội nhập, hợp tác hiện nay tại Hội nghị Trung ương 9
khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết đã
đưa ra mục tiêu chung để phát triển văn hóa giai đoạn hiện nay là: “Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện – mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” [4, tr.2].
Những định nghĩa về văn hóa dù phong phú đầy đủ đến cũng chỉ nêu bật
được một vài phương diện của văn hóa. Có thể nói, văn hóa là một khái niệm trừu


tượng, nội hàm của văn hóa không xác định cụ thể, nên rất khó có một định nghĩa rõ
ràng, đầy đủ, chính xác. Tuy vậy, từ những quan niệm trên, ta thấy, khái niệm văn
hóa có thể được nhận diện qua ba cấp độ khác nhau:
Ở mức độ đơn giản, văn hóa được xem là văn hóa nghệ thuật (văn hóa văn
nghệ). Ở mức độ phức tạp hơn, văn hóa còn được xem là lối sống (văn hóa đời
sống) bao gồm: ngôn ngữ giao tiếp, ẩm thực, cách cư xử, đạo đức, truyền thống, đức
tính…, tức là hệ thống các giá trị tinh thần của một nhóm người, một dân tộc hay
một xã hội. Với nghĩa rộng nhất, văn hóa được xem là tất cả những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con
người. Nói một cách đơn giản, văn hóa là tất cả những gì do con người, ở trong đời
sống xã hội của con người và liên quan trực tiếp đến con người.
Với cách tiếp cận như trên văn hóa có thể được hiểu, là một tập hợp bao gồm
hệ thống các giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng,
sức nhạy cảm tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của
cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và để không

ngừng lớn mạnh.
1.1.1.2. Khái niệm chính trị và mối quan hệ chính trị - văn hóa nhìn từ góc
độ chính trị học
Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và hình thành nhà
nước. Thuật ngữ chính trị xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là những công việc
liên quan tới nhà nước, là nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp nhất định để
thực hiện các mục tiêu của quốc gia.
Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối
quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội.
Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Thực chất, chính trị là mối quan hệ, sự
tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong xã hội với
quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó.


Trong các công việc chung của xã hội thì công việc của nhà nước chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế luôn luôn
muốn giành lấy vai trò thực hiện các công việc chung để xác lập và duy trì địa vị
thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, thực
chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay quanh vấn đề
giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước.
Từ thời cổ đại cho đến nay, nhiều nhà tư tưởng đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về phạm trù chính trị:
Nhà triết học cổ đại Hy Lạp – Platon đã cho rằng: “chính trị là sự cai trị, đó là
nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ, theo ông, cai trị bằng
sức mạnh là độc tài còn cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị” [10,
tr.7].
Nhà xã hội học Đức đầu thế kỷ XX – Maxweber, quan niệm: “chính trị là
khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa
các quốc gia, bên trong quốc gia, hay giữa các tập đoàn người trong quốc gia. Chính
trị là những mong muốn và những tương tác khách quan của cộng đồng người đối

với quyền lực” [10, tr.8]. Xuất phát từ quan điểm này, một số học giả khác hiểu
chính trị là sự khôn khéo, khả năng đạt được sự phân chia chức năng mà vẫn đảm
bảo duy trì sự tác động qua lại của chúng.
Kế thừa những tinh hoa nhân loại, với thế giới quan khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin đã đưa nhiều cách hiểu đúng đắn về chính trị.
Theo C.Mác: “Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị, ngay cả người thống
trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung,
như trong trường hợp của các giai cấp vô sản, thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm
lấy chính quyền, để đến lượt mình, có thể hiểu lợi ích của bản thân mình như là lợi
ích phổ biến, đều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu” [8, tr.48].


Như vậy chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp, giai cấp nào muốn nắm được
chính quyền, xóa bỏ xã hội cũ xây dựng xã hội mới, trước hết phải giành lấy chính
quyền.
Theo V.I.Lênin: “chính trị có lôgíc khách quan của nó, không phụ thuộc vào
dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay của đảng khác” [17,
tr.246]. Đây là một quan niệm khẳng định chính trị không phải hình thành theo ý
muốn của mỗi người, mỗi Đảng mà gắn với điều kiện của lịch sử cụ thể nhất định.
V.I.Lênin còn chỉ rõ: “chính trị là quan hệ giữa các giai cấp – là cái quyết
định vận mệnh của nước cộng hòa. Bộ máy là công cụ bổ trợ, nó càng vững mạnh
chừng nào thì càng tốt và càng có ích hơn cho những sự biến đổi. Nhưng không có
năng lực chấp hành sứ mệnh đó, thì cũng chẳng còn có tác dụng gì nữa” [20, tr.8788]. Như vậy, vấn đề Lênin quan tâm là “năng lực chấp hành sứ mệnh” của giai cấp.
Năng lực này không chỉ phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của giai cấp mà còn phụ
thuộc vào trình độ dân trí, trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Lênin
đã nhấn mạnh: “một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị, trước hết
phải dạy a,b,c,d…cho họ đã. Không thể, thì không thể có chính trị, không thế thì chỉ
có những tin đồn đại, những chuyện nhảm nhí, những chuyện hoang đường những
thiên kiến, chứ không phải là chính trị” [20, tr.218].

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đời sống xã hội có bốn lĩnh vực cơ bản là kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội, phải coi các lĩnh vực đều quan trọng như nhau. Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa, theo Người,
chính trị và văn hóa tồn tại trong thể thống nhất: Chính trị với văn hóa, văn hóa với
chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sau khi giành được độc lập Người đã
nhấn mạnh:… “Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy
sinh được. Nay nước ta đã độc lập, tinh thần được giải phóng, cần có một nền văn
hóa hợp với khoa học, hợp với nguyện vọng của nhân dân” [5,tr.10].


Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “văn hóa không đứng ngoài mà ở
trong kinh tế và chính trị”. Khái niệm “ở trong” theo Người, chính là mối quan hệ
toàn diện và hữu cơ của văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. Hoạt động văn
hóa nào cũng mang tính chính trị và mọi hoạt động chính trị đều mang tính văn hóa,
văn hóa phải trở thành động lực và mục tiêu của hoạt động chính trị.
Cùng với sự phát triển của đời sống chính trị, những kinh nghiệm chính trị
được tích lũy ngày càng phong phú và sâu rộng. Một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy xã hội phát triển chính là văn hóa. Văn hóa là động lực của sự phát
triển xã hội cũng như sự phát triển hiện thực chính trị. Nhu cầu nâng cao hiệu quả
hoạt động chính trị đã khái quát hóa kinh nghiệm chính trị thành lý luận chính trị, từ
đó tạo điều kiện cho sự tìm tòi, tiếp cận đúng quan niệm văn hóa chính trị.
1.1.1.3. Khái niệm văn hóa chính trị
VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp
(có chính trị), nhưng điều đó không có nghĩa VHCT là phép cộng giản đơn giữa văn
hóa với chính trị, mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau
giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa.
Nếu hiểu VHCT như là những giá trị phản ánh quá trình tìm kiếm, thử
nghiệm những phương thức, con đường để nâng cao chất lượng, hiệu quả và góp
phần nhân đạo hóa các quá trình chính trị thì từ lâu nó đã là đối tượng nghiên cứu
của nhiều nhà tư tưởng lớn thời cổ đại như: Platôn, Aristốt... (ở phương Tây);

Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử, Hàn Phi... (ở phương Đông). Nó cũng được tiếp tục
phát triển và được thể hiện trong các tư tưởng chính trị của các nhà chính trị tư sản
cận đại nổi tiếng như Môngtetxkiơ (1689-1755), Vôn te (1694-1778), Rút xô (17121778).
Đến những năm 1950, hai nhà chính trị học Mỹ H.Almond và H.Paul đã đưa
ra định nghĩa VHCT cho đến nay vẫn được nhiều người đồng tình: "Văn hoá chính
trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia


trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị
và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa”.
C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm VHCT, nhưng
trong hệ thống học thuyết của các ông đều toát lên những tư tưởng, quan điểm cơ
bản về VHCT trên mọi khía cạnh đời sống chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động như: vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới; vấn đề xây dựng con người XHCN; vấn đề dân chủ XHCN...
Những nhà chính trị học mácxít đã đưa ra nhiều định nghĩa về VHCT do sự
khác nhau về cách tiếp cận. Theo từ điển chính trị rút gọn của Liên Xô (trước đây)
các tác giả cho rằng: “Văn hoá chính trị là trình độ và tính chất của những hiểu biết
chính trị, những nhận định, những hành vi của công dân, cũng như nội dung, chất
lượng của những giá trị xã hội, những chuẩn mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ
thống tổ chức quyền lực, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều
chỉnh hành vi và quan hệ xã hội”.
Trong lịch sử Việt Nam, ông cha ta cũng để lại nhiều tư tưởng chính trị quí
giá, thể hiện nhãn quan VHCT sâu sắc. Tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia, tư tưởng "khoan dân", "nhân nghĩa"... đã trở thành triết lý sống của người
Việt Nam, cho đến nay những giá trị đó vẫn còn nguyên ý nghĩa.
Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của VHCT theo cả mô thức dân
tộc - khoa học - đại chúng trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
đồng thời Người xác lập quan hệ văn hoá - chính trị trên nền tảng dân tộc với nội
dung XHCN trong giai đoạn cách mạng XHCN. VHCT được tạo lập trong các quan

hệ chính trị mới, mà trong những quan hệ đó đánh dấu sự trưởng thành về nhân cách
chính trị của nhân dân, làm gia tăng các khả năng sáng tạo của quần chúng nhân
dân.
Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng VHCT của Hồ Chí
Minh là xã hội mới phải có con người mới đại diện cho nó: "Muốn xây dựng


CNXH, trước hết cần có những con người XHCN" [14, tr.106]. Đối với Hồ Chí
Minh, xây dựng thành công con người mới XHCN là xác lập cơ sở bền vững của
VHCT mới.
Sự lựa chọn con đường kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô
sản là sự lựa chọn mang tính VHCT sâu sắc. Quan điểm về một xã hội mới phải là
một xã hội không có áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, áp bức con người....Hồ Chí
Minh đã đặt cơ sở cho việc hình thành một tư duy chính trị mới. Với địa vị chính trị
mới trong xã hội, giai cấp vô sản và nhân dân lao động thiết lập nên các quan hệ
VHCT mới - đó là khối liên minh công - nông - trí thức như nền tảng chính trị của
CNXH. Trong quan hệ đó, giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo chính trị, nhưng đội ngũ cán bộ của nó
trong quan hệ quyền lực chỉ là những “đầy tớ” trung thành của nhân dân, nhân dân
là người làm chủ quyền lực chính trị thực sự. VHCT trong tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ mang nội dung giai cấp công nhân, mà còn là tổng hợp các giá trị văn hoá
người Việt. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chấp nhận một kiểu VHCT dựa trên cơ sở
tăng trưởng kinh tế nhưng lại kéo theo sự nô dịch con người hoặc tạo ra các phản
giá trị về nhân cách con người. VHCT cũng là loại hình văn hóa hướng con người
làm việc thiện, gắn với các lợi ích kinh tế, chính trị, nhưng nó phải là sự hài hòa, sự
liên hiệp giữa cộng đồng và cá nhân, giữa truyền thống với hiện đại, giữa kinh tế và
văn hóa, giữa giá trị vật chất và phi vật chất, giữa bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp
biến văn hóa quốc tế... trên nền tảng giá trị chân, thiện, mỹ.
VHCT là một khái niệm chính trị học hiện đại, mới ra đời và đang được làm
phong phú thêm trong tiến trình phát triển môn chính trị học ở các nước khác nhau,

gắn liền với các chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Vì vậy khó có thể đưa ra một
khẳng định thống nhất. Nhìn chung, VHCT là khái niệm dùng chỉ mối quan hệ giữa
truyền thống xã hội (thường được gọi là văn hóa) đối với hành vi tham gia chính trị
của con người, tức là giữa văn hóa và sự vận hành của thể chế chính trị. Văn hóa


gắn liển với dân tộc, phản ánh bản sắc độc đáo của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có nền
văn hóa riêng. Trong thực tế cùng một chế độ chính trị, nhưng ở mỗi nước khác
nhau thì chế độ ấy có những biểu hiện khác nhau, bởi vì người dân (nhất là người
lãnh đạo nhà nước) tham gia hoạt động chính trị ở từng nước chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi truyền thống văn hóa của dân tộc mình, vì vậy hoạt động chính trị của họ có
sắc thái riêng phản ánh nền văn hóa đó. Mỗi dân tộc có truyền thống VHCT riêng,
nó tác động to lớn đến sự phát triển chính trị của dân tộc đó.
Như vậy, VHCT là một hệ thống giá trị văn hóa được con người tiếp nhận và
lựa chọn, biến nó thành nhu cầu, thành vũ khí, phương tiện trong hoạt động chính
trị. VHCT là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành trong thực
tiễn chính trị. Nó chi phối hoạt động của các cá nhân, các nhà chính trị và định
hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị.
1.1.2. Cấu trúc, đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị
1.1.2.1. Cấu trúc của văn hóa chính trị
Cấu trúc của VHCT là một hệ thống giá trị bao gồm nhiều nhân tố cấu thành,
chúng có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
Tri thức, sự hiểu biết, giác ngộ khoa học về chính trị
Đây là giá trị nền tảng của VHCT, được định lượng một cách phổ biến bởi tri
thức chính trị. Tri thức chính trị là trình độ học vấn và sự hiểu biết của con người về
chính trị. VHCT luôn cần và cần phải có học vấn chính trị. Tuy học vấn và văn hóa
là hai khái niệm không đồng nhất với nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trình độ học vấn giúp cho các chủ thể hiểu biết và nhận thức rõ hơn về
các giá trị văn hóa, từ đó xác định các nguyên tắc, lý tưởng sống cho bản thân mình,
lúc đó trình độ học vấn đã trở thành một khía cạnh của nhân cách văn hóa. Ngược

lại, văn hóa lại khẳng định những giá trị xã hội của học vấn, chủ thể nào có trình độ
học vấn mà không cống hiến cho xã hội, thậm chí phá hoại xã hội thì học vấn đó
đứng ngoài văn hóa. Có trình độ học vấn, quần chúng nhân dân tự giác và nâng cao


ý thức trách nhiệm, tham gia tích cực và có hiệu quả trong thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Nói về vai trò của học vấn đối với chính trị, V.I. Lênin có một nhận xét nổi
tiếng: “Người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”. Chính trị là trí tuệ,
không có tri thức chính trị khó có thể đạt tới trình độ tự giác, tích cực. Những biểu
hiện phiêu lưu, manh động, tính tự phát vô chính phủ trong các hành vi chính trị
phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu hiểu biết, thiếu sự dẫn dắt của lý trí sáng suốt,
tỉnh táo tức là thiếu lý luận khoa học; “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn là
thực tiễn mù quáng”. Kinh nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn cho thấy, nhiệt tình
không dựa trên cơ sở hiểu biết nhiều khi dẫn tới hành vi phá hoại, cản trở xu thế
phát triển nói chung.
Sự hiểu biết chính trị không chỉ biểu hiện ở trình độ học vấn chính trị mà còn
ở trình độ kinh nghiệm, sự khôn ngoan, sự từng trải, sự nhạy bén, mẫn cảm... về
chính trị được tích lũy qua thực tiễn chính trị của chủ thể. Ở đó trình độ học vấn
được thẩm thấu vào hành vi nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của con người, trở thành
những giá trị ứng xử của con người dưới dạng nguyên tắc sống hướng tới chân,
thiện, mỹ, giúp chủ thể khắc phục căn bệnh chủ quan, duy ý chí.
Về lý thuyết, giữa học vấn chính trị và kinh nghiệm chính trị thì học vấn
chính trị có vị trí chi phối, nhưng trong thực tiễn khó khẳng định được cái nào quan
trọng hơn cái nào. Do vậy, tri thức chính trị và sự hiểu biết chính trị với tư cách là
nhân tố cấu thành VHCT phải là sự thống nhất giữa tri thức lý luận và tri thức kinh
nghiệm, trong đó tri thức lý luận càng đạt tới tính khách quan, khoa học bao nhiêu
càng có vai trò to lớn, mở đường cho hành động đúng bấy nhiêu; nó giúp cho các
chủ thể nhận thức rõ bản chất các quá trình chính trị, các qui luật chính trị, các lợi
ích chính trị. Tri thức kinh nghiệm sẽ là những giá trị tăng thêm sức mạnh cho tri

thức lý luận, nhưng nó chỉ trở thành giá trị VHCT khi nó kết hợp với tri thức, lý
tưởng và niềm tin chính trị. Tuyệt đối hóa kinh nghiệm là sai lầm, “bệnh kinh


nghiệm” sẽ trói cột con người, không dám thừa nhận cái mới, áp dụng kinh nghiệm
một cách máy móc, chủ quan trong giải quyết các vấn đề chính trị. VHCT sẽ là
“vòng kim cô” tốt nhất để điều khiển và phát huy tốt những giá trị quí báu của kinh
nghiệm chính trị. Vì vậy, tuyệt đối hóa hoặc phủ nhận vai trò của yếu tố nào cũng
đều hạ thấp giá trị và trình độ VHCT. Nếu văn hóa là thước đo trình độ hiểu biết thì
VHCT phải được xem là trình độ giác ngộ khoa học về chính trị. Sự hiểu biết đúng
đắn, khoa học về chính trị cùng với sự hỗ trợ quan trọng của kinh nghiệm chính trị,
kinh nghiệm sống của các chủ thể chính trị giúp họ nâng cao tính tự giác trong hoạt
động thực tiễn.
Trong đời sống chính trị hiện đại, sự đa dạng, phức tạp về chủ thể chính trị,
sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và trình độ dân trí ngày càng cao,
nền kinh tế phát triển theo xu hướng xã hội hóa và toàn cầu hóa, cùng với sự phát
triển của nhân loại lấy mục đích nhân đạo, nhân văn, dân chủ làm định hướng lý
tưởng mà nội dung cơ bản là giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người ở cấp
độ cá nhân lẫn xã hội đã tạo ra những phương thức, những công cụ để giành, giữ và
thực thi quyền lực chính trị phong phú hơn, trí tuệ hơn và nhân đạo hơn.
Niềm tin, tình cảm và lý tưởng chính trị
Niềm tin và tình cảm chính trị được hình thành bằng những con đường khác
nhau, ở mỗi đối tượng cụ thể trong một không gian và thời gian chính trị nhất định.
Niềm tin và tình cảm chính trị là sự bộc lộ những phẩm chất, sắc thái cá nhân đối
với lý tưởng, chế độ chính trị, nhà nước, chính đảng, đối với các cơ quan lãnh đạo,
các nhà lãnh đạo... Nếu là kết quả của nhận thức đúng đắn, sâu sắc về lý tưởng
chính trị đã lựa chọn, không chịu bất cứ sự áp đặt, cưỡng bức nào thì niềm tin chính
trị sẽ mang tính ổn định và bền vững, cả khi đời sống chính trị thuận lợi, cả trong
những lúc biến động nhiều trắc trở, khó khăn. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là ví dụ sinh động về điều này. Với niềm tin

trên cơ sở khoa học và cách mạng, nhiều cán bộ cách mạng và quần chúng nhân dân


×