Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phương pháp tiến hành cuộc thanh tra và một số sai phạm thường gặp khi thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.48 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, đảm bảo công
bằng xã hội, khuyến khích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Hiện nay,
yêu cầu quản lý Nhà nước về lĩnh vực thuế ngày càng đòi hỏi phải công khai,
minh bạch, rõ ràng, đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội. Để làm được điều
này ngoài việc ban hành hệ thống chính sách hợp lý, đúng đắn, tổ chức quản
lý khoa học thì cần phải tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời
các trường hợp vi phạm pháp luật thuế, bảo đảm tính công bằng trong thực thi
pháp luật thuế, làm cho người nộp thuế luôn ý thức được rằng có một hệ
thống giám sát hiệu quả tồn tại, từ đó thúc đẩy họ tự giác tuân thủ pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp là một công đoạn, thực hiện
quản lý nhà nước của cơ quan Thuế nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh
của chủ thể quản lý tới các đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu: ngăn
ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi trốn thuế, chống thất thu, nhằm tăng thêm
số thu vào ngân sách trong tổng số thu hàng năm của Nhà nước.
Hiện nay tôi được tham gia học tập lớp Nghiệp vụ thanh tra viên chính
- Chuyên ngành Thuế tại thành phố Hà nội ngày 08/4/2010 đến 18/5/2010.
Với những kiến thức tiếp thu được, những tài liệu tham khảo và những kinh
nghiệm thực tế, tôi xin trao đổi thêm về hoạt động thanh tra, kiểm tra hiện nay
qua nội dung tiểu luận: "Phương pháp tiến hành cuộc thanh tra và một số
sai phạm thường gặp khi thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp".
Với thời gian có hạn, việc nghiên cứu chưa nhiều, khả năng nhận thức
của bản thân, kinh nghiệm trong thực tế còn hạn chế, nên bài tiểu luận còn
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo để bài
tiểu luận được tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã giúp tôi có thêm những
kiến thức và kinh nghiệm quý báu về nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra.


PHẦN I


NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH CUỘC THANH TRA
I/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾN HÀNH CUỘC THANH TRA
1. Khái niệm thanh tra
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước, là hoạt
động kiểm tra, xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý Nhà nước đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức cá nhân;
được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật
để kiến nghị các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần để
kiến nghị các biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố tích cực, góp phần để
nâng cao hiệu quả, hiêu lực của hoạt động quản lý Nhà nước, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, các quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản
lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định.
Tiến hành cuộc thanh tra là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp
nghiệp vụ thanh tra để thu thập thông tin, tài liệu, hồ sơ từ đó nhận xét, đánh
gía, kết luận việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và các quy định
của Nhà nước đối với các cơ quan, tổ chức cá nhân là đối tượng thanh tra theo
một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm phục vụ cho công tác quản
lý Nhà nước.
Kết thúc cuộc thanh tra phải đưa ra được kết luận, kiến nghị hoặc quyết
định biện pháp chấn chỉnh, phòng ngừa, xử lý, các sai phạm, phân tích rõ
nguyên nhân khách quan, chủ quan và phát hiện những nhân tố tích cực để
phát huy.


Kiến nghị qua thanh tra hoặc quyết định xử lý của cấp có thẩm quyền

không những xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm, góp phần
giữ vững kỷ cương pháp luật mà điều quan trọng là để phòng ngừa, ngăn
chặn các sai phạm.
2. Nguyên tắc hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc thanh tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những chuẩn mực
mà các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức thanh tra, cán bộ, thanh tra
viên phải tuân theo trong quá trình hoạt động thanh tra.
2.1. Nguyên tắc tuân thủ theo pháp luật, chịu trách nhiệm cá nhân
trước pháp luật trong hoạt động thanh tra.
Theo nguyên tắc này thì thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Thủ
trưởng cơ quan thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên trong hoạt
động phải tuân theo các quy định của luật thanh tra và các quy định khác của
pháp luật có liên quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và
quyết định của mình.
2.2. Bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân
chủ, kịp thời.
Nguyên tắc này thể hiện: - Hoạt động thanh tra phải đảm bảo công
khai, dân chủ kịp thời, các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý thanh tra phải
đảm bảo chính xác, khách quan trung thực;
Nghiêm cấm việc cố ý kết luận sai sự thật, quyết định, xử lý trái pháp
luật, bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật.
2.3. Không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh
tra.
Nguyên tắc này thể hiện: Nghiêm cấm các hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó
khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra, cố ý kết luận sai sự thật, quyết định,
xử lý trái pháp luật, bao che cho người có hành vi vi phạm; tiết lộ các thông


tin tài liệu về nội dung thanh tra trong quá trình thanh tra khi chưa có kết luận

chính thức.
3. Trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra.
3.1. Tiến hành cuộc thanh tra là một phương thức hoạt động cơ bản
của công tác thanh tra.
Tiến hành thanh tra là sử dụng tổng hợp xử lý thông tin nghiệp vụ
thanh tra để thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ, qua xử lý thông tin bằng
xác minh, đối chiếu, giám định, tổng hợp và phân tích để làm sáng tỏ và xác
định có chọn lọc những thông tin có giá trị sử dụng, nhằm kết luận rõ ưu,
khuyết điểm sai phạm trong quản lý, điều hành chính sách nhà nước.
Kết quả thanh tra là đưa ra được những kết luận, có thể là phát hiện
những nhân tố tích cực để phát huy, nhưng chủ yếu là kết luận và kiến nghị
hoặc quyết định xử lý phòng ngừa, chấn chỉnh, xử lý sai phạm.
Kiến nghị hoặc quyết định xử lý của cuộc thanh tra không chỉ nhằm xử
lý, mà điều quan trọng là để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. Trong phần
kiến nghị của cuộc thanh tra bao gồm kiến nghị các giải pháp chấn chỉnh quản
lý, các cơ chế chính sách cần bổ sung, sửa đổi và ban hành mới và các kiến
nghị hoặc quyết định xử lý kinh tế, hành chính và kiến nghị truy cứu trách
nhiệm hình sự (nếu có).
3.2. Các nguyên tắc tiến hành một cuộc thanh tra.
3.2.1. Coi trọng công tác chính trị - tư tưởng.
Công tác chính trị - tư tưởng nhằm thống nhất chung về mục đích, yêu
cầu thanh tra cần đạt được trong nội bộ Đoàn thanh tra, giữa những thành viên
đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra và đạt được sự nhất trí cao trong các cơ
quan chức năng có liên quan đến cuộc thanh tra.
3.2.2. Tuân thủ quy định của pháp luật, trong quá trình thanh tra và
thu thập xác minh chứng cứ.
Chủ thể thanh tra, đối tượng thanh tra và các cơ quan đơn vị hữu quan
đều phải tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra.



3.2.3. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thanh tra.
Đây là nguyên tắc rất cơ bản đòi hỏi Đoàn thanh tra phải nghiêm chỉnh
chấp hành.
- Tiến hành thanh tra theo đúng những nội dung, đúng thẩm quyền về
phạm vi, đối tượng đã ghi trong quyết định. Nếu có nội dung, tình tiết mới
xuất hiện nếu cần thiết phải báo cáo người có thẩm quyền đề ra quyết định bổ
sung kịp thời;
- Bảo đảm thời gian hoàn thành cuộc thanh tra theo quyết định. Nếu
kéo dài thời hạn phải có quyết định gia hạn của cấp có thẩm quyền;
- Chấp hành tốt kỷ luật về chế độ báo cáo;
- Kết quả cuộc thanh tra phải đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.
3.2.4. Bảo đảm tính trung thực, khách quan, hợp pháp, hợp lý.
Hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính trung thực, khách quan, hợp
pháp, hợp lý.
- Tính trung thực, khách quan biểu hiện ở chỗ: Kết luận thanh tra đánh
giá sự việc khách quan, đúng với sự thật, không suy diễn, áp đặt ý chí chủ
quan, không cắt xén, bóp méo sự thật.
- Tính hợp pháp biểu hiện ở chỗ: Kết luận thanh tra làm rõ đúng sai của
sự việc so với chuẩn mực do Nhà nước ban hành.
- Tính hợp lý biểu hiện ở chỗ: Kết luận thanh tra được xem xét, đánh
giá một cách hợp pháp, đồng thời xem xét giải quyết trong mối quan hệ tổng
thể, sát với thực tế đang xảy ra và đặt trong từng thời điểm lịch sử nhất định.
3.2.5. Không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng được
thanh tra.
Hoạt động thanh tra không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra; nghiêm cấm các hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra.



II. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH
TRA.
Khi tiến hành thanh tra cần phải bảo đảm thực hiện theo đúng những
thủ tục và trình tự nhất định mà pháp luật đã quy định.
1. Đối tượng người ra quyết định thanh tra.
Thủ trưởng các cơ quan thanh tra Nhà nước, thủ trưởng các cơ quan
quản lý Nhà nước là người có thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra.
1.1. Ban hành quyết định thanh tra.
Để chuẩn bị cho việc ban hành quyết định thanh tra cần chú ý đến các
vấn đề sau đây:
- Phân tích những trọng tâm, trọng điểm trong kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội thuộc quyền quản lý Nhà nước của mình;
- Thu thập và phân tích những đơn thư khiếu nại, tố cáo, những phản
ánh của công luận, báo chí đã nêu;
- Chấp hành các chỉ thị của cấp trên, tiến hành những cuộc thanh tra để
phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành quản lý;
- Khi cần thiết, cần tổ chức khảo sát ban đầu.
1.2. Chỉ đạo chặt chẽ đoàn thanh tra tiến hành cuộc thanh tra
Công tác này là thuộc người ban hành quyết định thanh tra để thực hiện
tốt thì người ban hành quyết định cần thực hiện những vấn đề sau:
- Chọn những người có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt tham
gia Đoàn thanh tra trong đó việc chọn cử trưởng Đoàn thanh tra là rất quan
trọng.
- Chỉ đạo Đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra;
- Tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra các hoạt động của Đoàn thanh tra.
2. Trình tự tiến hành cuộc thanh tra.
Bước 1: Chuẩn bị thanh tra.
Chuẩn bị thanh tra được tính từ khi có quyết định thanh tra cho đến khi
Đoàn thanh tra công bố quyết định thanh tra tại cơ quan đối tượng thanh tra.



Để chuẩn bị được đầy đủ, chu đáo, đoàn thanh tra phải thực hiện một số
vụ việc cụ thể sau:
- Tìm hiểu để nắm tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra, phải
hiểu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra, tìm hiểu kỹ các chính
sách, cơ quan quản lý lĩnh vực hoạt động của đối tượng...;
- Thống nhất, quán triệt nội dung, quyết định kế hoạch, phương pháp
tiến hành cuộc thanh tra;
- Chuẩn bị đủ kinh phí, phương tiện vật chất, tạo điều kiện cho cuộc
thanh tra tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
Nội dung bước chuẩn bị gồm:
+ Nghiên cứu quán triệt mục đích, yêu cầu nội dung cuộc thanh tra.
+ Thu thập và xử thông tin cần thiết.
+ Xây dựng và trình duyệt kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra.
+ Tổ chức tập huấn
+ Xây dựng nội quy làm việc của Đoàn thanh tra
+ Chuẩn bị đề cương để yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo.
+ Chuẩn bị kinh phí phương tiện vật chất,.
Bước 2: Trực tiếp tiến hành thanh tra.
Trực tiếp tiến hành thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định
thanh tra tại đơn vị được thanh tra cho đến khi kết thúc việc thanh tra tại đơn
vị. Thời hạn thanh tra cụ thể được ghi trong quyết định thanh tra, do yêu cầu
cần thiết nếu kéo dài thời hạn tiến hành cuộc thanh tra phải có quyết định gia
hạn cuộc thanh tra bằng văn bản và không quá thời hạn pháp luật quy định.
Nội dung tíên hành thanh tra:
* Công bố quyết định thanh tra.
Ngày làm việc đầu tiên của Đoàn thanh tra với đối tượng có nội dung
chủ yếu là công bố quyết định thanh tra, thống nhất giữa Đoàn thanh tra với
đối tượng thanh tra về quan điểm nhận thức, mục đích, yêu cầu, nội dung
cuộc thanh tra, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người tiến hành thanh



tra cũng như đối tượng thanh tra theo quy định của pháp luật đề ra chương
trình và quan hệ công tác.
Tại phiên họp công bố quyết định thanh tra cần thiết phải có mặt thủ
trưởng đơn vị, thủ trưởng các phòng, ban, đơn vị có liên quan trực thuộc của
đối tượng. Trong một cuộc thanh tra có thể mở rộng đến đại diện tổ chức
Đảng, công đoàn, thanh tra nhân dân, đại diện cơ quan quản lý đơn vị được
thanh tra.
Trưởng Đoàn thanh tra phải thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình
để công bố công khai, dân chủ về mục đích, yêu cầu, nội dung, thời hạn cuộc
thanh tra đã ghi trong quyết định, trưởng đoàn thanh tra phải làm tốt công tác
chính trị - tư tưởng làm cho đối tượng thanh tra thông suốt quan điểm, nhận
thức đúng đắn về cuộc thanh tra, thống nhất với đối tượng về lĩnh vực làm
việc và nội dung cần thiết khi làm việc tại cơ quan đơn vị.
Nghe đối tượng thanh tra báo cáo.
Đối tượng thanh tra báo cáo với Đoàn thanh tra bằng văn bản theo đề
cương Đoàn thanh tra yêu cầu. Đoàn thanh tra có thể yêu cầu đối tượng trình
bày báo cáo bổ sung.
Đoàn thanh tra nghiên cứu, phân tích báo cáo của đối tượng thanh tra,
khai thác làm rõ một số nội dung sau:
+ Những mâu thuẫn giữa sự việc với quy định quản lý;
+ Những vấn đề có dấu hiệu vi phạm pháp luật, đoàn thanh tra cần tập
trung thanh tra, kiểm tra chi tiết những trọng tâm, trọng điểm.
Việc công bố quyết định thanh tra phải được lập biên bản.
* Thực hiện các nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra
Sau khi công bố quyết định thanh tra, các thành viên đoàn thanh tra
phải tiến hành phần việc được giao.
Để tiến hành thanh tra. Đoàn thanh tra phải yêu cầu đơn vị được thanh
tra cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra.



Khi đơn vị được thanh tra cung cấp hồ sơ tài liệu, cán bộ thanh tra phải
kiểm tra thực trạng tài liệu, chất lượng hồ sơ tài liệu có đúng yêu cầu và đảm
bảo đúng quy định của pháp luật không. Khi nhận hồ sơ tài liệu phải lập biên
bản giao nhận, đồng thời khẩn trương nghiên cứu khai thác tài liệu đó. Trong
quá trình thanh tra, đoàn thanh tra phải trực tiếp quản lý hồ sơ tài liệu yêu cầu
đơn vị được thanh tra có các biện pháp bảo vệ an toàn tài liệu. Cán bộ thanh
tra, tuyệt đối không được để thất lạc, làm hư hỏng cũng như tiết lộ các thông
tin tài liệu của đơn vị được thanh tra. Việc thu giữ hồ sơ tài liệu là rất cần
thiết. Nhưng đoàn thanh tra cần lưu ý không làm ảnh hưởng đến hoạt động
bình thường của đơn vị được thanh tra.
Phương pháp kiểm tra hồ sơ tài liệu phong phú, đa dạng. Tuy theo yêu
cầu và nội dung mỗi cuộc thanh tra hay mỗi vấn đề cần thanh tra mà áp dụng
những biện pháp khác nhau.
Quá trình nghiên cứu, xem xét hồ sơ tài liệu phát hiện những vấn đề sai
phạm phải phân tích rõ nguyên nhân, mối quan hệ của vấn đề sai phạm với
các nội dung khác, lập biên bản yêu cầu đối tượng thanh tra ký biên bản xác
nhận số liệu. Những vấn đề nghi vấn phải được tổ chức xác minh kịp thời.
Kết quả làm việc, kiểm tra xác minh được ghi lại bằng biên bản và đọc
cho đối tượng nghe và yêu cầu họ ký vào biên bản.
* Tổ chức nghe ý kiến phản ánh của quần chúng và công luận báo chí.
* Tổ chức đối thoại, chất vấn.
Tóm lại, trực tiếp tiến hành thanh tra là quá trình thu thập thông tin và
chứng cứ, thông qua xác minh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp một cách một
cách khoa học, khách quan, trung thực để đoàn thanh tra có được đầy đủ căn
cứ vững chắc để đi đến kết luận theo nội dung vấn đề hoặc toàn diện cuộc
thanh tra.
Bước 3: kết thúc cuộc thanh tra.
Kết thúc cuộc thanh tra phải đưa ra được kết luận thanh tra. Nội dung

bước này cần thực hiện theo trình tự sau:


- Từng thành viên hoặc nhóm thành viên tổng hợp kết quả, đưa ra
những kết luận, đề xuất hướng xử lý bằng văn bản, lập hồ sơ theo phần việc
được phân công bàn giao cho trưởng đoàn thanh tra;
- Trưởng đoàn thanh tra dự thảo văn bản kết luận thanh tra theo yêu cầu
của người ra quyết định thanh tra;
- Trưởng Đoàn tổ chức họp các thành viên trong Đoàn thanh tra theo
yêu cầu của người ra quyết định thanh tra;
- Trưởng đoàn thanh tra họp các thành viên trong đoàn để thảo luận dự
thảo kết luận thanh tra một cách công khai, dân chủ. Việc thảo luận phải lập
thành biên bản;
- Trưởng Đoàn thanh tra báo cáo dự thảo kết luận thanh tra với người ra
quyết định thanh tra, xin ý kiến chỉ đạo;
- Có thể thông báo dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra
biết để được quyền giải trình.
- Đoàn thanh tra tiến hành công bố kết luận thanh tra tại đơn vị được
thanh tra. Thành phần tham gia do Trưởng Đoàn thanh tra quyết định. Buổi
công bố kết luận thanh tra phải lập thành biên bản;
- Tổ chức họp Đoàn thanh tra để thảo luận nếu thấy cần thiết phải chỉnh
sửa kết luận thanh tra (có biên bản cuộc họp);
- Hoàn chỉnh văn bản kết luận thanh tra;
- Hoàn tất hồ sơ cuộc thanh tra;
- Báo cáo kết quả cuộc thanh tra khi có yêu cầu của cấp trên. Tổ chức
họp rút kinh nghiệm.


PHẦN II
MỘT SỐ SAI PHẠM THƯỜNG GẶP KHI THANH TRA, KIỂM TRA

THUẾ TẠI DOANH NGHIỆP.
Trong những năm gần đây và nhất là sau khi nước ta gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO Ngành thuế đã có những thay đổi liên tục về cơ chế
chính sách, thủ tục hành chính, đồng thời tham khảo và từng bước áp dụng
những kinh nghiệm về thuế của những nước tiên tiến trên thế giới. Sau khi hội
nhập để đáp ứng và phù hợp với những quy định của WTO, Nhà nước ta từng
bước thay đổi thuế xuất của nhiều mặt hàng từ 10% xuống 5% và 0% làm ảnh
hưởng đến nguồn thu ngân sách. Để cân đối thu chi nhà nước đã phải tăng thu
từ thu quyền sử dụng đất, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế trước bạ vv…
Nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới: Thực hiện cơ chế từ quản lý
đối tượng sang quản lý theo chức năng, tăng cường công tắc tuyên truyền hỗ
trợ, giám sát kê khai, thanh tra, kiểm tra thuế, người nộp thuế tự khai, tự tính,
tự nộp, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thực hiện cơ chế thông thoáng
trong việc kê khai nộp thuế của doanh nghiệp. Tuy nhiên lợi dụng những cơ
chế chính sách thông thoáng của nhà nước các doanh nghiệp có những thủ
đoạn trốn, lách thuế ngày càng phức tạp, tinh vi.
Vì vậy, để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các sai phạm trên cần phải
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, để có những kiến nghị với các cơ
quan quản lý nhà nước hoàn thiện thêm về cơ chế, chính sách, pháp luật xử lý
nghiêm minh những hành vi vi phạm của doanh nghiệp.
1. Một số sai phạm thường gặp khi thanh tra, kiểm tra thuế tại
doanh nghiệp hiện nay:
* Về Thuế giá trị gia tăng(GTGT):
- Có doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản: khi xuất khẩu thì thuế
GTGT đầu ra bằng không. Đó là chính sách của nhà nước để khuyến khích và
ưu tiên các đơn vị xuất khẩu nhằm tăng công ăn việc làm cho người lao động,


phát triển kinh tế và thu ngoại tệ về cho đất nước, theo đó yêu cầu các doanh
nghiệp phải tuân thủ nhũng quy định bắt buộc như hợp đồng ngoại phải dịch

tiếng việt, invoi, tờ khai hải quan phải khớp, bên trả tiền phải trả theo đúng
hợp đồng, nếu trả qua bên thứ ba phải có giấy uỷ quyền, tiền chuyển qua
Ngân hàng . Thực tế sau khi kiểm tra có đơn vị không đủ diều kiện trên thì
không được áp dụng thuế suất 0%, không phải tính thuế GTGT đầu ra nhưng
không được khấu trừ thuế đầu vào,còn nếu không tách riêng được thuế đầu
vào thì phải phân bổ thuế đầu vào theo tỷ lệ doanh thu trên tổng số thuế đầu
vào khấu trừ trong kỳ. Thực tế đơn vị không hạch toán vào chi phí thuế đầu
vào mà vẫn treo ở tài khoản 133 sau đó kỳ thuế sau xin hoàn thuế.
- Có đơn vị xin hoàn thuế GTGT trên 60 tỷ đồng trong đó có lô hàng
thuế GTGT đầu vào trên 30 tỷ đồng kê khai chậm quá 6 tháng mà vẫn làm thủ
tục xin hoàn lần đầu, khi vào kiểm tra phát hiện ra không những không được
hoàn số tiền 30 tỷ đồng trên mà còn bị phạt 10% và phạt hành chính về kê
khai sai.
* Về doanh thu: Các doanh nghiệp thường có hành vi gian lận, trốn
doanh thu bằng các hình thức sau:
- Không kê khai hàng hoá mua vào để trốn doanh thu đầu ra (thường
xảy ra tại các doanh nghiệp kinh doanh hàng điện tử, vật liệu xây dựng, kim
khí điện máy) vì đối tượng tiêu thụ các mặt hàng này chủ yếu là cá nhân, hộ
gia đình không cần hoá đơn;
- Một số trường hợp có phát sinh hoạt động kinh doanh nhưng không
kê khai hoặc kê khai không trung thực nhằm trốn thuế như bán lại thầu công
trình để hưởng chênh lệch, hoặc cho mượn tư cách pháp nhân của doanh
nghiệp, công ty, bán tài sản cố định;
- Không hạch toán đúng giá vốn hàng bán để hạch toán thấp hơn so với
giá bán thực tế;


- Không xuất hoá đơn và kê khai doanh thu phát sinh theo quy định,
thường xảy ra tại các doanh nghiệp kinh doanh ăn uống, dịch vụ khách sạn,
dịch vụ vận tải;

- Kê khai doanh thu thấp hơn thực tế thanh toán, nhất là các trường hợp
cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các cá nhân, hộ gia đình (vì các đối tượng này
sử dụng tiền mặt và không cần lấy hoá đơn) thường xảy ra tại các doanh
nghiệp kinh doanh nhà hàng ăn uống, dịch vụ khách sạn, xe gắn máy,điện
máy...;
- Giảm trừ doanh thu tính thuế thông qua các hình thức giảm giá, chiết
khấu không đúng quy định;
- Kê khai doanh thu không kịp thời nhằm kéo dãn thời gian phải nộp
thuế, thường xảy ra ở các doanh nghiệp xây dựng, bằng cách chuyển doanh
thu đã phát sinh treo trên tài khoản doanh thu chưa thực hiện, hạch toán vào
tài khoản phải trả khác...;
- Không quản lý sát được doanh thu của các nhà thầu nước ngoài.
* Về chí phí và thu nhập khác.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh tại Việt nam
khi nhập vật tư từ các công ty mẹ đều có hình thức chuyển giá, nâng giá làm
tăng chi phí, giảm lãi hoặc hoà hay lỗ để không phải nộp thuế TNDN. Có
những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam sau
thời gian được miễm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp lại tách hoặc thành lập
các các công ty, chi nhánh và coi đó là mới để được miễm, giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp;
- Công cụ, dụng cụ lao động có loại phân bổ nhiều lần nhưng xác định
là vật rẻ mau hỏng để phân bổ một lần;
- Mua và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để nâng khống chi phí hàng
hoá, dịch vụ mua vào, hợp thức hoá hàng mua trôi nổi trên thị trường, nâng
giá mua trên hoá đơn để tăng chi phí;


- Chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất có lãi nhưng kê
khai lỗ hoặc hoà vốn để trốn thuế TNDN;
- Không thực hiện công tác kiểm kê, không xác định số lượng và giá trị

nguyên vật liệu, sản phẩm, hàng hoá tồn kho, không đánh giá sản phẩm dở
dang cuối kỳ, kể cả giá trị xây lắp dở dang mà tính hết vào chi phí trong kỳ;
- Một số doanh nghiệp thương mại thường không phân bổ chi phí thu
mua cho hàng tồn kho mà tính hết vào chi phí kinh doanh trong kỳ;
- Về khấu hao tài sản cố định: Đưa vào chi phí khoản trích khấu hao
các tài sản không dùng cho sản xuất kinh doanh, hoặc trích khấu hao cao hơn
quy định;
- Chi phí tiền lương theo hợp đồng lao động và thực tế chi trả cho
người lao động khó kiểm tra xác định, không loại trừ trường hợp doanh
nghiệp chi trả thấp hơn hợp đồng lao động nhưng hạch toán chi phí tiền lương
theo hợp đồng lao động;
- Kê khai khoản chi phí khuyến mại, quảng caó vượt tỷ lệ quy định;
- Kê khai khống chi phí vận chuyển,lập chứng từ khống chi phí nhân
công, nhất là chứng từ thuê khoán lao động phổ thông tại các công trình
XDCB;
- Có những công trình đã được chủ đầu tư nghiệm thu thanh quyết toán
nhưng chưa thanh toán tiền nên các doanh nghiệp không kê khai tính thuế,
một số công trình có giá trị xây lắp bổ sung, phát sinh sau khi lập dự toán
doanh nghiệp chỉ kê khai gía trị hợp đồng chính còn phần bổ sung, phát sinh
không kê khai thuế;
- Lợi dụng một số mặt chính sách của Nhà nước và công tác quản lý
chưa đồng bộ nên một số doanh nghiệp kế khai khống các chi phí phát sinh
ngoài dự toán, vượt so với định mức, với giá trị lớn nhằm khấu trừ thuế
GTGT đầu vào và tăng chi phí, làm giảm thu nhập chịu thuế, giảm thuế
TNDN phải nộp.


2. Một số sai phạm điển hình được rút ra qua công tác thanh tra,
kiểm tra thuế tại Cục thuế Hà nội
Trong những năm qua nhờ làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra nên Cục

thuế Hà nội đã đạt được những kết quả đáng khích lệ kết quả thu năm sau cao
hơn năm trước. Công tác thanh tra, kiểm tra thuế cũng ngày càng hoàn thiện
hơn, qua thanh tra kiểm tra đã rút ra được những kinh nghiệm thực tế nhằm
ngăn ngừa, hạn chế việc trốn thuế của doanh nghiệp mà còn xác định những
thủ đoạn trốn thuế ngày càng phức tạp, đa dạng của doanh nghiệp từ đó có
biện pháp ngăn chặn xử lý. Cụ thể:
- Khi thanh, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp chuyên kinh doanh xây
dựng nhà chung cư để bán thì thấy trong quá trình xây dựng nhà chung cư
đơn vị huy động vốn của những người có nhu cầu mua nhà lên đến 50%, 60%
giá trị căn hộ sau khi bàn giao.Ví dụ một căn hộ giá trị 1,5 tỷ đồng doanh
nghiệp thu 0,8 tỷ đồng gọi là hình thức góp vốn, số tiền thu trước như vậy sau
này sẽ trừ vào giá trị còn lại phải trả khi nhận nhà. Tại doanh nghiệp trên sổ
sách đang hạch toán ở tài khoản phải thu, phải trả (TK 338). Qua kiểm tra thì
hình thức thu tiền trước của khách hàng đơn vị phải hạch toán doanh thu và
phải tính thuế. Như vậy quá trình huy động vốn đã xảy ra trước đó gần 2 năm
thì đợn vị phải tính thuế, truy thu, bị phạt về nộp chậm tiền thuế và phạt hành
chính vì không kê khai thuế;
- Tại một doanh nghiệp hoạt động tư vấn giám sát các công trình xây
dựng dân dụng và công nghiệp: Sau khi công ty nhận ký các hợp đồng tư vấn
đã ký với bên A, khi nhận về công ty giao cho các tổ đội, phòng ban, các
nhóm kỹ thuật, trên cơ sở giao khoán thu nộp về công ty để nộp thuế và trang
trải chi phí. Các nhóm trên chỉ phải bỏ ra chất xám, giấy in bản vẽ, photocopy
tài liệu. Các chi phí đầu vào rất ít hoá đơn mua vào nên khi kiểm tra đa số là
không hợp lệ, mặt khác do công ty quản lý kém nên các công trình tư vấn để
dở dang rất nhiều mà không thanh toán được, tiền không thu được nên không


hạch được doanh thu. Đến khi doanh nghiệp cổ phần hoá bắt đầu dọn dẹp đưa
vào lỗ thì không có căn cứ để hạch toán;
- Một số doanh nghiệp hoạt động về XDCB thì trong quá trình xây

dựng phải chi phí nhiều nơi nên phải hợp thức bằng cách mua hoá đơn của
một số đơn vị bỏ trốn. Khi thanh tra Chính phủ vào phát hiện ra một loạt vi
phạm trên lại phải gọi các doanh nghiệp lên lập biên bản và truy thu.

PHẦN III
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
I. KIẾN NGHỊ
Để công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp đạt mục đích và
hiệu quả cao, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
- Tăng cường biện pháp kiểm tra, giám sát việc kê khai thuế ngay sau
khi cơ quan thuế nhận tờ khai. Hiện nay tại Cục thuế Hà nội đang triển khai
hình thức kê khai qua mạng, bước đầu còn lúng túng xong đây là hình thức rất
tiên tiến cần được triển khai rộng rãi trên toàn quốc;
- Kiểm tra triệt để việc lợi dụng kẽ hở trong chính sách thuế để lách
luật trốn thuế. Bên cạnh đó, bằng nhiều hình thức, biện pháp phối hợp chặt
chẽ với các bộ phận có liên quan điều tra xác định đúng thu nhập chịu thuế,
xác minh thực tế nhằm phát hiện những hành vi trốn thuế. Để làm tốt việc
này, đòi hỏi phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của cán
bộ thuế. Khen thưởng thích đáng, kỷ luật nghiêm minh trong công tác hành
thu và chấp hành luật thuế;
- Áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, các phần mềm chương trình tra
cứu, đối chiếu hoá đơn trên cả nước, hoàn thiện chương trình quản lý cơ sở dữ
liệu của doanh nghiệp cũng như chương trình phân tích tình trạng thuế của
doanh nghiệp;


- Tăng cường thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành, tập trung thanh tra,
kiểm tra thực hiện các quy trình quản lý, chế độ quản lý ấn chỉ, thực hiện
miễn, giảm, hoàn thuế v.v... để chấn chỉnh kịp thời, tạo niềm tin của người
nộp thuế;

- Xây dựng kho dữ liệu thông tin về các đối tượng nộp thuế từ khâu lưu
trữ hồ sơ tại bộ phận làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra và các bộ phận lưu trữ
khác của đơn vị, để rà soát và chọn lọc chính xác số đối tượng được thanh tra,
kiểm tra trên cơ sở từ kho dữ liệu của cơ quan thuế;
- Cần chú trọng việc lựa chọn và sắp xếp bố trí cán bộ thanh tra, kiểm
tra đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có phẩm chất chính trị tốt, năng
lực chuyên môn giỏi và chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác thanh tra,
kiểm tra phù hợp để ngăn chặn tiêu cực phát sinh trong ngành thanh tra. Thực
hiện luân chuyển phải phù hợp nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ trong hoạt động thanh tra;
- Về nghiệp vụ, đề nghị Thanh tra Chính phủ hàng kỳ tổng hợp cho lưu
hành nội bộ ngành thanh tra về kỹ năng thanh tra và các hình thức gian lận
điển hình trong các vụ việc lớn để đội ngũ làm công tác thanh tra nắm bắt kịp
thời và nâng cao năng lực và nghiệp vụ của mình;
- Thường xuyên tổng hợp, phân tích rút ra những dấu hiệu vi phạm
mang tính phổ biến hoặc cá biệt, biện pháp, kiểm tra phát hiện và xử lý những
vi phạm để rút ra những kinh nghiệm chỉ đạo chung;
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ trương chính sách, pháp luật
làm cho mọi người tự giác chấp hành pháp luật, phát huy tinh thần làm chủ và
chức năng giám sát của nhân dân.
II. KẾT LUẬN
Trên cơ sở những sai phạm thường gặp và các sai phạm điển hình khi
thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại Cục thuế Hà nội, có thể nhận
thấy, công tác thanh tra, kiểm tra ngày càng được phát huy và đã đạt được
mục đích đề ra, đã khẳng định được vai trò thực hiện chức năng quản lý nhà


nước trong lĩnh vực thuế. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế và khó khăn nhất
định khi thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp, tôi đã
nêu một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra,.

Tóm lại, hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế đã góp phần
không nhỏ trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về thuế, là
phương tiện phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm nảy sinh
trong hoạt động quản lý thuế, có vai trò quan trọng trong cải cách thủ tục
hành chính về thuế cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa
các thủ tục, không cần thiết gây phiền hà đế người nộp thuế. Thông qua đó
nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.
Với thời gian có hạn, việc học tập chưa nhiều, khả năng nhận thức của
bản thân, kinh nghiệm trong thực tế còn hạn chế, nên chắc chắn bài viết này
còn những thiếu sót. Rất mong được các thầy cô giáo quan tâm, giúp đỡ đóng
góp để bài viết được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC



×