Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Một số giải pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học ở các trường THPT huyện cẩm xuyên, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________

______________

ĐOÀN TRỌNG HOÀNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG THPT
HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________

______________

ĐOÀN TRỌNG HOÀNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG THPT
HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC


Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Quốc Lâm

NGHỆ AN - 2015


3

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình, học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả đã
nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các
cấp lãnh đạo, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tác giả chân thành cảm ơn: Hội đồng đào tạo; Hội đồng khoa học
trường Đại học Vinh; Các đồng chí lãnh đạo và chuyên viên Sở Giáo dục và
Đào tạo Hà Tĩnh; Các đồng nghiệp thuộc các trường THPT Hà Huy Tập;
THPT Cẩm Bình; THPT Nguyễn Đình Liễn; THPT Cẩm Xuyên đã tận tình
cung cấp tài liệu, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở thực tế, đóng góp những ý
kiến quí báu cho việc nghiên cứu hoàn thành đề tài. Đặc biệt, tác giả xin bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Phan Quốc Lâm - người hướng dẫn khoa
học đã tận tâm bồi dưỡng kiến thức, phương pháp nghiên cứu, năng lực tư
duy và trực tiếp giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Mặc dầu rất cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được những lời chỉ dẫn
ân cần của các thầy giáo, cô giáo, ý kiến trao đổi của các đồng nghiệp để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2015
Tác giả


Đoàn Trọng Hoàng


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1.
2.

CBCC:
CBGV:

Cán bộ công chức.
Cán bộ giáo viên.

3.

CM:

Chuyên môn.

4.

CNH, HĐH:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

5.


CSVC:

Cơ sở vật chất.

6.

CT, SGK:

Chương trình, sách giáo khoa.

7.

ĐH:

Đại học.

8.

ĐHQG:

Đại học quốc gia.

9.

ĐHSP:

Đại học sư phạm.

10.


GD-ĐT:

Giáo dục và đào tạo.

11.

GV:

Giáo viên.

12.

HS:

Học sinh.

13.

KT- XH:

Kinh tế - xã hội.

14.

NXB:

Nhà xuất bản.

15.


PPDH:

Phương pháp dạy - học.

16.

PPDH:

Phương pháp dạy

17.

PTDH:

Phương tiện dạy học.

18.

PTKT:

Phương tiện kỷ thuật.

19.

QL:

Quản lý.

20.


QLDH:

Quản lý dạy - học

21.

QLGD:

Quản lý giáo dục.

22.

SGK:

Sách giáo khoa.

23.

THCS:

Trung học cơ sở.

24.

THPT:

Trung học phổ thông.



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục giữ một vị trí hết sức quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của một quốc gia. Thực tế trên thế giới hiện nay bất kỳ một Quốc gia nào
cũng xác định chiến lược phát triển toàn diện, nhanh và bền vững là phát triển
giáo dục. GD&ĐT vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, là con
đường quan trọng nhất để tạo nên nguồn lực con người. Sự đi lên bằng giáo
dục đã và đang trở thành con đường tất yếu của mọi thời đại. Điều đó khẳng
định rằng giáo dục giữ một vị trí quan trong sự nghiệp tồn tại và phát triển


6
của một đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chính sách để phát triển sự nghiệp giáo dục. Chiến lược phát triển
của nước ta hiện nay là nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nhân tài để
thực hiện rút ngắn thời kỳ CNH- HĐH đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX khẳng định: "Phát triển GD&ĐT là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền
vững”.
Ngày nay Việt Nam đang trong xu thế hội nhập Quốc tế về mọi mặt, dĩ
nhiên GD&ĐT cũng cần có những bước chuyển phù hợp với môi trường mới.
Việc nâng cao chất lượng đào tạo theo mục tiêu mới, các trường học phải đón
đầu, dự báo các sự kiện, cần đổi mới đồng bộ phương pháp dạy - học, tăng
cường CSVC, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý... nhằm tạo nên sự
cộng hưởng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI lại tiếp tục khẳng định phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo “ Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất

lượng giáo dục, đào tạo, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học, phương pháp thi và kiểm tra theo hướng hiện đại: nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục lịch sử
truyền thống cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỷ năng thực
hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”
Một trong những trọng tâm của đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục và
Đào tạo nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng là tập trung vào đổi mới
PPDH, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh
với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm phát triển tư duy
độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi
dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. Đồng thời vẫn
tiếp tục tận dụng các ưu điểm của phương pháp truyền thống và dần dần làm
quen với những PPDH mới.


7
Việc tìm kiếm các giải pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm thực hiện có
hiệu quả việc đổi mới PPDH trong các nhà trường không chỉ là nhiệm vụ của
các cấp quản lý giáo dục ở tầm vĩ mô, mà còn là nhiệm vụ cụ thể, trước mắt và
cấp bách của các cán bộ quản lý các nhà trường.
Nhưng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu,
tìm kiếm và đề xuất các giải pháp quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả việc đổi
mới PPDH cho các nhà trường ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Xuất phát từ lý luận, thực tiễn và đòi hỏi khách quan của công tác quản lý
giáo dục, tác giả chọn đề tài nghiên cứu:
Một số giải pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học ở các trường
THPT huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý đổi mới PPDH cho các trường THPT
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo

dục phổ thông.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Quá trình quản lý đổi mới PPDH ở các trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Các giải pháp quản lý đổi mới PPDH ở các trường THPT huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được các giải pháp quản lý đổi mới PPDH có
cơ sở khoa học và có tính khả thi, thì sẽ nâng cao chất lượng dạy và học ở
trường THPT đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về quản lý đổi mới PPDH ở trường THPT.
5.2. Đánh giá thực trạng quản lý đổi mới PPDH ở các trường THPT
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.


8
5.3. Đề xuất và thực hiện một số giải pháp quản lý đổi mới PPDH ở các
trường THPT huyện Cẩm Xuyên,
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ chọn 4 trường THPT
công lập trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh để nghiên cứu vấn đề đổi
mới PPDH, công tác quản lý hoạt động đổi mới PPDH. Từ đó đề xuất các giải
pháp quản lý hoạt động đổi mới PPDH cho các cơ sở giáo dục này.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận. Phân tích, tổng hợp, nghiên
cứu các tài liệu có nội dung liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1. Phương pháp quan sát: Quan sát quá trình dạy học của GV và HS.

7.2.1. Phương pháp điều tra: Nghiên cứu kế hoạch, hồ sơ chuyên môn,
hồ sơ quản lý; Tiến hành đàm thoại, phỏng vấn ý kiến của cán bộ quản lý,
giáo viên, học sinh ở các trường THPT huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia: Tiến hành phỏng vấn Hiệu trưởng, Phó
hiệu trưởng và các GV giỏi Tỉnh ở trường THPT huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà
Tĩnh.
7.2.4. Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh
nghiệm chỉ
đạo của Sở GD&ĐT và kinh nghiệm quản lý ở các trường THPT công
lập trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
7.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ.
Các phương pháp thống kê toán học sử dụng trong nghiên cứu khoa học
quản lý giáo dục.
8. Những đóng góp mới của luận văn.
8.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục và đổi mới
PPDH từ trước đến nay. Góp phần làm phong phú cơ sở lý luận của hoạt động
đổi mới PPDH; Quản lý đổi mới PPDH.


9
8.2. Khái quát được thực trạng đổi mới PPDH, thực trạng quản lý đổi
mới PPDH ở các trường THPT. Đánh giá nguyên nhân tồn tại.
8.3. Đề xuất được các giải pháp quản lý đổi mới PPDH ở các trường
THPT huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trước yêu cầu đổi mới giáo dục PT
hiện nay.
8.4. Đánh giá tác động và đề xuất các biện pháp thực hiện, triển khai các
giải pháp vào thực tiển dạy học.
8.5. Đề xuất được những kiến nghị cần thiết cho các cấp, các ngành trong
viêc đẩy mạnh công tác đổi mới PPDH ở các trường.
9. Cấu trúc luận văn.

Ngoài phần mở đầu; Kết luận và kiến nghị; Tài liệu tham khảo; Phụ lục
điều tra, nghiên cứu. Luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng quản lý đổi mới PPDH ở các trường THPT huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Những giải pháp quản lý đổi mới PPDH ở các trường THPT
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG THPT
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học. Cùng một nội dung như nhau, nhưng bài học có để lại những
dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn các em hay không, có làm cho các em yêu


10
thích những vấn đề đã học và biết vận dụng chúng một cách năng động, sáng
tạo để giải quyết các vấn đề bức xúc của cuộc sống hay không là tuỳ thuộc ở
phương pháp của người thầy.
Thấy rõ tầm quan trọng của PPDH trong việc đào tạo con người năng
động, sáng tạo, những phẩm chất nhân cách mà xã hội hiện đại xem là điều
kiện tồn tại của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Thời gian qua chúng ta đã có
nhiều công trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học.
Nhưng thực tiễn các nhà trường hiện nay vẫn chưa thật sự chuyển biến.
Phần lớn các thầy cô giáo vẫn dạy theo phương pháp cũ: Thầy đọc trò ghi,
học sinh bị nhồi nhét kiến thức trong sự quá tải về chương trình, nội dung dạy
học. Còn các phương pháp tích cực, sáng tạo mà ta mong muốn trở thành

những phương pháp chủ đạo trong nhà trường, chưa trở thành hiện thực. Mặc
dù vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định là một trong những
nội dung quan trọng nhất của hoạt động nhà trường thời gian qua. Chúng ta đã
hết sức cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học với mong muốn tạo
nên những bước đột phá trong việc thay đổi cách dạy, cách học cũ kĩ, lỗi thời
cho nên hiệu quả đạt dược vẫn còn hạn chế.
Có nhiều nguyên nhân hạn chế quá trình đổi mới phương pháp dạy học.
Chúng tôi cho rằng không phải chỉ do đội ngũ giáo viên chưa nhận thức đúng
về vấn đề này như một số công trình nghiên cứu về giáo dục đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng gần đây. Tiếp cận với đội ngũ giáo viên, có
thể thấy đa số họ đều tâm huyết, mong muốn đổi mới, nhưng lại lúng túng
không biết nên đổi mới cái gì, đổi mới như thế nào và bắt đầu từ đâu. Một
nguyên nhân quan trọng khác là thiếu các giải pháp quản lý đổi mới PPDH
phù hợp với thực tiễn từng cơ sở giáo dục nói chung và ở các trường THPT
nói riêng của các cấp QLGD. Quá trình đổi mới nhà trường cũng như đổi mới
phương pháp dạy học chịu sự tác động trực tiếp cách thức quản lý của CBQL
giáo dục. Nhìn từ góc độ quản lý, có thể nhận thấy rằng CBQL các trường
phần lớn mới chỉ dừng lại ở chủ trương, thiếu những biện pháp cụ thể để tác


11
động và liên kết người dạy với người học, họ chưa tạo được động lực cho việc
dạy học, chưa lựa chọn những nội dung đổi mới thiết thực, có trọng tâm, chưa
tổ chức quá trình đổi mới một cách khoa học, hữu hiệu.
Suy cho cùng nguyên nhân sâu xa của những tồn tại đó là do người
CBQL giáo dục chưa thật mặn mà với việc đổi mới phương pháp dạy học.
Mục đích của nhiều CBQL hiện nay là quản lý dạy học sao để học sinh thi lên
lớp, thi tốt nghiệp, thi đại học đạt tỉ lệ cao, sao cho nhà trường đạt được nhiều
giải thi học sinh giỏi tỉnh, quốc gia. Nếu dạy và học chỉ để thi (nhất là cách thi
cử hiện nay chỉ dựa vào một số môn học) rất vênh với mục đích đào tạo con

người phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo.
Vì vậy, để đổi mới phương pháp dạy học cần quan tâm tới vấn đề quản lý
phương pháp dạy học của CBQL giáo dục.
Với mong muốn góp phần khiêm tốn của mình vào việc đổi mới phương
pháp dạy học và quản lý đổi mới PPDH ở các trường THPT, tác giả đề tài
mạnh dạn nghiên cứu, tìm kiếm và đề xuất các giải pháp quản lý nhằm thực
hiện có hiệu quả đổi mới PPDH cho các trường các THPT ở huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Dạy học và phương pháp dạy học
1.2.1.1. Dạy học
Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức, có định
hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với
mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị
văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được
các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học
1.2.1.2. Phương pháp dạy học
Thuật ngữ “Phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là methodos, theo
nghĩa thông thường dùng để chỉ những cách thức, thủ đoạn nhất định, được
chủ thể hành động sử dụng để thực hiện mục đích đó vạch ra. Cũng theo
nghĩa chặt chẽ và khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được


12
rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận
thức và thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định.
"Phương pháp" nói chung là một khái niệm rất trừu tượng vì nó không
mô tả những trạng thái, những tồn tại tĩnh trong thế giới hiện thực, mà nó chủ
yếu mô tả phương hướng vận động trong quá trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người. Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt

động, tương tác giữa thầy và trò trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục
đích dạy học. Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng
nhất của quá trình dạy học và luôn là trung tâm chú ý của các nhà giáo dục
các nước.
"Phương pháp là sự vận động của nội dung", cho nên cùng với sự biến
đổi của nội dung dạy học thì phương pháp dạy học cũng đang được đổi mới
theo hướng hiện đại hoá.
1.2.2. Đổi mới và đổi mới phương pháp dạy học
1.2.2.1. Đổi mới
Đổi mới theo từ điển Tiếng Việt thì “ Đổi mới là làm thay đổi hoặc làm
cho thay đổi tốt hơn tiến bộ hơn so với trước”. Điều này cho thấy nội hàm của
khái niệm đổi mới nhằm chỉ những hoạt động của con người làm thay đổi
những cái cũ lạc hậu bằng cái mới tiến bộ hơn.
1.2.2.2. Đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách thức tổ chức các hoạt động
dạy học để xây dựng cách thức, phương pháp học tập của học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo qua đó bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn.
Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tìm kiếm các phương
pháp dạy học mới và cải tạo các phương pháp cổ truyền cho phù hợp với nội
dung hiện đại, theo hướng nâng cao tính tích cực độc lập, sáng tạo, nâng cao
năng lực nội sinh của người học, đổi mới cách điều khiển quá trình dạy học
và đưa công nghệ hiện đại vào nhà trường. Cụ thể là:


13
Các phương pháp dạy học phải góp phần hình thành động cơ nhận thức,
các phương pháp nhận thức, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, tự
khám phá để chiếm lĩnh tri thức.
Các phương pháp dạy học mới phải nhằm nâng cao tính tích cực, độc

lập, sáng tạo của học sinh, phát huy năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh
tế tri thức, việc cạnh tranh trên lĩnh vực "Trí tuệ" đang diễn ra rất gay gắt,
cách thức đào tạo con người có trí tuệ, giàu tính sáng tạo càng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng.
Các phương pháp dạy học phải phản ánh trong mình nó những thành tựu
của các phương pháp riêng của mỗi khoa học, các phương pháp triết học và
các phương pháp khoa học chung, bởi vì việc nắm vững các phương pháp này
có tác dụng đến việc phát triển tính độc lập, sáng tạo của mỗi học sinh.
1.2.3. Quản lý, quản lý nhà trường, quản lý đổi mới PPDH
1.2.3.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động lao động tất yếu trong quá trình phát triển của
xã hội loài người, nó được bắt nguồn và gắn chặt với sự phân công và hợp tác
lao động. Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “ Quản lý là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nhằm
thực hiện những mục tiêu dự kiến” [34,35].
Quản lý (QL) là thuộc tính bất biến, nội tại của mọi quá trình lao động
xây dựng, là yếu tố cấu thành sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Xã
hội càng phát triển, QL càng có vai trò quan trọng trong việc điều khiển các
hoạt động xã hội. Trong bộ "Tư bản", K.Marx đã nói đến sự cần thiết của QL:
"Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo. Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng"[4,23-480]. Ngày nay, thuật ngữ QL đã trở nên phổ biến nhưng
chưa có một định nghĩa thống nhất. Các nhà khoa học đưa ra khái niệm QL
theo những cách tiếp cận với các góc độ khác nhau.


14
Theo Harold Koontz, Cyril Odonnel, Heinz Weihrich: "QL là thiết kế và

duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các
nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã định" [18,29].
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “Hoạt động quản lý gồm hai quá trình
tích hợp vào nhau, quá trình "Quản" gồm sự coi sóc giữ gìn để duy trì tổ chức
ở trạng thái ổn định, quá trình "Lý" gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ
vào phát triển". Như vậy quản lý chính là hoạt động tạo ra sự ổn định và thúc
đẩy sự phát triển của tổ chức đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
Tác giả Nguyễn Minh Đạo viết: “QL là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể QL (Người QL, tổ chức QL) lên khách thể QL(đối
tượng QL) về các mặt chính trị, văn hoá, kinh tế, bằng một hệ thống các luật
lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các giải pháp cụ thể
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [10, 7].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang định nghĩa: “QL là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung
là khách thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [26, 24].
Tác giả Trần Quốc Thành cho rằng: “QL là sự tác động có ý thức của
chủ thể QL để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và
hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí Nhà QL phù
hợp với quy luật khách quan” [32].
Xét nội hàm của khái niệm quản lý của các tác giả vừa nêu trên, chúng ta
thấy rằng QL bao giờ cũng là một tác động hướng đích có mục tiêu xác định;
- QL có sự tác động của chủ thể QL, có sự chịu tác động và thực hiện của
khách thể QL; Là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với
quy luật khách quan. QL bao giờ cũng là quản lý con người. Nói cách khác,
đối tượng của khoa học quản lý là các quan hệ QL, tức là quan hệ giữa người
với người trong quản lý.
Như vậy, theo chúng tôi: “QL là quá trình tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu của tổ chức,



15
phù hợp với quy luật khách quan”. QL được cấu thành từ 6 yếu tố: 4 chức
năng, thông tin QL và quyết định QL.
1.2.3.2. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thể chế xã hội trong đó diễn ra qúa trình đào tạo, giáo
dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố: Thầy - Trò. Trường học là tổ
chức giáo dục cơ sở, nơi trực tiếp làm công tác giáo dục và đào tạo học sinh.
Nó là tế bào cơ sở, chủ chốt của bất cứ hệ thống giáo dục ở cấp nào.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc thì: “Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi và trách nhiệm của mình, tức là
đưa nhà trường vận hành theo quản lý giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [12, 71].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng : “Quản lý trường học được hiểu là một hệ
thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý
đến tập thể giáo viên, học sinh và phối hợp sức lực và trí tuệ của họ vào mọi
mặt hoạt động của nhà trường hướng vào hoàn thành có chất lượng và hiệu
quả mục tiêu dự kiến” [19, 27].
Như vậy quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người tập thể
(tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh). Do đó, có thể khẳng định: Quản lý nhà
trường là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý nhà trường đến khách thể quản lý nhà trường (giáo viên,
nhân viên, học sinh) nhằm làm cho các hoạt động giáo dục và dạy học của
nhà trường đạt tới mục đích giáo dục, ngày càng phát triển bền vững.

1.2.3.3. Quản lý đổi mới phương pháp dạy học
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn có thể hiểu: Quản lý phương pháp
dạy học của CBQL là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, của CBQL
đến cách thức làm việc của thầy và trò nhằm đạt được mục đích dạy học.Vì
phương pháp dạy học luôn luôn hoạt động trong mối quan hệ chặt chẽ với các
thành tố khác của quá trình dạy học như: Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp



16
- Phương tiện - Hình thức - Kết quả, nên quản lý phương pháp dạy học cũng
cần tiến hành đồng bộ với các thành tố đó, đặc biệt cần tác động vào mối quan
hệ Thầy - Trò.
a. Chức năng quản lý phương pháp dạy học của CBQL
Có nhiều quan điểm về các chức năng cơ bản của quản lý. Theo các tài
liệu của UNESCO, công tác quản lý nói chung có bốn chức năng cơ bản, đó
là kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Iu.K. Babanxki (Nga) lại vận dụng quan điểm của C.Marx về bản chất
quá trình lao động vào quá trình dạy học và cho rằng, "Xét về mặt điều khiển
học, quá trình dạy học gồm ba yếu tố: Tổ chức và thực hiện hoạt động học tập
nhận thức, kích thích hoạt động nhận thức, kiểm tra và đánh giá kết quả"
[7,228].
Như vậy theo Babanxki chức năng quản lý phương pháp dạy học nhìn
chung gồm ba yếu tố, đó là: Kích thích động viên, tạo động lực; Tổ chức hoạt
động và kiểm tra đánh giá. Yếu tố kích thích động viên, tạo động lực được đặt
lên hàng đầu và được xem là vấn đề rất quan trọng. Trong thực tiễn quản lý từ
xưa tới nay, các nhà quản lý dù ở bất kỳ cấp độ nào cũng rất coi trọng vấn đề
kích thích động viên, tạo động lực.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong quản lý của người CBQL cần lưu ý năm
vấn đề cơ bản về mặt chức năng, đó là: Kích thích động viên, tạo động lực;
Kế hoạch hóa; Tổ chức hoạt động; Chỉ đạo hoạt động và Kiểm tra, đánh giá,
trong đó bốn chức năng mang tính công cụ, còn chức năng kích thích động
viên, tạo động lực là chức năng cơ sở để thực hiện tốt bốn chức năng còn lại,
nó có mặt trong mọi hoạt động của người cán bộ quản lý.Vận dụng các chức
năng cơ bản đó vào việc quản lý phương pháp dạy học của CBQL có thể đề
xuất các chức năng công cụ sau đây:
Kế hoạch hoá đổi mới phương pháp dạy học là việc đưa toàn bộ đổi mới

phương pháp dạy học vào kế hoạch, trong đó chỉ rõ các bước đi, các biện
pháp thực hiện và đảm bảo các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Kế hoạch về đổi mới phương pháp dạy học có thể tách riêng hoặc nằm trong


17
kế hoạch tổng thể của nhà trường, được xây dựng theo từng năm học, mang
tính pháp quy, tức là được hội đồng sư phạm nhà trường thông qua và quản lý
cấp trên trực tiếp phê duyệt. Cần dựa trên những định hướng lớn về đổi mới
phương pháp dạy học của Đảng, các văn bản hướng dẫn thực hiện của các cấp
quản lý giáo dục và căn cứ vào điều kiện thực tế của nhà trường về tổ chức bộ
máy, về nguồn lực và các điều kiện khác, để xây dựng kế hoạch đổi mới
phương pháp dạy học. Kế hoạch phải mang tính cụ thể, tức là xác là định
được mục tiêu cần đạt, dự kiến được nguồn lực để thực hiện (nhân lực, tài lực,
vật lực), phân bố thời gian hợp lý và quyết định những biện pháp có tính khả
thi để thực hiện.
Tổ chức đổi mới phương pháp dạy học là quá trình phân phối và sắp xếp
nguồn lực theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện tốt các mục
tiêu về đổi mới phương pháp dạy học đã đề ra. Chức năng tổ chức có vai trò
hiện thực hóa mục tiêu kế hoạch và tạo nên sức mạnh của tập thể, nếu việc
phân phối và sắp xếp các nguồn lực được tổ chức một cách khoa học và hợp
lý. Để thực hiện được vai trò quan trọng này, cần phải hình thành một cấu
trúc tổ chức tối ưu của hệ thống quản lý. Đó là: Việc xây dựng và phát triển
đội ngũ nhân sự; Là những quy định về cơ chế hoạt động phối hợp giữa
chuyên môn với các đoàn thể trong nhà trường, cùng bảo đảm thực hiện mục
tiêu đã đề ra; Là sự phân bổ nguồn lực và quy định thời gian cho các bộ phận
nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã định. Trong quá trình hoạt động của nhà
trường, cần phải xác lập được một mạng lưới các mối quan hệ tổ chức và giải
quyết tốt các mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong nhà trường, cũng như
mối quan hệ giữa nhà trường với cộng đồng xã hội. Chỉ đạo đổi mới phương

pháp dạy học là quá trình tác động cụ thể của CBQL tới mọi thành viên của
nhà trường, nhằm biến những nhiệm vụ chung về đổi mới phương pháp dạy
học của nhà trường thành hoạt động thực tiễn của từng người. Thực hiện chức
năng chỉ đạo là thực hiện quyền chỉ huy và hướng dẫn triển khai việc đổi mới
phương pháp dạy học. Thường xuyên điều chỉnh, sắp xếp, phối hợp và giám


18
sát mọi người và các bộ phận thực hiện tốt kế hoạch theo sự bố trí đã xác định
trong bước tổ chức.
Kiểm tra đổi mới phương pháp dạy học là quá trình xem xét thực tiễn, để
phát hiện đánh giá thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học, khuyến khích
những nhân tố tích cực, phê phán những lệch lạc và đưa ra quyết định điều
chỉnh kịp thời, nhằm giúp các bộ phận và các cá nhân đạt được các mục tiêu
về đổi mới phương pháp dạy học đã đề ra. Trong quá trình thực hiện chức
năng kiểm tra, cần phải xác định được chuẩn kiểm tra, đo lường việc thực thi
nhiệm vụ, so sánh, đối chiếu với mục tiêu đã đề ra và đưa ra quyết định điều
chỉnh cần thiết. Cần thường xuyên đánh giá, sơ kết những thay đổi có được,
mà không phải đợi đến cuối kỳ hay cả năm học.
Ngoài bốn chức năng công cụ trên đây, cần nhấn mạnh một chức năng cơ
bản rất quan trọng trong quản lý đó là: Chức năng kích thích, động viên, tạo
động lực. Người CBQL có thể là một người xây dựng kế hoạch giỏi giang,
một nhà tổ chức tài ba, một người chỉ huy sáng suốt, một kiểm tra viên mẫu
mực, nhưng người đó vẫn có thể thất bại trong quản lý nếu không biết khuyến
khích, động viên, tạo động lực cho mọi thành viên cùng hoạt động.
Động lực là nhân tố thúc đẩy, phát triển hoạt động của con người. Vì
vậy, để tạo động lực cho đổi mới phương pháp dạy học, CBQL cần hình
thành, phát triển, kích thích động cơ dạy học của thầy, động cơ học tập của
trò. Với giáo viên, để tạo nên động lực của việc đổi mới phương pháp dạy
học, CBQL cần tác động đến nhu cầu được tôn trọng, được tự khẳng định

mình, đồng thời có sự động viên về tinh thần và bồi dưỡng bằng vật chất thích
đáng, tương xứng với khả năng và sự cống hiến của mỗi người. Với học sinh,
để xây dựng động cơ học tập đúng đắn, trước hết cần xây dựng nhu cầu, hứng
thú học tập và xa hơn là ước mơ, hoài bão. Hứng thú học tập có thể được hình
thành từ nội dung, phương pháp phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, từ
truyền thống hiếu học của gia đình dòng họ, từ phong trào học tập của địa
phương. Tuy nhiên, phương pháp dạy học và mối quan hệ thầy trò có ảnh
hưởng trực tiếp đến hứng thú và quan trọng hơn là nó nằm trong tầm tay điều


19
khiển của người thầy. Vì vậy việc xây dựng động cơ học tập có mối quan hệ
biện chứng với đổi mới phương pháp dạy học.
b. Phương tiện quản lý đổi mới PPDH của người CBQL
Phương tiện quản lý là những gì mà chủ thể quản lý sử dụng như một
công cụ trong quá trình hoạt động của mình. CBQL là người được xã hội giao
cho những trọng trách và quyền hành nhất định; là người nắm vững các chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; là người trực tiếp quản lý và điều
hành một đội ngũ nhân lực, được cung cấp về tài lực, vật lực và nắm trong tay
các phương tiện thông tin. Đó là những yếu tố mà người CBQL có quyền sử
dụng để điều khiển hoạt động quản lý của mình có hiệu quả.
Các phương tiện quản lý phương pháp dạy học chủ yếu của CBQL bao
gồm: Chế định giáo dục đào tạo, bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn
tài lực, vật lực dạy học, hệ thống thông tin và môi trường dạy học.
Chế định GD - ĐT bao gồm Luật Giáo dục, các chính sách - chế độ giáo
dục, các nghị quyết, quyết định, điều lệ, quy chế. Tất cả hệ thống văn bản trên
là cơ sở pháp lý để xác định mục tiêu, nội dung chương trình, kế hoạch xây
dựng cơ chế quản lý, điều hành nhân sự dạy học và được cụ thể hoá thành
những quy định nội bộ.
Bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học là cơ cấu về bộ máy quản lý, các bộ

phận chuyên môn và nghiệp vụ của nhà trường, đó là đội ngũ cán bộ quản lý,
giáo viên, học sinh, nhân viên phục vụ dạy học và các lực lượng khác tham
gia giáo dục. CBQL giao nhiệm vụ và quyền hạn cho từng người, từng bộ
phận phải rõ ràng, hợp lý, không có sự chồng chéo, phải tương xứng giữa
quyền hạn và với trách nhiệm.
Nguồn tài lực, vật lực dạy học là nguồn tài chính, là cơ sở vật chất, kỹ
thuật được huy động và sử dụng để tổ chức dạy học và quản lý dạy học.
Phương pháp dạy học mới đòi hỏi học sinh phải tăng cường thực hành nhiều
hơn, tự lực hoạt động khám phá nhiều hơn, nên không thể thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học nếu không có đủ điều kiện thiết yếu về CSVC và thiết


20
bị dạy học. Vì vậy, nguồn tài lực, vật lực dạy học chính là tiền đề vật chất để
thực hiện mục đích đổi mới phương pháp dạy học.
Hệ thống thông tin và môi trường dạy học là những hiểu biết về chế định
GD - ĐT, về năng lực hoạt động của bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, về
nhu cầu, khả năng đáp ứng và hiệu suất sử dụng nguồn tài lực, vật lực dạy
học, về các thông tin khoa học Giáo dục - Dạy học, về những tác động thuận
hoặc bất thuận của môi trường đối với hoạt động dạy học. Môi trường ở đây
là tất cả những thành tố vật chất và tinh thần bao quanh thầy và trò.
Nhưng quan trọng hơn là không khí đạo đức, là hệ thống niềm tin, giá trị
mà ta gọi chung là môi trường văn hoá. Văn hoá nhà trường là một cái gì rất
riêng do thầy và trò xây dựng nên qua một quá trình cùng làm việc dài lâu,
gắn liền với truyền thống nhà trường và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
dạy học. Nếu CBQL biết phát huy tác dụng lành mạnh của môi trường thì
hiệu quả dạy học sẽ rất cao.
Như vậy, hiệu quả quản lý phương pháp dạy học phụ thuộc nhiều vào
việc CBQL sử dụng các phương tiện quản lý. Đó là: Hiệu lực của chế định
GD - ĐT, năng lực hoạt động của bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, giá trị

và tác đụng của nguồn tài lực, vật lực, chất lượng của hệ thống thông tin và
môi trường dạy học.
c. Yêu cầu đối với người CBQL trong giai đoạn hiện nay
Nhiệm vụ và quyền hạn của CBQL được quy định cụ thể trong Luật
Giáo dục (2005). Luật Giáo dục quy định về việc ban hành điều lệ nhà trường.
Với những nhiệm vụ và quyền hạn đó, người CBQL phải thường xuyên rèn
luyện, phấn đấu để thể hiện tốt các vai trò sau đây:
CBQL là nhà quản lý, là người đại diện Nhà nước về mặt hành chính,
thực thi các hoạt động quản lý trường học dựa trên cơ sở của pháp luật.
CBQL là người tổ chức thực hiện, luôn tìm tòi đổi mới hoạt động quản
lý, đổi mới các hoạt động sư phạm của nhà trường.
CBQL là nhà sư phạm, nhà giáo dục mẫu mực có tâm hồn cao thượng,
thường xuyên chăm lo việc nâng cao năng lực sư phạm và bồi dưỡng phẩm


21
chất đạo đức cho đội ngũ giáo viên, là người nhạy cảm, có sự đối xử khéo léo
và có khả năng cảm hoá con người.
CBQL là nhà hoạt động chính trị - xã hội và là nhà văn hoá, là người
duy trì, phát triển và sáng tạo các giá trị của nhà trường.
CBQL còn là nhà ngoại giao. Để thực hiện các nhiệm vụ đổi mới giáo
dục trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, người CBQL cần tận dụng
kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau. Trong điều kiện nguồn kinh phí nhà
trường chủ yếu do Nhà nước cung cấp thì có hạn, CBQL cần biết tận dụng
các cơ hội để khai thác nguồn kinh phí to lớn ngoài xã hội. Trong thực tiễn
quản lý hiện nay, nhiều CBQL đã dành một tỷ lệ thời gian, sức lực thích đáng
cho công tác đối ngoại để tìm kiếm các nguồn nhân lực và tổ chức các hoạt
động chuyên môn, làm cho các hoạt động của nhà trường thêm phong phú và
hiệu quả.
Như vậy, để làm tốt các chức năng của mình, người CBQL cần phải thực

hiện tốt các vai trò chủ yếu: Vừa là nhà quản lý, nhà giáo dục, nhà sư phạm,
vừa là nhà hoạt động Chính trị - Văn hoá - Xã hội, nhà ngoại giao và quan
trọng hơn là nhà tổ chức trong thực tiễn.
1.3. Một số vấn đề về đổi mới PPDH ở trường THPT
1.3.1. Trường THPT
Trường THPT là cấp cơ sở của hệ thống giáo dục, nơi trực tiếp giáo dục,
đào tạo học sinh, nơi thực thi mọi chủ trương, đường lối, chế độ, chính sách,
nội dung, phương pháp, chế độ tổ chức giáo dục. Đó cũng là nơi trực tiếp diễn
ra lao động dạy của thầy, lao động học của trò, hoạt động của bộ máy quản lý
nhà trường.
Điều 48 Luật Giáo dục có ghi rõ: "Nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch
của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện để
trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân " .
Trường trung học phổ thông, là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt
Nam, dành cho lứa tuổi từ 15 tới 18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Nó


22
gồm các khối học: lớp 10, lớp 11, lớp 12. Sau khi tốt nghiệp hệ giáo dục này,
học sinh được nhận bằng Tốt nghiệp Phổ thông trung học, có một tên gọi
khác cho loại bằng này là "Bằng Tú Tài".
Trường phổ thông được lập tại các địa phương trên cả nước. Người đứng
đầu một ngôi trường được gọi là "Hiệu Trưởng". Trường được sự quản lý trực
tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), tức
là Trường Trung học phổ thông ngang với Phòng Giáo dục quận, huyện. Quy
chế hoạt động do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành.
1.3.2. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
1.3.2..1 Cơ sở khoa học của việc đổi mới phương pháp dạy học
a) Xu thế toàn cầu hóa

Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, ngày càng tham gia tích cực
vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Điều này cũng có nghĩa là vấn đề
toàn cầu hóa và những yêu cầu của nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức đang trực
tiếp tác động đến kinh tế, xã hội và thị trường lao động của nước ta. Đối với
Giáo dục, toàn cầu hóa cũng đã đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn:
- Tạo khả năng mở rộng các dịch vụ và đầu tư quốc tế trong giáo dục.
- Tạo khả năng tăng cường trao đổi kinh nghiệm và khoa học giáo dục,
tăng cường hợp tác quốc tế.
- Tạo ra sự cạnh tranh về chất lượng.
- Dịch vụ giáo dục trở thành hàng hóa trong trao đổi quốc tế đã đặt ra
những thách thức đối với giáo dục, đặc biệt là về quản lý giáo dục như: quyền
tự chủ trong giáo dục, quản lý mục tiêu và chất lượng giáo dục...
- Toàn cầu hóa cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động,
điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực của nền kinh tế tri thức.
b) Những yêu cầu về nhân lực của nền kinh tế tri thức
Khoa học - công nghệ phát triển đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng
cao, có khả năng thích nghi với sự thay đổi đang diễn ra từng ngày, với khối
lượng thông tin vô tận tăng lên từng giờ từng phút thì những phương pháp dạy


23
học truyền thống không thể hoàn thành sứ mệnh của mình, điều này đòi hỏi
giáo dục cũng phải thay đổi. Các phương pháp dạy học ngày nay phải chú
trọng đến việc dạy cho người học các học, cách chiếm lĩnh kho tri thức của
nhân loại để phục vụ cho yêu cầu công việc của mình.
c) Những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học
Những thành tựu về Tâm lý học trong thế kỷ trước làm cơ sở cho Giáo
dục học phát triển đã thúc đẩy các nhà Giáo dục học đề xuất ra các mô hình,
các phương pháp dạy học mới nhằm tăng cường tính tích cực trong học tập

của người học.
1.2.3.2 Các xu hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta
Trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình
lĩnh hội tri thức, mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia
nhưng việc đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta cơ bản tập trung vào 3 xu
hướng sau:
- Tích cực hóa hoạt động học tập của người học.
- Phân hóa và cá nhân hóa trong hoạt động dạy học
- Công nghệ hóa hoạt động dạy học.
1.2.3.3 Các định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII được
cụ thể hóa trong Luật Giáo dục 2005 và các chỉ thị của bộ Giáo dục và đào tạo.
Điều 28 khoản 2 của Luật Giáo dục 2005 đã ghi "phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh;
phù hợp với từng đặc điểm của lớp học môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh"
Những định hướng này phù hợp với những quan điểm hiện đại, tiến bộ
về giáo dục trên thế giới. Đặc biệt là mục tiêu giáo dục con người phát triển
toàn diện nhân cách cũng như định hướng gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống,
gắn lý thuyết với thực tiễn, phát triển động cơ, hứng thú học tập, phát huy tính


24
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập.
Những định hướng cụ thể đổi mới PPDH ở nước ta: [21]
- Tăng cường tính tích cực, tính tìm tòi sáng tạo ở người học, tiềm năng trí
tuệ nói riêng và nhân cách nói chung thích ứng năng động với thực tiễn đổi mới.
- Tăng cường năng lực vận dụng trí thức đã học vào cuộc sống, sản xuất.

- Chuyển dần trọng tâm của PPDH từ tính chất thông báo, tái hiện đại trà
chung cho cả lớp sang tính chất phân hóa-cá thể hóa cao độ, tiến lên theo nhịp độ
cá nhân.
- Liên kết nhiều PPDH riêng lẻ thành tổ hợp PPDH phức hợp.
- Liên kết PPDH với các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại tạo ra các
tổ hợp PPDH sử dụng kỹ thuật.
- Chuyển hóa các phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù của môn
học.
- Đa dạng hóa các PPDH phù hợp với các cấp học, bậc học, các loại hình
trường và các môn học.
1.3.3.4. Vấn đề đổi mới PPDH ở trường THPT
Đổi mới phương pháp dạy học đang là trung tâm chú ý của các cấp quản
lý cũng như của CBQL nhà trường. Trong thời đại ngày nay, khi khoa học,
công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, khi hội nhập đang trở thành xu thế toàn
cầu, thì việc đào tạo nguồn nhân lực năng động, sáng tạo là điều kiện tồn tại
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Vì vậy "Đổi mới phương pháp dạy và học,
phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học"[13, 203] là tư
tưởng chiến lược đào tạo con người của giáo dục Việt Nam.
Cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta đã được phát
động và triển khai trong nhiều năm, toàn ngành đã có những nỗ lực nhất định,
nhưng sự vận động của nhà trường đang diễn ra chậm chạp, chưa đáp ứng
được các yêu cầu của xã hội.
Muốn quản lý được việc đổi mới phương pháp dạy học, CBQL phải nắm
được những kiến thức và nghiệp vụ sư phạm, nghĩa là nắm được nội dung đổi


25
mới. Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề này bắt đầu từ quan niệm về đổi mới
phương pháp dạy học.
Đổi mới không phải là thay đổi toàn bộ phương pháp dạy học đã có, mà

phải trên cơ sở phát huy những yếu tố tích cực của phương pháp dạy học hiện
nay, từng bước áp dụng những phương pháp dạy học tiên tiến và phương tiện
dạy học hiện đại nhằm thay đổi cách thức dạy của thầy, thay đổi phương pháp
học tập của học sinh, chuyển từ học tập thụ động sang học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo, từng bước chuyển dần phương pháp dạy học theo hướng biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biến quá trình dạy học thành quá
trình tự học.
Đổi mới phương pháp dạy học diễn ra rất dài lâu, là hoạt động sáng tạo
hàng ngày của cả thầy và trò, vì vậy, để đảm bảo đổi mới phương pháp dạy
học có kết quả, phải có định hướng đúng.
Các đổi mới phương pháp dạy học rất phong phú, đa dạng, nhưng nhìn
chung diễn ra trên ba hướng chính:
Tiếp cận theo quan điểm Tâm lý - Giáo dục: Bản chất của quan điểm này
là tìm mọi cách phát huy năng lực nội sinh của người học, phát triển sức
mạnh trí tuệ, tâm hồn, ý chí của họ. Đây là phương hướng tiếp cận đã có bề
dày lịch sử lâu dài và vẫn giữ vai trò chủ đạo, quyết định sự thành công của
công cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vì nó tác động trực tiếp
đến người học.
Tiếp cận theo quan điểm điều khiển học có nghĩa là tạo điều kiện cho
người học được tự do phát triển nhu cầu học tập, phát triển năng lực cá nhân,
trong mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động
học. Điều khiển mối quan hệ thầy trò hướng vào người học, hướng vào việc
điều khiển hoạt động trí tuệ, nhu cầu, động cơ, ý chí học tập của học sinh.
Tiếp cận theo quan điểm công nghệ: Tư tưởng công nghệ hoá quá trình
dạy học trước hết là đưa những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại
vào dạy học, đồng thời thiết kế quá trình dạy học theo một quy trình khoa
học, có thể điều khiển, kiểm soát và đo lường được.



×