Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghiên cứu một số đặc tính nông sinh học của các mẫu giống đậu tương địa phương thu thập từ các tỉnh miền núi phía Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.93 KB, 65 trang )


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

OBO
OK S
.CO
M

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây Đậu Tương (Glycine max(L)Merrill) đã được biết đến và trồng từ rất
lâu đời. Cho đến nay tính đến năm 1994 thì diện tích đậu tương trên thế giới
khoảng 61571000 ha với năng suất bình quân đạt 2078 kg/ha. Sản lượng đạt trên
10 triệu tấn/năm. Điều đó khẳng định cây đậu tương là một trong những cây
trồng quan trọng trong nền nơng nghiệp.

Cây đậu tương đóng vai trị quan trọng trong việc cung cấp thức ăn cho
người và gia súc. Từ hạt đậu tương có thể chế biến được nhiều các sản phẩm
khác nhau.Đặc biệt là cung cấp protein và lipit bởi trong hạt đậu tương có chứa
hàm lượng lớn các chất này, cụ thể là 40-50% là protein và 12-24% là lipit. Bên
cạnh đó, do có khả năng cố định đạm tự do nhờ cộng sinh với vi khuẩn
Rhizobium Japonicum mà đậu tương là cây trồng bảo vệ đất chống xói mịn.
Cuối cùng cây đậu tương cịn góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho người nông dân.

Nền nông nghiệp nước ta đã phát triển cùng với nền văn minh lúa nước,
tất nhiên khơng vì thế mà cây đậu tương mất đi chỗ đứng của nó.Đậu tương nằm
trong những cây trồng quan trọng và việc phát triển đậu tương cũng đã được chú
trọng. Song trong việc phát triển đậu đỗ thì một điều hay gặp phải đó là năng
suất và sản lượng đậu đỗ thường rất thấp, đây là một trong những hạn chế lớn.



KIL

Bởi so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì năng suất hay cả sản
lượng đậu tương nước ta cịn ở mức hết sức khiêm tốn. Điều đó đặt ra vấn đề là
phải làm gì để nâng cao năng suất lên? Hay muốn phát triển đậu tương phải có
biện pháp gì để nâng cao năng suất. Một trong những biện pháp đó là cải tạo
giống tạo ra những giống có năng suất cao. Mà trong cơng tác chọn tạo giống thì
vật liệu khởi đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Vấn đề này đã được giải quyết như
thế nào? Có nhiều nguồn vật liệu ban đầu khác nhau và một nguồn vật liệu quan
trọng đó là nguồn giống đậu tương địa phương. Cho nên việc duy trì các giống



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
đậu tương địa phương này để giúp cho việc tạo giống là rất cần thiết.Hơn nữa
trong gian đoạn ngày nay cùng với việc thâm canh cao người ta thường sử dụng
các giống mới có năng suất cao mà lãng quên các giống đậu tương địa phương

KIL
OBO
OKS
.CO
M

với các đặc tính q của chúng. Do đó việc duy trì các giống đậu tương địa
phương cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nền nông nghiệp bền
vững nước nhà.

Các tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có địa hình phức tạp, phần lớn là đồi

núi cao và dốc. Nơi đây hình thành nên những vùng với những điều kiện sinh
thái khác nhau. Người dân ở đây với nền kinh tế tự cung tự cấp thường có tập
quán du canh du cư, đốt nương làm rẫy. Cây đậu tương đã được biết đến và sử
dụng từ rất lâu và trở thành một cây trồng quan trọng trong việc góp phần cung
cấp lương thực cho người dân ở đây. Với vùng đất này cây đậu tương đã thể
hiện hơn hẵn các cây trồng khác các ưu điểm của mình. Đậu tương có thể trồng
ở bất cứ địa hình nào: Ven nhà, sườn đồi, ven suối, trong vườn...Hơn nữa đậu
tương lại có thể chế biến được rất nhiều loại thực phẩm khác nhau rất giàu dinh
dưỡng: đậu phụ, đậu rang, giá đậu, sữa đậu nành...Vì thế qua quá trình canh tác
và sử dụng lâu dài người dân đã tạo và duy trì được nhiều loại giống đậu tương
địa phương. Nơi đây trở thành nơi tập trung nguồn giống đậu tương phong phú
và đa dạng với nhiều giống đậu tương có các đặc tính qúy. Thực sự là những vật
liệu khởi đầu tốt cho việc chọn tạo giống đậu tương có năng suất cao, phẩm chất
tốt phù hợp với điều kiện sinh thái khác nhau. Xuất phát từ vấn đề về chọn tạo
giống cho nên việc thu thập các giống đậu tương địa phương này sẽ giúp cho
việc chọn tạo giống mới đáp ứng nhu cầu sản xuất. Từ nhu cầu bức thiết đó
chúng tơi tiến hành đề tài:

"Nghiên cứu một số đặc tính nơng sinh học của các mẫu giống đậu
tương địa phương thu thập từ các tỉnh miền núi phía Bắc"
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ U CẦU
1.2.1. MỤC ĐÍCH



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
-Nghiên cứu một số đặc tính nơng sinh học của các mẫu giống đậu tương
địa phương thu thập từ các tỉnh miền núi phía Bắc để tìm ra các đặc tính tốt,
giúp cho các nhà tạo giống lai tạo giống mới.


KIL
OBO
OKS
.CO
M

-Duy trì gìn giữ nguồn gen cây đậu tương .
1.2.2 YÊU CẦU.

-Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng phát triển ngoài đồng của các mẫu
giống đậu tương địa phương. Từ đó phát hiện ra các đặc tính tốt giúp cho chọn
tạo giống sau này.

-Bảo vệ gìn giữ các giống đậu tương sau thu hoạch.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ ĐẬU TƯƠNG
TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

KIL
OBO
OKS
.CO
M

2.1. VAI TRÒ CỦA ĐẬU TƯƠNG.
Cùng với thời gian, ngày nay cây đậu tương (Glycine Max (L) Merrill)
còn gọi là đậu nành càng thể hiện được vai trị vơ cùng quan trọng trên nhiều

lĩnh vực. Là cây trồng đã biết đến từ rất lâu và được ví là loại "cây kỳ lạ", "vàng
mọc từ đất", "cây thần diệu", "cây đỗ thần", "cây thay thịt"...[19].
Quả là đúng khi đánh giá về tầm quan trọng của đậu tương như vậy. Bởi
những giá trị to lớn mà cây đậu tương mang lại. Mà những giá trị kinh tế đó chủ
yếu được quyết định bởi các thành phần chứa trong hạt. Hạt đậu tương gồm có
protein, lipit, hydrat cacbon, các chất khống... Trong đó protein và lipit là hai
thành phần quan trọng nhất chiếm khoảng 60% trọng lượng hạt[5].
Theo giáo trình Cây cơng nghiệp[1] thì trong hạt đậu tương hàm lượng
protein chiếm khoảng 40-50% và lipit biến động từ 12-24% tuỳ theo giống và
điều kiện khí hậu. Điều này thực sự cho thấy đây là loại hạt duy nhất mà giá trị
của nó được đánh giá đồng thời cả protein và lipit mà phải nói rằng so với một
số thực phẩm, thịt hay một số loại hạt đậu đỗ khác thì hàm lượng protein rõ ràng
là cao hơn hẳn.

Bên cạnh hàm lượng lớn về protein và lipit, hạt đậu tương còn giàu nguồn
sinh tố và muối khống và chứa nhiều loại axit amin trong đó có 8 a.a không
thay thế như: Arginin, Histidin, Lysin, Triptophan...Hàm lượng của các axit
amin có chứa lưu huỳnh như Methionin, Sistein, Sixtin...trong đỗ tương rất gần
với hàm lượng của các chất này ở trứng. Hàm lượng của Cazein, đặc biệt là của
Lysin rất cao, gấp rưỡi của trứng. Điều này cho thấy đây là loại hạt mà có đầy
đủ và cần đến của các loại axit amin cần thiết. Hơn nữa protein của đậu tương dễ
tiêu hố hơn thịt và khơng có Colesteron. Ngày nay, qua các thí nghiệm mới
người ta cịn biết thêm nó chứa chất Lexithin có tác dụng làm cho cơ thể trẻ lâu,
sung sức, làm tăng thêm trí nhớ và tái sinh các mơ, làm cứng xương và tăng sức
đề kháng của cơ thể.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Trong thời đại ngày nay khi chúng ta đang tìm nguồn dầu thực vật để thay

thế việc phải dùng mỡ động vật thì có thể thấy rằng với hàm lượng lipit như đã
nói ở trên có thể đủ cung cấp một lượng dầu thực vật khá lớn. Cho nên so với

KIL
OBO
OKS
.CO
M

các loại đậu đỗ khác cây đậu tương được coi là cây lấy dầu thực vật quan trọng.
Lipit của đậu tương chứa một tỷ lệ các axit béo chưa no có hệ số đồng hố cao,
mùi vị thơm ngon như: axit oleic (30-35%), axit lioleic (45-55%) và linonic (510%)[1]. Dùng dầu đậu tương thay mỡ động vật có thể tránh được xơ mỡ động
mạch và có tác dụng tốt đối với sức khoẻ con người.

Thành phần khá quan trọng trong hạt đậu tương nữa là các Vitamin. Hạt
đậu tương chứa khá nhiều các loại Vitamin mà đặc biệt phải kể đến hàm lượng
của các Vitamin B1, B2, ngoài ra là các loại Vitamin PP, A, E, K, D, C...và các
loại muối khoáng khác.

Theo tác giả Nguyễn Danh Đơng[4], trong 100 g hạt đậu tương có hàm
lượng Vitamin B1 có thể cung cấp cho một nửa nhu cầu B1 của cơ thể trong một
ngày. Đặc biệt hạt đậu tương ngâm hàm lượng Vitamin C tăng từ 8,7-354mg
trong 100g hạt đậu tương. Nhân dân một số vùng như Cao Bằng đã dùng hạt đậu
tương nảy mầm làm rau giá, đó là món ăn tốt và giàu Vitamin, protein. Ngồi ra
đậu tương cịn chữa được nhiều bện như đái đường, thần kinh suy nhược, suy
dinh dưỡng.

Bởi những thành phần như vậy mà từ lâu con người đã biết sử dụng hạt
đậu tương vào việc chế biến thành thức ăn, thành các dạng thực phẩm khác
nhau. Cho đến nay, người ta đã chế biến ra được trên 600 sản phẩm khác nhau,

trong đó có hơn 300 loại thức ăn bằng các phương pháp cổ truyền, thủ công và
hiện đại dưới các dạng tươi, khô, lên men...như giá đỗ, bột đậu tương, tương đậu
phụ, đậu hũ, chao, tào phớ, sữa đậu nành, xì dầu...đến các sản phẩm cao cấp
khác như cà phê đậu tương, socola đậu tương, bánh kẹo, pate, thịt,nhân tạo...[19]
được mệnh danh là người đầu bếp của thế kỷ. Đối với nhân dân ta có lẽ khơng ai
biết rõ từ khi nào đậu tương đã được sử dụng làm thức ăn cung cấp một phần
nhu cầu chất đạm cho con người và gia súc dưới dạng các món ăn cổ truyền.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Đối với con người, đậu tương còn là một vị thuốc để chữa bệnh, đặc biệt
là đậu tương hạt đen có tác dụng tốt cho tim, gan, thận, dạ dày và ruột. Đặc biệt
đối với người mắc bệnh đái đường, thấp khớp, mới ốm dậy, lao động quá sức thì

KIL
OBO
OKS
.CO
M

quả là loại thức ăn tốt.

Ngày nay, bên cạnh việc sử dụng hạt đậu tương chín để làm thức ăn thì
con người lại có xu hướng sử dụng đậu tương như một loại rau[15]. Thực ra
điều này cũng đã được con người chú ý đến. Ở nước ta các vùng nông thôn vẫn
hay thu hoạch đậu tương sớm và luộc ăn nhưng chưa được xem như là một loại
rau như những năm gần đây[15]

Hạt đậu tương khơng những là thức ăn cho người mà nó cịn góp phần

cung cấp thức ăn cho chăn ni gia súc, gia cầm. Trong khi nhà nước ta đang có
những biện pháp để tăng sự phát triển của ngành chăn nuôi thì đối với việc dùng
đậu tương làm thức ăn cho gia súc đã giải quyết được một khâu quan trọng trong
vấn đề tìm nguồn thức ăn. Để sử dụng đậu tương làm thức ăn cho gia súc có thể
sử dụng trực tiếp hạt hay bã đậu tức là bột đậu tương sau khi ép lấy dầu, bã dùng
làm nguyên liệu chế biến thức ăn tinh hỗn hợp giàu đạm để nuôi gia súc, gia
cầm theo hướng công nghiệp. Thân lá cây đậu tương có thể dùng làm thức ăn
gia súc, gia cầm rất tốt.

Trong cơng nghiệp, dầu đậu tương cịn được sử dụng làm xi, sơn, mực in,
xà phòng, chất dẻo, cao su nhân tạo, len nhân tạo, thuốc trừ sâu...[1].
Thực sự trong giai đoạn hiện nay phát triển nền nông nghiệp bền vững là
điều mà mỗi một quốc gia đều mong muốn. Chính vì vậy mà với chủ trương
phát triển nền nơng nghiệp bền vững thì vai trị của cây đậu tương trong hệ
thống nông nghiệp là vô cùng quan trọng.

Theo Croswell và các cộng sự (1987)[25], cây đậu đỗ là cây trồng phụ
trong hệ thống canh tác ở vùng châu á nhưng chúng lại đóng vai trị hết sức quan
trọng trong việc cung cấp chất béo và Vitamin cho bữa ăn hàng ngày.
Với người dân châu Á, các món ăn truyền thống từ đậu như: Tương, đậu
phụ, giá đậu, sữa đậu nành đã khẳng định vai trò của đậu tương đối với dinh
dưỡng con người[27].



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Theo giáo sư Trần Văn Lài, 1996[13] thì cây đậu đỗ thực phẩm là cây
trồng quan trọng trong hệ thống cây trồng Việt Nam. Chúng là cây trồng xen,
trồng gối và tăng vụ trong nông nghiệp.


KIL
OBO
OKS
.CO
M

Một điều khá đặc biệt đối với những cây thuộc họ đậu là chúng có khả
năng tích luỹ đạm tự do trong khơng khí để tự túc và làm giàu đạm cho đất nhờ
vào sự cộng sinh với vi khuẩn nốt sần Rhizobium Japonicum ở bộ rễ và trong
điều kiện thuận lợi các vi khuẩn nốt sần này có thể tích lũy được một lượng đạm
tương đương với 20-25kg ure/ha[19]. Bởi vậy nên trồng đậu tương khơng những
tốn ít phân đạm mà cịn làm cho đất tốt lên, có tác dụng tích cực trong việc cải
tạo và bồi dưỡng đất.

Mặt khác, đậu tương là cây trồng ngắn ngày, các giống đậu tương ngắn
ngày thì thời gian sinh trưởng chỉ có 70-75 ngày và với khả năng thích nghi trên
nhiều loại đất khác nhau, ở nhiều vụ trong năm nên là cây trồng tốt trong việc
luân canh, xen canh, gối vụ với nhiều loại cây trồng khác nhau.
Có lẽ cây đậu tương đến với người dân ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam lại càng mang một ý nghĩa quan trọng hơn. Bởi đây là miền đất dốc, địa
hình có nhiều khó khăn nên việc trồng cây nhằm đảm bảo lương thực, thức ăn là
điều vô cùng quan trọng. Cây đậu tương đã sớm thể hiện rõ những ưu thế hơn
hẳn của mình so với cây trồng khác như: dễ trồng, là cây cải tạo đất và quan
trọng hơn cả là cung cấp dinh dưỡng cho người dân. Theo Đỗ Văn Nhuận,
1996[16], trên quy mô lớn ở trung du miền núi nước ta, việc đa canh cây dài
ngày và cây ngắn ngày trên cơ sở nông- lâm kết hợp mang lại tính bền vững cao.
Việc bố trí hệ thống cây trồng trên đất đồi núi theo cơ cấu xen canh sắnđậu, lạc đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm tăng thu nhập cho người dân, có
tác dụng cải tạo đất[20].

Khó có thể tìm thấy cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt như đậu tương:

Cung cấp thực phẩm cho người, nguyên liệu cho công nghiệp, thức ăn cho gia
súc, mặt hàng cho xuất khẩu, lại có thời gian sinh trưởng ngắn và là cây luân
canh cải tạo đất tốt.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

2.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU ĐẬU
TƯƠNG TRONG NGỒI NƯỚC.
2.2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU ĐẬU TƯƠNG

KIL
OBO
OKS
.CO
M

TRÊN THẾ GIỚI.

Ngày nay, đậu tương đã và đang được coi là cây trồng quan trọng trên thế
giới. Điều này thật dễ hiểu bởi vai trò to lớn của đậu tương trong cuộc sống của
con người. Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển đậu đỗ mới được nhiều người
quan tâm. Bởi đậu tương tuy có nguồn gốc từ vùng viễn đông và được biết từ
cách đây 5000 năm. Song việc phát triển đậu tương và nơi đạt sản lượng lớn lại
không nằm ở vùng Viễn đông mà lại thuộc về Bắc Mỹ. Vùng trồng đậu tương
chủ yếu ở châu Á là Trung Quốc, Triều Tiên và Indonexia. Vùng trồng ít đậu
tương hơn là Nhật Bản và một số nước khác ở đông Nam á[23].

Trên thế giới, đậu tương đứng thứ 4 sau 3 cây là lúa mỳ, lúa nước, ngô.

Mỹ là nước đứng đầu thế giới về sản xuất đậu tương với diện tích 28,5 triệu ha
và sản lượng 61,2 triệu tấn (chiếm khoảng 50% diện tích và 75% sản lượng thế
giới)[5]. Cho đến nay, năm 2000 thì diện tích đậu tương trên thế giới là 75,05
triệu ha, năng suất bình quân đạt 22,3tạ/ha, sản lượng đạt 167,35 triệu tấn.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương một số nước trên thế giới:

KIL
OBO
OKS
.CO
M

Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Tên nước DT NS
SL
DT
NS
SL
DT NS
SL
Mỹ
28,51 2,63 74,60 29,32 2,46 72,22 19,55 2,56 75,38
Braxin 12,90 2,43 31,3 13,40 2,43 32,50 13,40 2,57 31,50
T.Quốc

8,50 1,78 15,15 8,18 1,15 14,29 9,3 1,66 15,40
Arhentina 8,17 2,45 20,00 2,42 20,7 9,70 9,70 2,42 23,50
Diện tích (triệu ha).
Năng suât (tấn/ha).

Sản lượng (triệu tấn).

Theo Phạm Văn Thiều[19] thì cây đậu tương do khả năng thích nghi rộng
nên nó đã được trồng ở khắp năm châu lục, nhưng tập trung nhiều nhất là châu
Mỹ (73,03%), châu Á (23,15%)...Hàng năm trên thế giới trồng khoảng 54-56
triệu ha đậu tương (1990-1992). Các nước trồng diện tích nhiều là Mỹ 23,6 triệu
ha, sản lượng 59,8 triệu tấn. Braxin có 9,4 triệu ha với sản lượng là 9,7 triệu tấn.
Achentina có 4,9 triệu ha với sản lượng 11,3 triệu tấn.

Đối với vùng châu á theo Rao và Oppen (1987)[26] trong những thập kỷ
qua, sản xuất đậu tương trên thế giới cũng như ở châu á đã tăng lên đáng kể.
Trong khi đó châu á được coi là khu vực sản xuất đậu đỗ quan trọng của thế
giới, hàng năm một lượng đậu đỗ lớn được sản xuất ở khu vực này. Trong
những năm gần đây, sản lượng đậu tương ở châu á tăng với tốc độ nhanh, diện
tích tăng là 3,3%/năm và sản lượng tăng 5,9%/năm.

Nhận thấy được tầm quan trọng của cây đậu tương, chính vì vậy và hiện
nay nhiều nước đã rất chú trọng đến việc đầu tư mở rộng diện tích, tăng năng
suất đậu tương. Đối với nhiều nước sản phẩm đậu tương đã trở thành mặt hàng
nông sản xuất khẩu mang lại nhiều lợi nhuận. Dưới đây là số liệu về diện tích,
năng suất và sản lượng đậu tương của thế giới:



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


DT(triệu ha)

97-81
1993
1994
1995
1996
1997

50,47
60,84
62,69
61,69
63,18
69,39

NS(tạ/ha
)
17,21
49,37
21,97
20,26
20,84
21,99

SL(triệu tấn)
86,93
117,83
137,72

124,96
131,65
152,60

KIL
OBO
OKS
.CO
M

Năm

(Nguồn số liệu thống kê bộ nông nghiệp Hoa Kỳ, 1998).
Sản phẩm đậu tương được lưu hành trên thế giới chủ yếu dưới 3 dạng là
hạt, dầu, bột. Khu vực tiêu thụ dầu nhiều nhất là Mỹ, Braxin, EEC, Trung Quốc,
Nhật, Ấn Độ...Bột đậu tương tiêu thụ nhiều ở Mỹ, EEC và sau đó là các nước ở
Đơng Âu, Nhật, Braxin, Trung Quốc[19]. Tuy nhiên sản lượng lại tập trung ở 4
nước là Mỹ, Braxin, Achentina, Trung Quốc. Theo Yeony Holee, 1993[28] thì
trên 80% sản lượng đậu tương trên thế giới được sản xuất tại Mỹ và sản lượng
đậu tương trên thế giới phụ thuộc phần lớn vào 4 nước là Mỹ 52%, Braxin 17%,
Achentina 10%, Trung Quốc 10%.

Có được thành cơng như vậy phải nói rằng nước Mỹ đã hết sức chú trọng
đến việc phát triển đậu đỗ. Không những tăng về diện tích mà Mỹ cịn quan tâm
đến vấn đề nghiên cứu và tạo giống. Hiệp hội đậu tương Hoa Kỳ (ASA:
American Soybean Association) được thành lập từ năm 1920 có 52 nghìn hội
viên. Ở Mỹ việc chọn lọc, nhập nội và lai tạo giống rất được quan tâm. Năm
1893 Mỹ đã có trên 10.000 mẫu giống được thu thập từ khắp nơi trên thế giới.
Tiếp sau Mỹ là Braxin, Trung Quốc và Achentina, đây là những quốc gia
đi đầu trong phong trào sản xuất và nghiên cứu về đậu tương. Đậu tương ở

Braxin mới chỉ được trồng từ những thập kỷ 60 nhưng cho đến nay thì sản lượng
đậu tương của nước này quả là không nhỏ. Trung Quốc là nước đã mạnh dạn
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong lại tạo, nhập nội giống và cải
tiến giống.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Hiện nay có rất nhiều các tổ chức được thành lập và đang nghiên cứu về
đậu tương như: Trung tâm nghiên cứu và đào tạo nông nghiệp cho vùng Đông
Nam Á (The Southeast Asian Regional Center for Graduate Studyan Reserach in

KIL
OBO
OKS
.CO
M

Agricuture-SEARCA); Viện nghiên cứu nông nghiệp nghiệt đới (The
International Institute of Tropical Agriculture-IITA); Chương trình hợp tác
nghiên cứu cây thực phẩm của các nước Trung Mỹ (CPPCCMA); Trung tâm
nghiên cứu và phát triển rau mầu châu Á (The asian Research and Development
Center-AVRDC); Chương trình đậu tương quốc tế INTSOY và ISVEX...
Trung tâm AVRDC là nơi đánh giá tập đoàn gen lớn nhất thế giới. Năm
1992 có 12 nước nhiệt đới trong đó có cả Việt Nam quan hệ với tập đoàn gen
đậu tương của AVRDC, đã chọn lọc thành cơng 24 giống đậu tương có năng
suất cao, thích ứng với điều kiện trồng trọt, điều kiện sinh thái của từng quốc gia
và lại có khả năng chống bệnh gỉ sắt[24].

Thí nghiệm quốc tế 1982 đánh giá 108 bộ giống đã thu được kết quả là

chia làm 3 nhóm căn cứ vào thời gian sinh trưởng của các giống. Nhóm A gồm
các giống trồng ở vùng nhiệt đới trong đó có Siata đạt năng suất cao nhất ở các
điểm thí nghiệm (20,4tạ/ha). Giống ICAL-124 năng suất đạt 19,7tạ/ha, giống
IJFV 28,4 tạ/ha. Nhóm B gồm các giống thích hợp với vùng Á nhiệt đới, trong
đó giống Davis có năng suất 18,48tạ/ha, DK-94 18,27 tạ/ha, ASSEX đạt 26,42
tạ/ha. Nhóm C gồm các giống thích ứng với vùng ơn đới. Các giống AMCOR
26,48 tạ/ha, giống Kent 26,42 tạ/ha và ASSEX C 31,6 tạ/ha thuộc nhóm C.
Tóm lại, đậu tương ngày nay đang được quan tâm đến như một cây trồng
quan trọng trong hệ thống cây trồng nông nghiệp. Việc nghiên cứu, chọn tạo
giống không chỉ được một nước hay một vài nước quan tâm mà được cả thế giới
quan tâm. Hơn thế nữa, bên cạnh việc cải tiến năng suất và phẩm chất thì các
nhà nghiên cứu cịn chú ý đến năng suất và phẩm chất của đậu tương và khả
năng chống chịu với điều kiện hoàn cảnh, sâu bệnh của các giống đậu tương.
Nhìn chung, các nghiên cứu về đậu tương đi theo các hướng sau:

- Nhập nội các giống sau đó tiến hành thí nghiệm để chọn lọc các giống
thích nghi với các điều kiện của từng vùng.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
- Thu thập vật liệu từ mọi nguồn sau đó tiến hành chọn lọc lại tạo, chọn
lọc ra những giống, dòng tốt.
- Khảo sát các giống trên mỗi vùng sinh thái từ đó tìm ra khả năng thích

KIL
OBO
OKS
.CO
M


nghi của mỗi giống trên mỗi vùng khác nhau.

- Bằng cách tạo biến dị, dùng các tác nhân vật lý, hoá học để tạo đột biến,
tạo vật liệu để chọn giống.

- Xác định lại vùng trồng đậu tương trên thế giới và mỗi nước trồng đậu
tương đạt năng suất và sản lượng cao.

2.2.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC.
Cây đậu tương có lẽ khơng cịn lạ gì đối với mỗi người dân Việt Nam và
các sản phẩm từ đậu tương đã được sử dụng từ rất lâu. Theo nhiều tài liệu cho
thấy Việt Nam đã có lịch sử trồng đậu tương lâu đời. Trong thư tích thế kỷ VI
cho biết ở Bắc Bộ có trồng đậu tương. Sách "Vân đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn
thế kỷ XVIII đề cập nhiều đến đậu tương. Nhân dân ta biết trồng trọt và sử dụng
đậu tương từ hàng nghìn năm nay, nhưng trước đây sản xuất đậu tương chỉ bó
hẹp trong một phạm vi nhỏ thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc như: Cao Bằng,
Lạng Sơn... Trước cách mạng, diện tích đậu tương cả nước là 30.000ha, năng
suất bình quân 410kg/ha. Sau cách mạng nhà nước ta đã chú ý đến đẩy mạnh sản
xuất đậu tương nhưng kết quả đạt được cịn thấp[1].

Theo Lê Song Dự[5] thì sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất nước
nhà, sản xuất đậu tương mới có bước tiến đáng kể. Tầm quan trọng của cây đậu
tương trong sản xuất nông nghiệp nước ta được xác định với 3 mục đích: Giải
quyết vấn đề protein cho người và gia súc, xuất khẩu để đổi lấy vật tư cho nông
nghiệp và cải tạo đất.

Diện tích bình qn 1981-1985 tăng gấp 2 lần so với thời kỳ 1975-1980
với số liệu tương ứng là 39.257 ha và 98.000 ha, năng suất bình quân tăng từ
500kg/ha lên 750-800kg/ha. Diện tích bình qn từ 1985-1993 đạt 106.000ha.

Vậy là gấp đôi thời kỳ 1975-1980.

Theo tác giả Phạm Văn Thiều[19] thì hiện nay chúng ta đã hình thành 4
vùng sản xuất đậu tương lớn , tập trung là:



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
- Các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc.
- Vùng đồng bằng sơng Hồng.
- Miền đông Nam Bộ.

KIL
OBO
OKS
.CO
M

- Vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trong đó, các tỉnh có diện tích đậu tương tương đối nhiều là Đồng Nai
26,3 nghìn ha, Đồng Tháp 6 nghìn ha, Hà Bắc 6,9 nghìn ha, Cao Bằng 5,9 nghìn
ha, Đắc Lắc 5,6 nghìn ha, Sơn La 4,3 nghìn ha. Các tỉnh có diện tích trên 2
nghìn ha là Lâm Đồng, Thanh Hố, Nam Hà, Hải Hưng, Hồ Bình, Hà Tây,
Vĩnh Phú, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang (số liệu năm 1992). Ở
các vùng này thường trồng theo 3 vụ là vụ xuân, hè, thu đông.
Cũng theo Phạm Văn Thiều thì tốc độ tăng diện tích của ta rất nhanh, nếu
lấy năm 1976 làm mốc thì cả nước có 39,4 nghìn ha mà năm 1995 đã lên 133
nghìn ha, tăng 337,56%. Trong đó thời kỳ 1981-1985 tăng mạnh nhất, đặc biệt
là năm 1982. Nếu tính về năng suất thì quả thực năng suất đậu tương của ta cịn

thấp, chỉ ở mức 9,5-11tạ/ha. Năm 1992 năng suất bình quân là 820 kg/ha trong
khi thế giới là 2088kg/ha, tức là chỉ bằng 39,7% năng suất của thế giới. Cũng có
lẽ vì năng suất thấp cho nên tốc độ tăng năng suất nhanh. Năm 1976 năng suất
bình quân của cả nước là 5,25tạ/ha thì 1995 là 9,6tạ/ha, tăng 182%. Tuy nhiên
có một số tỉnh ở miền Bắc năng suất đạt cao so với cả nước: Hải Phịng 18tạ/ha,
Thái Bình 12,8tạ/ha.

Trong những thập kỷ 90 trở lại đây, việc trồng đậu tương đã được chú
trọng hơn, thể hiện bởi bảng sau:



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Trung du
miền núi
phía Bắc

DT(nghìn ha)
110,3
106,4
127,8

NS (tạ/ha)
10,31
10,62
11,05

SL (nghìn tấn)
113,8

113,0
141,3

1996

47,6

7,29

35,4

1997

48,5

8,39

40,7

1998

54,6

8,49

46,4

KIL
OBO
OKS

.CO
M

Cả nước

Năm
1996
1997
1998

(Theo niên giám thống kê 1995, NXB Thơng Kê Hà Nội 1996)
Vùng trung du miền núi phía Bắc là vùng sản xuất lớn so với cả nước.
Đây là vùng sản xuất đậu tương sớm so với cả nước. Tuy năng suất chỉ ngang
bằng so với cả nước nhưng nơi đây cung cấp một sản lượng đậu tương lớn.
Những thống kê dưới đây đã chỉ rõ điều đó:
Năm
1985
1990
1991
1992
1993
1994
1995

DT (nghìn ha)

NS (tạ/ha)

SL (nghìn tấn)


102,0

7,8

79,1

110,0

7,9

86,1

101,1

7,9

80,0

97,3

8,2

80,0

120,1

8,7

105,7


132,0

9,4

124,5

121,0

10,3

125,5

(Theo nguồn tổng cục thống kê 1996-1998).

Nhìn chung việc trồng, sản xuất đậu tương bên cạnh những thuận lợi về
điều kiện thời tiết thì cũng thường xuyên gặp những khó khăn bởi sự biến động
thất thường của thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm, sâu bệnh, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa
học kỹ thuật...

Theo Lê Song Dự[5] để đưa cây đậu tương trở thành một cây trồng chính
tương xứng với giá trị chiến lược của nó trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta
cần giải quyết tồn diện các vấn đề khó khăn gặp phải. Đứng về góc độ khoa



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
học kỹ thuật con đường để đưa cây đậu tương trở thành cây trồng chính có năng
suất cao, ổn định ở nước ta phải:
- Xác định hệ thống và cơ cấu mùa vụ thích hợp bằng các công thức luân


KIL
OBO
OKS
.CO
M

canh tăng vụ, trồng xen cho từng vùng sinh thái khác nhau.

- Tạo được các giống có năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu sâu
bệnh phù hợp với các hệ thống canh tác, mùa vụ ở các vùng sinh thái.
- Xây dựng các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng năng suất thích hợp
nhằm khắc phục các yếu tố khơng thuận lợi của khí hậu nhiệt đới ẩm cũng như
điều kiện hạn chế về cơ sở vật chất kỹ thuật.

Nước ta đã có nhiều nhà khoa học đang ngày đêm nghiên cứu để tạo ra
nhiều loại giống cây trồng mới có năng suất cao, phẩm chất tốt. Đóng góp vào
cơng trình nghiên cứu về đậu tương phải kể đến nhiều cơng trình nghiên cứu về
các hướng tạo giống.

Theo Trần Đình Long[10], bằng phương pháp dùng tác nhân đột biến là
các tác nhân vật lý và hoá học tác động lên giống Cúc Lục Ngạn, V70, Vân Kiểu
và Xanh Lơ. Kết quả chọn lọc qua 9 thế hệ đã phân lập được 3 dòng đột biến có
triển vọng là H-103, 175 và A9. Năng suất thí nghiệm là 25,8-36,5tạ/ha. So với
giống khởi đầu là 17,4tạ/ha. Dòng M-103 và A9 chín sớm hơn giống khởi đầu từ
7-14 ngày. Có khả năng trồng trong vụ xuân và vụ đơng. Dịng 175 có hàm
lượng protein 38,1% vượt đối chứng 3,1%.

Tiến sỹ Trần Đình Long và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu và khảo
sát tập đoàn 1430 mẫu giống đậu tương trong năm 1989 đã lai tạo được 30 tổ
hợp lai, giới thiệu các giống đậu tương có triển vọng như VX91, VX92, MV1,

MV2, MV3 (Theo Vũ Tuyên Hoàng, 1990).

Năm 1987 ở vụ xuân từ tổ hợp lai ĐH4×TH184 đã thu được giống đậu
tương ĐT92CĐ1 có thời gian sinh trưởng trung bình 95-105 ngày, sinh trưởng
tốt, đặc biệt là ở vụ xuân, khả năng phân nhánh trung bình, chống bệnh gỉ sắt
khá. Hạt to màu vàng, năng suất trung bình 16,8tạ/ha, cao nhất là 23,5tạ/ha[6].
Năm 1986 tại bộ mơn Cây cơng nghiệp tiến hành lai hữu tính tổ hợp lai
821×134 (với dịng 821 là con lai của tổ hợp DI02×ĐH4) và tạo ra dịng lai 862



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
(ĐT93). Năm 1997 ĐT93 được cơng nhận giống quốc gia. Giống ĐT93 có thời
gian sinh trưởng ngắn, thích ứng rộng, có thể trồng cả 3 vụ, năng suất khá[2].
Giống TL57 được chọn lọc trong vụ đơng 1998 từ tổ hợp lai Đ95×V993.

KIL
OBO
OKS
.CO
M

Giống có thời gian sinh trưởng trung bình, sinh trưởng tốt, chịu rét khá, năng
suất cao, ổn định trong vụ đông và vụ xuân, năng suất cao nhất đạt 19,5321,0tạ/ha[6].

Trần Đình Long và các cộng tác viên[11] đã chọn được giống AK02 từ
vùng Mường khương có thời gian sinh trưởng ngắn (75-85 ngày), cho năng suất
từ 15-17 tạ/ha. Chất lượng hạt tốt, chống chịu được nhiệt độ cao và sâu bệnh
khá.


Trung tâm cây trồng Việt Nga đã chọn được giống VX9-2 có năng suất
cao 20-25 tạ/ha, có khả năng thâm canh cao, chịu trồng dày[12].
Giống AK05 được bộ môn Sinh lý cây trồng-Viện khoa học nơng nghiệp
Việt Nam chọn tạo có thời gian sinh trưởng 90-95 ngày và năm 1995 được công
nhận giống quốc gia[14].

Việc áp dụng các tiến bộ mới vào chọn giống như tạo đột biến đã mang
lại kết quả.

Theo PGS.PTS Trần Tú Ngà nghiên cứu ứng dụng đột biến thực nghiệm
trong tạo giống đậu tương đã chọn ra được một số dịng có triển vọng, có thời
gian sinh trưởng ngắn hơn đối chứng, năng suất cao hơn hoặc bằng đối chứng và
có hàm lượng protein và dầu cao hơn[17].

DT84 là giống đậu tương được chọn tạo bằng phương pháp xử lý đột biến
dịng 8-33 (DT80×ĐH4) bằng tia Gama col18Kr, áp dụng chọn lọc 3 hoặc 1 hạt
đến M8 thì chọn được DT84 ổn định. Đây là giống ngắn ngày, thích ứng rộng,
có nhiều tiềm năng[22].

Giống đậu tương DT95 được chọn lọc bằng phương pháp đột biến thực
nghiệm từ giống đậu tương AK04 (hạt màu xanh) bằng tác nhân Co60/18Kr từ
vụ hè thu năm 1991. Vụ đông năm 1992 (M3) phân lập được dịng AK04(2) hạt
có màu vàng sáng. Chọn lọc dịng này tới M7 thì được dịng ổn định là DT95 là
dòng sinh trưởng khoẻ, năng suất cao[21].



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bên cạnh việc tạo giống bằng các phương pháp lai thì chọn tạo giống
bằng phương pháp nghiên cứu đánh giá tập đoàn cũng mang lại kết quả.

PTS Vũ Đình Chính qua so sánh 1 số dòng giống đậu tương gieo trồng

KIL
OBO
OKS
.CO
M

trong vụ xuân trên đất bạc màu Vĩnh Phúc với vật liệu gồm 8 dòng là AK03,
V74, 392, M103, 801A, 903, 912, 356 đã đi đến kết luận: các giống thuộc nhóm
chín sớm và trung bình sớm thích hợp với cơ cấu đậu tương phân vùng đất bạc
màu, trung du huyện Yên Lập-Vĩnh Phú, các dịng giống mới lai tạo đều có năng
suất cao hơn đối chứng trong đó cao nhất là 801A và 912. Hạt đều, có màu vàng
đẹp, thích hợp cho xuất khẩu[3].

Những nghiên cứu mới đây về đậu tương, kết quả chọn tạo giống đậu
tương trung ngày cho vùng đồng bằng Bắc Bộ với vật liệu gồm 7 giống thuộc
các tổ hợp lai ĐT74×ĐT92 (3 giống TL9407 , TL9331 và TL9501), tổ hợp lai
VX93×TH184 (2 giống TL9407 và TL9502) và tổ hợp ĐT99×ĐT38 (2 giống
TL9413 và TL9414) và giống đối chứng là ĐT74. Đây là các giống có tiềm
năng năng suất cao. Đưa ra kết luận các giống đậu tương được chọn tạo có thời
gian sinh trưởng trung ngày, có khả năng chống đổ và chống bệnh tốt, các yếu tố
cấu thành năng suất, năng suất đều cao hơn hẳn giống đối chứng về số đốt mang
quả, khối lượng 1000 hạt và năng suất hạt. Đánh giá tính ổn định về năng suất
cho thấy các giống đậu tương khác nhau có phản ứng khác nhau đối với sự thay
đổi của điều kiện mơi trường. Dựa vào sự biểu hiện kiểu hình và các tham số ổn
định cho thấy các giống đậu tương TL9502 (Đ9804) và TL9313 (Đ9802) được
xác định là các giống có năng suất cao, ổn định và có khả năng thích nghi rộng
với điều kiện gieo trồng trong vụ xuân và vụ đông ở vùng đồng bằng Bắc Bộ[7].
Theo TS. Nguyễn Tấn Hinh và cộng tác viên[8] trong kết quả đánh giá

khả năng thích ứng của một số giống đậu tương khảo nghiệm đều cho năng suất
cao hơn hẳn giống đối chứng ĐT74 ở cả vụ xuân và vụ đông. Trong đó các
giống đậu tương Đ9804 và Đ9802 được xác định là các giống có năng suất cao,
ổn định và có khả năng thích ứng rộng đối với các điều kiện sinh thái khác nhau.
Giống Đ9901 là giống có tiềm năng năng suất cao, tương đối ổn định và có khả
năng thích ứng đặc trưng đối với điều kiện mơi trường thuận lợi.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Giống đậu tương Đ9804 được tạo từ tổ hợp lai VX9-3×TH184 (năm
1991). Năm 1999 đã khảo nghiệm và cho thấy Đ9894 cho năng suất cao hơn đối
chứng ĐT74 từ 8,3-51,1%. Năng suất trung bình vụ xuân đạt 22,1 tạ/ha,năng

KIL
OBO
OKS
.CO
M

suất vụ đông đạt 20,3 tạ/ha. Đây là giống có nhiều tiềm năng[9].
Với việc sử dụng tác nhân gây đột biến hoá học NaN3, NMU ở nồng độ
cao (0,002-0,003M) và phóng xạ tia Gamma nguồn Co60 ở nồng độ cao (>20Kr)
có tỷ lệ gây chết cao đối với các giống đậu tương ĐT92, TL57, AK03, Đ95 và
V74 đã chọn được một số dòng đậu tương đột biến có năng suất cao. Thời gian
sinh trưởng ngắn ngày như : Đ1Na3-13, Đ1N1-15, ANa2-23, AD4-1[18].
Thực tiễn sản xuất đậu tương đã khẳng định vai trị của nó trong cuộc
sống. Nó gắn liền với cuộc sống con người và là cây trồng khơng thể thiếu được
của mỗi một quốc gia. Chính vì vai trị quan trọng đó mà trong nghiên cứu chọn
tạo giống rất được chú trọng. Song những nghiên cứu về cơng tác chọn tạo

giống ở trên đã trình bày cho thấy: Tuy đã có nhiều hướng đi khác nhau nhưng
tóm lại cả thế giới cũng như ở Việt nam đều tập trung vào hướng tạo ra các
dòng, giống đậu tương mới năng suất cao nhằm thoả mãn nhu cầu trước mắt mà
lãng quên đi các giống địa phương. Điều này làm mất dần đi nguồn gen đậu
tương địa phương. Nguồn gen rất quý giá về các đặc tính chống chịu, khả năng
chống chịu với các điều kiện ngoại cảnh. Vì thế cần phải có những nghiên cứu
về vấn đề này để nhằm quy tập lại nguồn giống đậu tương địa phương và tìm
kiếm nguồn vật liệu cho cơng tác chọn giống đậu tương trong tương lai.
Tóm lại, những nghiên cứu ở trong nước đã góp phần đưa đậu tương trở
về với vị thế quan trọng của nó trong hệ thống trồng trọt ở Việt Nam.

2.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ
TÀI.

Vai trò của đậu tương đã được khẳng định. Giờ đây cây dậu tương đă trở
thành một cây trồng quan trọng trong hệ thống cây trồng nông nghiệp .Nhưng để
phát trỉên đậu tương hơn nữa cần phải biết kết hợp nhiều biện pháp .Một trong
những hướng đi đó là tạo ra những bộ giống có năng xuất cao, phẩm chất tốt và



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
ổn định .Các giống đó phải thích nghi cho từng vùng sinh thái khác nhau, với
những tiềm năng về năng xuất và khả năng thích nghi, chống chịu các điều kiện
tự nhiên và sâu bệnh ...Trong quá trình chọn tạo giống thì việc đầu tiên cơ bản

KIL
OBO
OKS
.CO

M

đó là phải tìm được nguồn vật liệu chọn giống. Phát huy nội lực việc thu thập và
khảo sát tiến tới chọn lọc các mẫu giống đậu tương địa phương từ các tỉnh miền
núi và trung du phía Bắc.Từ đó nhằm phục vụ cho cơng tác chọn tạo giống đậu
tương là điều rất có ý nghĩa.Hơn nữa nó cịn góp phần vào việc quy tập lại các
bộ giống đậu tương của Việt nam.

Các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc là vùng có địa hình phức tạp đồi
núi dốc, đất dễ bị rửa trơi, thêm vào đó là điều kiện sinh thái phức tạp trong
vùng.Nơi đây người dân với nền kinh tế tự cung tự cấp, canh tác theo hình thức
du canh du mục. Cây đậu tương là cây thực phẩm, là cây trồng được biết đến và
sử dụng từ rất sớm trong lịch sử phát triển nông nghiệp, đặc biệt ở các vùng
nhiệt đới, trung du và miền núi, nơi nền kinh tế tự cung tự cấp tồn tại từ rất xa
xưa tới nay.Vì thế đối với người dân cây đậu tương rất gắn bó và trở thành một
cây trồng quan trọng trong hệ thống cây trồng của họ. Cùng với người dân cây
đậu tương cũng đã thể hiện được các ưu điểm của mình so với các cây trồng
khác. Là một cây trồng cạn, dễ trồng có thể trồng trên mọi loại đất với mọi địa
hình khác nhau:Ven nhà, sườn dốc, ven núi, bờ suối... Một ưu điểm nữa đó là
hạt đậu tương rất dễ chế biến thành các sản phẩm khác nhau:Đậu phụ, sữa đậu
nành, đậu rang, giá đậu...Với vai trò quan trọng như vậy đậu tương đã gắn bó và
phát triển, trong những điều kiện sinh thái khác nhau (do sự đa dạng về địa hình,
thổ nhưỡng, khí hậu ), kết hợp với giữa chọn lọc tự nhiên, chọn lọc nhân tạo các
giống đậu tương địa phương được hình thành. Điều đó đã làm cho vùng trung du
miền núi trở thành vùng đa dạng nhất về các giống đậu tương địa phương. Nơi
đây tận trung nguồn vật liệu vô cùng phong phú cho giống đậu tương
Hơn nữa trong xu hướng phát triển nông nghiệp nói chung hiện nay việc
tăng cường đưa các giống cây trồng mới năng suất cao ngày càng dược dưa vào
sản xuất mạnh mẽ hơn nữa. Từ đó dẫn đến mất dần các giống địa phương,
nguồn gen quý của cây trồng.




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Do vậy việc thu thập gìn giữ và khảo sát các giống đậu tương là rất cần

KIL
OBO
OKS
.CO
M

thiết cho công tác chọn giống sau này.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1.NỘI DUNG.

KIL
OBO
OKS
.CO
M

Tiến hành thí nghiệm khảo sát các đặc tính nơng sinh học của các mẫu
giống đậu tương thu thập được từ các tỉnh miền núi phía Bắc. Từ những số liệu
thu thập được rút ra những nhận xét, kết luận cụ thể về các mẫu giống đó.


3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.2.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU.

- Thí nghiệm bao gồm 20 giống đậu tương thu thập từ các tỉnh miền núi
phía Bắc, trong đó có hai giống đối chứng là DN42, AK03.

3.2.2. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU.

-Thí nghiệm được bố trí ngồi đồng ruộng trên khu thí nghiệm của bộ
môn:Sinh thái và Môi trường.Khoa nông học. Trường ĐHNNI Hà Nội.
-Đất được cày ải, bừa, đập nhỏ, san phẳng, làm sạch cỏ, lên luống, chia ơ.
3.2.3. PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM.

-Đây là thí nghiệm khảo sát tập đồn được bố trí ngẫu nhiên hồn tồn,kơ
khơng có lần nhắc lại. Diện tích mỗi ơ thí nghiệm là: 3,6m2(2×1.8).
-Gồm 18 giống thí nghiệm và 2 giống đối chứng(AK03, DN42).[phụ lục]
-Mỗi giống đều được gieo trên diện tích một ơ. Các biện pháp kỹ thuật
được áp dụng đồng đều trên tất cả các ơ thí nghiệm.

3.2.4.QUY TRÌNH KỸ THUẬT.

3.2.4.1. Mật độ.
Tất cả các giống trên các ô đều được gieo với mật độ 35 cây/m2.
3.2.4.2. Phân bón.
-Lượng phân:+Phân chuồng: 8 tấn/ha =0,8 kg/m.
+P205

: 90 kg/ha =0,009 kg/ha.


+K20

:40 kg/ha =0,004 kg/ha.

+N

:30 kg/ha =0,003 kg/ha.

-Cách bón: Bón lót tồn bộ phân chuồng +1/3 N +1/3 P205 + 1/2K20



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bón thúc:

Lần1. Khi cây có3-4 lá thật bón 1/3N.
Lần 2. Khi cây bắt đầu ra hoa bón lượng phân cịn lại.

KIL
OBO
OKS
.CO
M

3.2.4.3. Làm cỏ.
-Lần 1.Sau khi cây được 3-4 lá kết hợp bón thúc, xới và vun.
-lần 2. Lúc ra hoa kết hợp bón thúc, xới và vun cao lần cuối.
3.2.4.4. Tưới nước.
-Tưới vào thời điểm khi độ ẩm dưới 70% so với độ ẩm tối đa đồng ruộng.
3.2.4.5. Sâu bệnh.

-Thường xuyên quan sát kiểm tra trên đồng ruộng và có biện pháp tiến
hành phịng và trừ sâu thích hợp.

-Thời kỳ mọc thường hay có sâu xám tiến hành bắt và buổi sáng hoặc
chiều mát.

-Thời kỳ cây non có thể có sâu cuốn lá phải kịp thời phát hiện để phòng trừ.
-Các giai đoạn sau chú ý sâu bệnh hại hoa và hại quả.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:

Dải
bảo
vệ

04
12
02
52
63

Dải bảo vệ
49
11
57
81
06
01
71
10
59

07
Dải bảo vệ

43
03
42
65
09

Dải
bảo
vệ

3.2.5. CÁC CHỈ TIÊU THEO DÕI.

3.2.5.1.Tỷ lệ nảy mầm và thời gian nảy mầm.
-Tỷ lệ nảy mầm của các giống: Lấy 100 hạt mỗi giống gieo trên ơ thí
nghiệm hoặc khay. Sau đó đếm số hạt nảy mầm, Từ đó tính được tỷ lệ nảy mầm
của các giống trên từng ơ thí nghiệm.

Tỷ lệ mọc mầm= Số hạt nảy mầm ×100%/Số hạt gieo



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
-Thời gian nảy mầm. Tính từ khi gieo hạt đến khi có >50% số hạt mọc
vươn lên khỏi mặt đất xòe hai lá mầm ra trên mỗi ơ.

KIL
OBO

OKS
.CO
M

3.2.5.2. Hình thái của các giống.
-Màu sắc thân, số nhánh cấp 1, màu sắc lơng.
-Hình dạng lá, số lá chét.
-Màu sắc hoa.

-Màu sắc quả, hạt.

3.2.5.3 Các giai đoạn sinh trưởng của các giống đậu tương thí nghiệm.
-Thời gian gieo đến khi nảy mầm:Khi có 50% số cây nảy mầm.
-Thời gian từ nảy mầm đến ra hoa:Khi trên ô có >50% cây có hoa.
-Thời gian ra hoa đến kết thúc ra hoa. Tính từ khi cây ra hoa đến khi trên
mỗi ơ thí nghiệm có >50% số cây có hoa cuối cùng tàn.

-Thời gian hoa tắt đến quả chắc. Quả chắc khi có > 50% số quả nhân đã
hình thành đạt kích thước tối đa.

-Thời gian từ khi quả chắc đến chín hồn tồn:Quả chín khi có >50% số
cây lá đã vàng, quả đã vàng khô.

-Tổng thời gian sinh trưởng: Là thời gian từ khi gieo hạt cho đến khi quả
chín có thể thu hoạch được.

3.2.5.4. Sự tăng trưởng chiều cao và tốc độ tăng trưởng chiều cao.
-Cách tiến hành: +Cố định cây trên mỗi ô gồm 5 cây ngẫu nhiên bằng cọc
đánh dấu.


+Đo khi cây có từ 2-3 lá thật cho đến khi cây ngừng sinh trưởng về chiều
cao và đo lần cuối khi thu hoạch.

+Cách đo: Đo từ gốc đến đỉnh sinh trưởng của cây.

+Thời gian đo: 7 ngày đo một lần đối với tất cả các giống.
+Kết hợp với đo chiều cao là đếm số lá và số nhánh cấp 1.
+Từ chiều cao thu được đánh giá động thái tăng trưởng chiều cao cây qua
các lần đo của các giống. Bằng cách tính tốc độ tăng trưởng chiều cao của cây
trong ngày.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
3.2.5.5. Đo chỉ số diện tích lá.
-Đo chỉ số diện tích lá trong 3 thời kỳ bằng phương pháp cân nhanh. Mỗi
lần lấy 3-5 cây ở các thời kỳ sau:

KIL
OBO
OKS
.CO
M

+Thời kỳ ra hoa.
+Thời kỳ hoa rộ.

+Thời kỳ quả chắc.

-Chỉ số diện tích lá được tính theo cơng thức:


CSDTL=Diện tích lá của một cây(m2/cây)× Mật độ(cây/m2).
Đơn vị là:m2 lá/m2 đất.

3.2.5.6. Q trình tích lũy chất khơ.
Kết hợp với đo chỉ số diện tích lá. Đo quá trình tích lũy chất khơ.
-Tiến hành: Lấy các mẫu giống đo trọng lượng tươi của các mẫu giống.
-Sau đó cho các mẫu giống và túi giấy và sấy đến trọng lượng không đổi.
Đem ra và cân trọng lượng chất khô của các mẫu giống.

-Đánh giá tốc độ tích lũy chất khô qua bảng số liệu thu được.
3.2.5.7. Chỉ tiêu nốt sần.
-Tiến hành cùng với đo chỉ số diện tích lá và khả năng tích lũy chất khơ.
-Tưới đẫm cho 5 cây trước khi nhỗ. Khi nhổ phải khéo để không làm rụng
nốt sần. Lọc đất để lấy nốt sần.

-Đếm tổng số nốt sần trên cây.

-Đếm tổng số nốt sần hữu hiệu trên cây. Là những nốt sần có màu tím,
dịch tím.

-Tính tỷ lệ nốt sần hữu hiệu.
-Đếm ở 3 thời kỳ như trên.

3.2.5.8 Theo dõi ra hoa và động thái ra hoa.
-Khi cây ra hoa thì tiến hành đếm hoa ở 5 cây đã đánh dấu vào lúc 7-8h
sáng hàng ngày.

-Thu được tổng số hoa và từ đó suy ra khả năng và tỷ lệ đậu quả.




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
3.2.5.9. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất.
-Các yếu tố cấu thành năng suất.
+Số hoa trên cây.

KIL
OBO
OKS
.CO
M

+ Số quả trên cây và tỷ lệ đậu quả
+Tỷ lệ quả chắc trên cây.
+Số hạt trên quả.

+Trọng lượng P100, (P1000) hạt.
-Năng suất.

+Năng suất lý thuyết =

NSCT ( g ) × M D × 10000
(tạ/ha)
100000

NSCT: Năng suất cá thể (g/cây).
MD: Mật độ(cây/m2)

+Năng suất thực thu =


NSTTOTN ( g ) × 10000
(Tạ/ha)
DTOTN (m 2 ) × 100000

NSTTOTN: Năng suất thực thu tổng ơ thí nghiệm (g/m2)
DTOTN: Diện tích mỗi ơ thí nghiệm (m2)


×