Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

DIỄN BIẾN KINH TẾ VĨ MÔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.15 KB, 53 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, các vấn đề liên quan đến các chính sách tiền tệ và thị trường tài chính trong và
ngoài nước đang là những vấn đề thời sự đối với nền kinh tế và toàn xã hội. Trong khoảng
thời gian vừa qua, các vấn đề trên đã trở thành chủ đề nghiên cứu của rất nhiều chuyên gia
về kinh tế và là đề tài được quan tâm của toàn xã hội. Thị trường tài chính trở thành vấn đề
được nhiều người quan tâm do sự bất ổn của nó trong khoảng thời gian qua. Trong suốt
khoảng thời gian từ năm 2007 đến nay, thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường
tài chính Việt Nam đã trải qua những biến động và diễn biến bất thường khiến cho nền kinh
tế luôn gặp phải những khó khăn dẫn tới suy thoái và khủng hoảng. Song song với việc đối
phó với những vấn đề bất ổn của thị trường tài chính, nền kinh tế còn phải bám sát với mục
tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên với những khó khăn đang gặp phải khiến cho các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh chứ chưa tính đến
việc tăng sản lượng để tăng trưởng phát triển. Các hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào việc vay vốn từ các ngân hàng nhưng họ lại gặp trở ngại do các chính sách tiền tệ
mà nhà nước đặt ra cũng như những khó khăn do tỷ giá hối đoái thay đổi từ những biến
động trên thị trường tài chính thế giới. Những vấn đề bất ổn của thị trường tài chính cùng
với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đặt ra vấn đề lớn đối với Nhà nước khi hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô cụ thể là chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là chính sách trung
tâm ảnh hưởng lớn đến các chính sách khác của Nhà nước. Đề tài nghiên cứu thực hiện là
cần thiết để có thể rút ra những bài học cho hoạt động hoạch định chính sách tiền tệ sau này.
Đề tài sẽ đi sâu vào trả lời các câu hỏi:
- Trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến nay, trước tình hình diễn biến khó lường
của nền kinh tế vĩ mô, Việt Nam đã có những phản ứng chính sách tiền tệ như thế nào
-

và đã có tác động gì tới nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam?
Từ những đánh giá tác động của phản ứng chính sách, cần rút ra những bài học gì


cho việc sử dụng chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô?

2. Tình hình nghiên cứu

Trước đề tài này đã có một số bài nghiên cứu về bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới
nhưng chưa chỉ rõ ra được những phản ứng của chính sách tiền tệ của Việt Nam như thế


2

nào. Bên cạnh đó trong các tạp chí và thời báo kinh tế hàng năm cũng có những bài viết về
chính sách tiền tệ nhưng thường bám sát vào một sự kiện kinh tế hoặc một khoảng thời gian
tầm khoảng 1-2 năm chứ chưa có một cái nhìn tổng quát trong một giai đoạn dài. Trước
nghiên cứu của nhóm đã có đề tài “Chính sách tiền tệ của Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới”. Tuy nhiên đề tài này nghiên cứu với mục đích làm rõ tác động của quá
trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới đối với phương thức điều hành chính sách tiền tệ
của Việt Nam, đánh giá những nội dung cơ bản của việc điều chỉnh chính sách tiền tệ sau
khi gia nhập tổ chức WTO của Việt Nam, phân tích các bài học kinh nghiệm của một số
nước và nêu lên các đề xuất, gợi ý nhằm hoàn thiện cách thức điều hành và cải thiện hiệu
quả của chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Sự khác nhau giữa mục đích nghiên cứu là điểm mới
để nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài này. Việc nắm bắt được những thay đổi trong chính
sách tiền tệ để phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt
Nam nói riêng không chỉ tạo cơ sở cho những đánh giá trong tương lai mà còn là những bài
học để đưa ra những quyết định trong chính sách sau này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục tiêu
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu về diễn biến của phản ứng chính
sách tiền tệ trong khoảng thời gian 2007 tới nay nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt
động hoạch định chính sách sau này.

3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện được đề tài, nhóm nghiên cứu cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
_Phân tích diễn biến kinh tế vĩ mô của kinh tế thế giới và Việt Nam để từ đó chỉ ra được
những tác động tới thị trường tài chính của Việt Nam
_ Từ những tác động được chỉ ra, nhóm nghiên cứu cần phải đưa ra các vấn đề đặt ra cho
nền kinh tế Việt Nam trong vấn đề ổn định nền kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế.
_ Sau khi chỉ ra những vấn đề đặt ra, nhóm nghiên cứu cần phân tích làm rõ và đánh giá
phản ứng của chính sách tiền tệ của Việt Nam trước các diễn biến của thị trường tài chính.


3

_ Sau khi phân tích các phản ứng của chính sách, nhóm nghiên cứu sẽ rút ra bài học cho
hoạt động hoạch định chính sách tiền đề nhằm rút kinh nghiệm cho hoạt động hoạch định
trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tiền tệ của Việt Nam
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Về không gian là chính sách tiền tệ của việt Nam, về thời gian là

năm 2007 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp nghiên cứu chung
Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê.
5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Nhóm nghiên cứu đã tập hợp các tài liệu từ các tài liệu báo cáo của WB, IMF, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam để phân tích diễn biến của chính sách tiền tệ trong khoảng thời
gian nghiên cứu. Bên cạnh đó bằng các phương pháp phân tích tổng hợp, nhóm nghiên cứu
đã phân tích các báo cảo của các bộ ngành liên quan từ đó đánh giá phản ứng của chính sách
tiền tệ của Việt Nam và rút ra bài học kinh nghiệm.

6. Kết cấu đề tài.
Đề tài được chia làm hai chương:
Chương 1. Diễn biến kinh tế vĩ mô và những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2007 đến nay
Chương 2. Quá trình phản ứng chính sách tiền tệ của Việt Nam và bài học kinh nghiệm

CHƯƠNG 1
DIỄN BIẾN KINH TẾ VĨ MÔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY


4

1.1 Diễn biến kinh tế vĩ mô giai đoạn 2007 đến nay
1.1.1 Diễn biến kinh tế thế giới
Trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới trải qua một thời kỳ biến
động rất lớn đặc biệt là trong giai đoạn này điểm nổi bật nhất của thế giới là bất ổn kinh tế
thế giới tiềm ẩn từ trong năm 2007 tới năm 2008 thì bùng nổ đầu tiên tại nền kinh tế lớn
nhất thế giới là Mỹ sau đó lan nhanh ra toàn thế giới với tốc độ nhanh chóng. Cho tới nay,
dù khoảng thời gian khó khăn nhất của thế giới đã đi qua tuy nhiên những bất ổn, bấp bênh
của sự phục hồi kinh tế vẫn còn đe dọa cho cả nền kinh tế thế giới. Điều đầu tiên gây nên
bất ổn kinh tế giới đó là vấn đề lạm phát. Lạm phát trên toàn thế giới đều đồng loạt tăng cao
đột biến
Bảng 1.1 Lạm phát của thế giới và các khu vực giai đoạn 2007 – 2008 (%)
Khu vực
Thế giới
Các nền kinh tế phát triển
Liên minh châu Âu
Các nước châu Phi
Các nước đang phát triển châu Á


2006
3,4
1,8
2,2
7,0
4,1

2007
5,0
3,1
3,1
7,1
6,3

2008
5,9
3,2
3,7
11,2
7,4

Nguồn: IMF
Dựa vào bảng 1.1 có thể thấy, lạm phát các khu vực trên thế giới tăng đáng kể từ năm
2007. Lạm phát thế giới tăng 2% từ năm 2006 – 2007, và tăng thêm 0,9% vào năm 2008.
Các nền kinh tế phát triển tăng lên 1,3% vào năm 2007, và tăng thêm 0,1% vào năm 2008.
Lạm phát của các nước châu Phi tăng mạnh vào năm 2008 (tăng thêm 4,1% so với năm
2007); các nước đang phát triển châu Á năm 2007 tăng lên tới 2,2% so với 2006 và năm
2008 tăng thêm 1,1% so với năm 2008. Ngày 11/7/2008 giá dầu thô thế giới đạt mức kỷ lục
hơn 147 USD/thùng, tăng gấp rưỡi mức giá hồi đầu năm 2008. Tuy nhiên, khi những đổ vỡ

trên thị trường tài chính Mỹ ngày càng gia tăng, cộng với suy giảm kinh tế lan rộng thì các
hoạt động đầu cơ đã đẩy giá dầu tụt dốc, đã có lúc giá dầu chỉ còn 40 USD/thùng vào cuối
tháng 12/2008. Bên cạnh sự biến động của giá dầu, giá vàng cũng liên tục tăng mạnh trong
những tháng đầu năm 2008. Sau khi giá vàng đạt mức kỷ lục 1033,9 USD/ounce vào tháng
3/2008 thì giá vàng lại giảm xuống nhưng giảm không mạnh do khủng hoảng tài chính Mỹ.


5

Trong tháng 7/2008, lạm phát tại Mỹ lên mức 5,6% so với cùng kỳ năm trước – mức cao
nhất trong 17 năm qua. Tại khu vực đồng Euro, mức lạm phát trong tháng 7/2008 là 4%, gấp
đôi so với mục tiêu 2% mà Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã đặt ra. Nhật Bản từ
lâu vẫn diễn ra tình trạng giảm phát, thì đến tháng 6/2008, lạm phát đã lên tới 2%. Tình
trạng lạm phát trong nửa đầu năm 2008 cũng gia tăng ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc
là 7,1%, Ấn Độ là 12,44%, Hàn Quốc là 5,9% - mức cao nhất trong 10 năm qua. Tuy nhiên
vào nửa cuối năm 2008, với việc giá dầu, giá vàng, giá lương thực giảm mạnh thì lạm phát
dần không còn là mối quan tâm chính của các nước trên thế giới bởi lúc này, thế giới đang
đối mặt với mối nguy hiểm khác đó là suy thoái kinh tế.
Trong khi các nền kinh tế trên khắp thế giới đang đối mặt với tình trạng lạm phát tăng
cao một cách đột biến, thì tăng trưởng GDP bước sang năm 2007 và 2008 lại có sự sụt giảm
ở hầu khắp các nền kinh tế đặc biệt là các nền kinh tế phát triển.

Bảng 1.2 Tăng trưởng GDP của thế giới và các khu vực giai đoạn 2006 – 2008 (%)
Khu vực và quốc gia
Thế giới
Các nền kinh tế phát triển
Hoa Kỳ
Liên minh châu Âu
Canada
Nhật Bản

Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
Braxin

2006
5,1
3,0
2,8
3,3
3,1
2.4
7,9
3,8

2007
5,0
2,6
2,0
3,1
2,7
2,1
8,0
5,4

2008
3,7
1,4
1,4
1,5
0,6
0,5

6,6
5,2


6

Châu Phi
Trung và Đông Âu
Các nền kinh tế mới nổi ở châu Á
Trung Quốc
Ấn Độ

6,1
6,7
9,8
11,6
9,8

6,1
5,7
9,5
11,9
9,3

5,2
4,2
8,3
9,7
7,8


Nguồn: IMF
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới có sự sụt giảm nhẹ vào năm 2007 (giảm 0,1% so
với năm 2006) và sụt giảm mạnh vào năm 2008 (giảm 1,3% so với năm 2007). Tăng trưởng
của các nền kinh tế phát triển trên thế giới đều có xu hướng giảm trong năm 2007 và năm
2008, trong khi các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đặc biệt là tại khu vực châu Á lại
có xu hướng tăng vào năm 2007, và có giảm vào năm 2008 tuy nhiên độ giảm không lớn và
dù giảm nhưng các khu vực và quốc gia này vẫn giữ tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao trên
thế giới. Có thể nói, các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đóng góp phần lớn trong
tăng trưởng GDP của thế giới.
Từ những số liệu trên, có thể nói trong giai đoạn 2007 – 2008, nền kinh tế thế giới
đang mắc phải những bất ổn nghiêm trọng bởi lạm phát tăng cao đột biến, tăng trưởng GDP
thì sụt giảm đáng kể, nhất là các nền kinh tế phát triển và lớn trên thế giới. Năm 2008 là
năm mà cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ bùng nổ và lan rộng ra toàn thế giới và từ
khủng hoảng tài chính đã trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong năm 2007, thị trường
tài chính thế giới bị đe dọa bởi sự âm ý bùng nổ của bong bóng nhà đất của Mỹ. Việc bùng
nổ bong bóng này đã gây ra tác động vô cùng lớn khi tạo ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu vào năm 2008. Sau một thời gian thị trường bất động sản của Mỹ sốt lên nhanh chóng,
thị trường này đã rơi vào tình trạng đóng băng khiến cho nhiều nhà đầu cơ vay tiền đầu tư
đã không thể thanh toán được khoản nợ. Số nợ xấu và khách hàng vỡ nợ ngày càng tăng cao
đẩy các công ty thương mại tín dụng vào cảnh thua lỗ. Hàng loạt các ngân hàng rơi vào
trạng thái mất thanh khoản nghiêm trọng và đứng trên bờ vực phá sản. Cuộc khủng hoảng
không chỉ dừng lại ở Mỹ mà lan sang các nước châu Âu ảnh hưởng tới các ngân hàng lớn
của châu lục này như Northern Rock của Anh hay Liên minh ngân hàng của Thụy Sỹ
(UBS). Hệ quả là cổ phiếu tài chính Mỹ liên tục lao dốc và một số giám đốc điều hành của
các tập đoàn tài chính Mỹ đã mất việc. Một số tập đoàn, trong đó có Citigroup, Merill Lynch
và Morgan Stanley phải nhờ sự sự trợ giúp từ bên ngoài bằng việc bán lại cổ phần cho các


7


nhà đầu tư lớn nước ngoài. Năm 2008 và năm 2009, nền tài chính thế giới bị chi phối gần
như hoàn toàn bởi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra ở Mỹ. Những vụ sụp đổ của các tập
đoàn, công ty tài chính hàng đầu của Mỹ như Bear Stearn, Lehman, Brother; Fannie Mae và
Freddie Mac – hai công ty đóng vai trò chủ chốt trong sự vận hành của thị trường nhà ở thứ
cấp ở Mỹ, tiếp theo đó là sự sụp đổ của tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới là AIG; Merill
Lynch – quỹ đầu tư hàng đầu thế giới được thành lập từ năm 1914 với số tài sản khổng lồ
khoảng 1,6 nghìn tỷ USD. Sự sụp đổ của các công ty, tập đoàn tài chính này không chỉ ảnh
hưởng lớn trên đất nước Mỹ mà còn ảnh hưởng trên toàn thế giới. Ở Anh, khoảng 10 ngày
sau khi Lehman sụp đổ thì có tới 8 ngân hàng lớn nhất bị rơi vào tình trạng có thể bị phá
sản, tới ngày 29/09/2008 hai trong số đó là Bradford và Bingley (B&B) đã phá sản và phải
bán bớt một phần hoạt động, đồng thời bị quốc hữu hóa cùng với ngân hàng HBOC. Ở Đức,
ngân hàng cho vay bất động sản hàng đầu ở Đức là Hypo Real Estate đã thoát khỏi được
nguy cơ phát sản trong gang tấc khi được nhận gói cứu trợ của Ngân hàng Trung ương Đức
Bundesbank. Tại Nhật Bản, nơi được coi là an toàn, ít có những món nợ cho vay cầm cố
dưới chuẩn cũng bị ảnh hưởng ít nhiều khi mà sau sự đổ vỡ Lehman Brothers, các trái phiếu
công ty ít được các ngân hàng Nhật Bản mua vì sợ rủi ro. Do đó các công ty đổ xô đến vay
ngân hàng còn ngân hàng thì không thể tăng cho vay đột ngột được và họ phải chọn lọc
khác hàng. Tình trạng này làm cho sự khan hiếm tín dụng cũng trở nên tồi tệ.
Có thể thấy, sau những vụ sụp đổ của các tên tuổi lớn trong nền tài chính thế giới thì
nền tài chính thế giới thực sự rơi vào tình trạng rối loạn, mất kiểm soát. Trước tình hình
khủng hoảng đang lan rộng như vậy, các quốc gia , tổ chức kinh tế trên thế giới bắt tay vào
việc khôi phục và đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng cùng với nhiều diễn dàn, hội nghị
các khu vực kinh tế, các quốc gia được tổ chức nhằm chia sẻ kinh nghiệm, bàn bạc giải
pháp, tìm cách khôi phục lòng tin vào sự phục hồi của nền kinh tế của toàn thế giới bằng các
chương trình cứu trợ ngân hàng và các kế hoạch kích thích kinh tế khổng lồ nhằm tăng vốn
khẩn cấp cho các định chế tài chính, mua lại các tài sản xấu, bảo lãnh thanh toán, tăng cung
thanh khoản cho hệ thống tài chính. Cùng với biện pháp trợ giúp khẩn cấp khu vực tài chính
ngân hàng thì các nền kinh tế thế giới đều đồng loạt hạ thấp mức lãi suất xuống thấp kỷ lục
trong năm 2009. Trước những biến động khó lường của nền kinh tế, đã buộc các ngân hàng
trung ương các nước trên thế giới phải thực thi các chính sách tiền tệ đột ngột. Nhờ những



8

giải pháp cứu trợ khẩn cấp được đưa ra, đầu năm 2009 ở hầu hết các thị trường chứng khoán
trên thế giới đã tăng điểm mạnh mẽ sau khi giảm xuống đáy vào cuối năm 2008 và có xu
hướng đi lên. Tốc độ phục hồi giữa thời điểm đáy cuộc khủng hoảng tháng 3/2009 và giá trị
cao nhất trong năm cũng đạt rất cao, chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản tăng 50,8%, ASX của
Australia tăng 56,9%, DAX của Đức tăng 64%, S&P 500 của Mỹ tăng tới 66,7%. Trong 11
tháng đầu năm 2009, các loại trái phiếu có định mức tín nhiệm thấp trên thế giới đã bắt đầu
mang lại tỷ suất lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư, trung bình tới 58%, tiếp theo đó là thị
trường hàng hóa với mức lợi nhuận là 36%, vàng 34%, chứng khoán 29%, trái phiếu doanh
nghiệp hạng đầu tư 23%, trái phiếu chính phủ là 8%. Vào thời điểm đó, hầu hết các dự báo
về nền kinh tế năm 2010 nhìn chung là sáng sủa với mức tăng trưởng đạt 4% và sẽ tiếp tục
tăng trưởng cho các năm tiếp theo đó. Kết thúc năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế đã tác
động một cách sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể
thoát khỏi sự ảnh hưởng này, dù Chính phủ các nước đã thực hiện nhiều giải pháp trợ cứu từ
cuối năm 2008 nhưng năm 2009, nền kinh tế thế giới vẫn chìm sâu trong suy thoái chưa
từng có của vài thập kỷ gần đây. Theo số liệu của IMF, kinh tế thế giới năm 2009 với tỷ lệ
tăng trưởng là -1,0%, các nước phát triển tăng trưởng -3,4% còn các nền kinh tế đang phát
triển ước tính chỉ tăng 1,7%. Riêng nền kinh tế Mỹ, nơi khởi phát của cuộc khủng hoảng tài
chính, tín dụng thì suy giảm kinh tế ở mức khá tồi tệ, với GDP thực tế cả năm ước giảm
2,7%. Tốc độ suy giảm kinh tế năm 2009 ở khu vực đồng Euro và Nhật Bản được dự tính
còn trầm trọng hơn so với ở Mỹ và giảm tương ứng là -4,2% và -5,4%. Khác với các nền
kinh tế phát triển, các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, mặc dù bị suy thoái song vẫn
được coi là điểm sáng của nền kinh tế thế giới. Dự tính tốc độ tăng GDP thực tế chung của
các nước đang phát triển ở khu vực châu Á năm 2009 là 6,2% trong đó nổi bật nhất là Trung
Quốc với 8,3%, Ấn Độ với 7%, Việt Nam 5,32%. Đặc biệt, trong thời gian này, đồng USD
giảm giá mạnh so với các đồng tiền khác, ít nhất là 15%, đã tác động không nhỏ đối với
kinh tế thế giới. Đồng USD giảm giá đã đẩy dầu lửa và vàng vào “cơn bão giá”. Đầu năm

2009, giá vàng ở mức 880USD/ounce, đã tăng khá đều đặn trong suốt cả năm và tới cuối
năm có khi giá vàng đã lên mức cao kỷ lục 1.250 USD/ounce. Giá vàng tăng cao kỷ lục đã
đẩy giá dầu lửa thế giới tăng gấp đôi so với đầu năm. Chốt phiên giao dịch ngày 24/12/2009,
giá dầu giao tháng 2/2010 đóng cửa ở mức 76,5 USD/thùng, tăng khoảng 60% so với mức


9

dưới 50 USD trong phiên giao dịch cuối năm 2008. Như vậy, dự báo về việc giá vàng và giá
dầu giảm vào cuối năm 2008 là không chính xác khi vào năm 2009, vàng và dầu đều tăng
giá đồng loạt, thậm chí còn tăng mạnh hơn cả so với đầu năm 2008, điều dó dẫn điến nguy
cơ lạm phát tăng cao và bất ổn kinh tế vẫn rình rập.
Năm 2009, năm mà hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới gặp khủng hoảng trầm
trọng, thì năm 2010 đánh dấu bước phục hồi đầu tiên ở nhiều nền kinh tế, dù vẫn rất mong
manh và tiềm ẩn nhiều nguy cơ một cuộc đổ vỡ hoặc khủng hoảng khác. Trong năm này,
kinh tế toàn cầu đã lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ xấp xỉ 5,1%, cao hơn tốc độ tăng trưởng
trung bình của thế giới trong 3 thập niên vừa qua. Nhưng điều khác biệt so với thời kỳ tiền
khủng hoảng là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không phải là Mỹ, châu Âu hay
Nhật Bản mà là các nền kinh mới trỗi dậy, các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Brazil,
Ấn Độ. Dù đang trong xu hướng sụt giảm tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới, song các
nền kinh tế mới nổi đều duy trì mức tăng trưởng tương đối nhanh với tốc độ tăng trưởng lần
lượt là 7,1% trong năm 2010 và với tốc độ như vậy, nó được coi là nhóm nước đóng góp
tích cực nhất cho tốc độ tăng trưởng của toàn thế giới trong cả năm 2010. Trong đó, tốc độ
tăng trưởng của Trung Quốc năm 2010 là 10,5%, Ấn Độ là 9,7% và của Brazil là 7,1%. Tuy
nhiên, các nền kinh tế mới nổi này lại đứng trước một nguy cơ khác đó là dòng vốn ngoại đổ
vào một cách ồ ạt, điều đó càng làm cho nền kinh tế nóng lên, đe dọa tới gia tăng giá cả
hàng hóa từ đó ảnh hưởng đến lạm phát vốn đã rất cao tại các quốc gia này. Trong khi đó,
cường quốc kinh tế Mỹ vẫn chưa thể thoát khỏi được khủng hoảng với những bất ổn vẫn
hiện hữu trên thị trường nhà đất và lao động vào giữa năm 2010. Ngân sách năm 2010 của
Mỹ đã bội chi 1.400 tỷ USD (gần 10% GDP). Chính phủ Mỹ còn phải đi vay, mặc dù nợ tới

87% tổng sản phẩm nội địa. Như vậy, những dấu hiệu phục hồi đã xuất hiện từ đầu năm
2009 cùng với những dự báo khả quan trong năm 2010 nhưng nền kinh tế thế giới vẫn chưa
thể thoát khỏi khủng hoảng, bất ổn kinh tế vẫn đang luôn là trở ngại rất lớn của thế giới, bởi
sự phục hồi của nền kinh tế thế giới trong năm này chủ yếu là nhờ các gói cứu trợ, kích
thích kinh tế mang tính ngắn hạn, tức thời và giải cứu của chính phủ hơn là các giải pháp
căn bản và lâu dài.
Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2008 vẫn chưa thể
xóa bỏ trong nền kinh tế thế giới thì một cuộc khủng hoảng nữa nổ ra lại đe dọa tới sự phục


10

hồi và ổn định nền kinh tế, càng làm cho nền kinh thế thế giới thêm bất ổn và khó lường, đó
là cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bùng phát vào đầu năm 2010. Nghiêm trọng nhất
thời điểm đó là khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp, không chỉ đe dọa nghiêm trọng tới nền
kinh tế của Hy Lạp mà còn gây ảnh hưởng to lớn tới cả nền kinh tế lớn nhất thế giới là EU
dù nó chỉ chiếm 2,6% tổng GDP của toàn khu vực. Tỷ lệ nợ công cao và thâm hụt ngân sách
trầm trọng là điểm yếu chung phổ biến ở các nền kinh tế này và đây là nguyên nhân chính
gây ra cuộc khủng hoảng đi vào lịch sử kinh tế của EU. Tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp
trong giai đoạn 2001 – 2007 trung bình đạt 4,0%/ năm cao hơn mức chung của toàn khối
EU. Tuy nhiên, do được hưởng lợi suất trái phiếu chính phủ thấp, chi tiêu công của Hy Lạp
lại tăng mạnh theo tăng trưởng kinh tế, thêm vào đó Hy Lạp lại rơi vào tình trạng thất thu
thuế khiến nợ công và bội chi ngân sách luôn ở mức cao nhất trong toàn khối EU. Hai cuộc
khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công đã làm cho tình trạng này càng trở nên trầm
trọng, khiến mức bội chi ngân sách và tỷ lệ nợ công của Hy Lạp vọt lên mức kỷ lục là
15,4% và 126,8% GDP so với mức chung bình của EU là 6,3% và 79,2%. Điều nguy hiểm
từ việc vỡ nợ của Hy Lạp là sự lan truyền sang các nước có nợ công và thâm hụt ngân sách
ở mức độ đáng ngại như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland, Ý (nhóm nước PIIGS), sau đó
là toàn bộ EU và thế giới. Có hai lý do chính: Thứ nhất, thị trường tài chính mất niền tin vào
đồng tiền chung châu Âu. Thứ hai, quan trọng hơn là trái phiếu chính phủ Hy Lạp và của

nhóm nước PIIGS do các ngân hàng trong và ngoài nhóm này sở hữu. Nguy cơ khủng
hoảng tiềm tàng ở Hy Lạp khi bùng phát lập tức lan truyền sang toàn bộ thị trường tài chính
EU và thế giới. Và tại thời điểm năm 2010, tỷ lệ nợ công trung bình của EU là 84%. Các gói
cứu trợ khổng lồ từ các thành viên của EU, ECB và IMF đã có tác dụng tích cực là ổn định
lại thị trường tài chính châu Âu vào giữa năm 2010 tuy nhiên vào tháng 11/2010, cuộc
khủng hoảng nợ công lại tái phát khi Ireland lâm vào tình trạng hoảng loạn hệ thống tài
chính thị trường bất động sản nước này suy sụp. Và tới tháng 8/2011, tỷ lệ nợ công/GDP của
nhóm nước mắc nợ nghiêm trọng nhất đã lên đến đỉnh điểm ở mức 149,6% đối với Hy Lạp,
của Italia là 119,9%, 102,7% đối với Ireland, 94% đối với Bồ Đào Nha và 63,6% đối với
Tây Ban Nha. Để giải quyết tình trạng này, nhiều chính phủ phải thực thi chính sách nhằm
hạn chế chi tiêu công, điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp, tổng cầu quốc gia và khu vực
hạ thấp, tiêu dùng lớn của hầu hết người dân bị suy giảm mạnh. Theo báo cáo tình hình việc


11

làm công bố bởi Ủy ban châu Âu, cuộc khủng hoảng này đã khiến 6 triệu người lao động ở
châu lục này mất việc, có đến 16,3 triệu người thất nghiệp ở khu vực đồng Euro, trong số
những người không có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp dài hạn lên đến 40%. Ngoài khu vực EU,
tình trạng thất nghiệp tại Mỹ cũng rất đáng lo ngại với dự tính tỷ lệ thất nghiệp là 9,1%.
Tại các nước đang phát triển đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ lúc đó đang thực thi
chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm chống lại tình trạng lạm phát vốn đe dọa sự ổn định kinh tế
vĩ mô. Chỉ số giá cả tiêu dùng của các nước công nghiệp phát triển năm 2011 là 2,6% thì chỉ
số này tại nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi là 7,5%. Đóng góp phần chính
vào chỉ số lạm phát cao thuộc về các nền kinh tế lớn ở châu Á. Đến tháng 7/2011, chỉ số lạm
phát ở Trung Quốc đã lên đến gần 6,5% - cao vượt trội so với mức dự kiến là 4%. Nhờ nỗ
lực điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nhưng lạm phát của Trung Quốc tính chung toàn
năm vẫn ở mức 5,6%. Còn tại Ấn Độ, Brazil và Nga thì 11 tháng đầu năm 2011 chỉ số lạm
phát của các nước này lần lượt là 9%, 6,64%, 7,19%. Lạm phát năm 2011 dù dịu bớt vào
những tháng cuối năm, nhưng chưa thể đảm bảo ngưỡng an toàn cho năm sắp tới. Năm 2011

là năm đầy khó khăn và thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Vốn đã
chưa thể thoát khỏi bao khó khăn trì trệ thì nền kinh tế năm 2011 lại tiếp tục nhận thêm
những cú sốc thiên tai chưa từng có trong lịch sử mà nguyên nhân sâu xa được cho là do
tình trạng biến đổi khí hậu như: động đất ở New Zealand và thảm họa động đất và sóng thần
liên tiếp ở Nhất Bản, tình trạng lũ lụt triền miên và nghiệm trọng tại Thái Lan và Đông
Dương…Như vậy, bước sang năm 2012, các nước phát triển cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa
thì mới có thể cứu được nền kinh tế trong năm 2012 này khi mà nền kinh tế năm 2012 được
nhận định là không mấy sáng sủa hơn so với năm 2011.
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bùng nổ từ năm 2008 tuy nhiên cho tới nay, những dư
âm ảnh hưởng của nó vẫn còn đọng lại quá lớn đối với nền kinh tế thế giới. Lạm phát tăng
cao và kéo dài trong nhiều năm mà vẫn chưa thể giải quyết ổn thoả. Tỷ lệ tăng trưởng GDP
sụt giảm sâu dù đã có dấu hiệu tăng lên nhưng biên độ dao động rộng của tăng trưởng cho
thấy sự phát triển hoặc sự phục hồi vẫn luôn tiềm ẩn rủi ro, nền kinh tế thế giới càng khó dự
báo và kiểm soát. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng nợ công vẫn dai dẳng và đầy vướng mắc,
suy thoái kinh tế vẫn đe dọa tới kinh tế vĩ mô trên toàn thế giới.


12

1.1.2 Diễn biến kinh tế Việt Nam
Năm 2007 đánh dấu mốc quan trọng khi Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) kéo theo đó là một loạt những thay đổi đối với một nền
kinh tế non trẻ. Mục tiêu kinh tế của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại
hàng hóa, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh…Tự do hóa thương mại có
thể tác động đến định hướng, quy mô và phạm vi mà chính sách tài chính tiền tệ tác động
đến ổn định chu kỳ kinh tế và đối phó với các cú sốc từ bên ngoài. Tự do hóa thương mại có
xu hướng làm cho các quốc gia dễ bị tổn thương hơn với các cú sốc về giá cả quốc tế và qua
đó tăng khả năng rủi ro, khả năng cạnh tranh, và những yếu tố đó có thể tác động tác động
mạnh tới việc làm và nghèo đói. Gia nhập WTO buộc Việt Nam mở cửa thị trường rộng rãi
hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, trong

lĩnh vực dịch vụ, việc Việt Nam mở cửa thị trường đã có tác động mạnh mẽ tới lĩnh vực bảo
hiểm và ngân hàng. Việt Nam đã thực hiện một loạt các cam kết khi gia nhập vào tổ chức
WTO, ví dụ như: về thuế, Việt Nam cam kết giảm mức thuế trung bình 17,4% xuống 13,4%,
việc giảm thuế diễn ra trong vòng 5 – 7 năm và cắt giảm đều hàng năm; về quyền kinh
doanh thì Việt Nam cam kết tất cả các thể nhân và doanh nghiệp nước ngoài được xuất nhập
khẩu, trừ các mặt hàng theo thương mại nhà nước; phá hủy ngay các biện pháp cấm vận
nhập thuốc lá, xì gà, xe máy phân khói lớn và ôtô cũ; hủy bỏ các ưu đãi về tín dụng và thuế
nhập khẩu dựa trên tỷ lệ nội địa hóa; khoảng 330 dòng thuế cho sản phẩm công nghệ thông
tin được giảm xuống 0% trong thời hạn 3 – 7 năm… Với những cam kết như trên, Việt Nam
không chỉ được hưởng lợi ích mong đợi mà còn phải chấp nhận những khó khăn tiềm tàng
khi gia nhập WTO như:
Hậu quả lớn nhất của việc giảm thuế là cạnh tranh mạnh hơn giữa sản xuất trong nước
và nhập khẩu trong khi nền sản xuất trong nước của Việt Nam lại yếu kém, việc giảm bảo hộ
có thể gây nên sự khó khăn đối với với những ngành đang được bảo hộ, như thế có thể phải
giảm hoặc ngừng sản xuất. Thêm vào đó, hội nhập quốc tế cũng không cho phép sự đối xử
phân biệt nào dành cho các doanh nghiệp nhà nước
Tham gia vào WTO, Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt cả trên thị trường nội
địa lẫn thị trường thế giới đặc biệt về chất lượng sản phẩm. Việc mở cửa thương mại vừa


13

nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài lại vừa tạo điều kiện cho hàng hóa
nước ngoài xâm nhập vào thị trường nội địa dễ dàng hơn. Với thu nhập ngày càng cao, sự
lựa chọn của người tiêu dùng sẽ hướng đến những sản phẩm có chất lượng cao hơn và an
toàn hơn trên thị trường. Tuy nhiên một thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam chủ yếu là từ các sản phẩm chất lượng thấp, giá trị thấp ở các mặt
hàng như: gạo, cafe, cao su, hạt tiêu, thủy sản, còn các sản phẩm có giá trị cao hơn, chất
lượng tốt hơn như rau và hoa quả tươi, sản phẩm gia cầm là những lĩnh vực mà Việt Nam
còn ở mức độ thấp về cạnh tranh.

Một thuận lợi cho Việt Nam khi gia nhập WTO là được quyền sử dụng cơ chế xử lý
tranh chấp đa phương, có thể áp dụng các biện pháp đối kháng lại các vụ chống bán phá giá
ảnh hưởng tới xuấtk hẩu của Việt Nam ở thị trường nước ngoài như vụ EU áp thuế chống
bán phá giá lên giầy mũi da, Mỹ với cá tra, basa của Việt Nam.
Được tuân thủ theo hiệp định SPS (hiệp định về biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm)
và TBT (hiệp định về hàng rào kỹ thuật thương mại) sẽ giúp Việt Nam bảo vệ người tiêu
dùng trong nước và tuân thủ theo tiêu chuẩn của các nước bạn hàng Việt Nam có thể nâng
cao được chất lượng sản phẩm, cải thiện cơ hội xuất khẩu của mình.
Về tự do hóa thương mại dịch vụ, Việt Nam mở cửa thị trường cho tổ chức tài chính
nước ngoài được thành lập ngân hàng 100% sở hữu nước ngoài, cho phép các công ty chứng
khoán nước ngoài thành lập văn phòng ở Việt Nam với 51% vốn sở hữu thuộc về đối tác
trong nước, đổi lại những cam kết này cũng sẽ khuyến khích mạnh mẽ cải cách trong lĩnh
vực ngân hàng. Quá trình cải cách ngân hàng được thúc đẩy bởi sự tham gia tích cực của
những ngân hàng nước ngoài nổi tiếng thế giới trong các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam như ANZ (Sacombank), Standard Chartered Bank (ACB), HSBC (Techcombank)
… Khu vực phân phối cũng cho phép các công ty nước ngoài thành lập các doanh nghiệp
bán buôn và bán lẻ.
Việc mở cửa và thực hiện tự do hóa thương mại của Việt Nam vừa tạo điều kiện cho
Việt Nam tiếp cận với thương mại thế giới, gia tăng xuất nhập khẩu, tiếp cận được nhiều
nguồn vốn nước ngoài hơn, mặt khác, khi nền kinh tế có biến động lớn đặc biệt là suy thoái
và khủng hoảng thì nền kinh tế của Việt Nam cũng dễ dàng bị tác động và chịu ảnh hưởng


14

tiêu cực, bên cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam còn yếu kém, năng lực sản xuất thấp, trước
những biến động khó lường của thế giới, rõ ràng Việt Nam gặp nhiều khó khăn để bảo vệ và
ổn định nền kinh tế của mình. Một trong những hiện tượng đáng lưu ý của kinh tế vĩ mô sau
một năm gia nhập WTO là tốc độ tăng nhanh chóng của lạm phát. Chỉ số CPI năm 2007 đạt
mức cao nhất trong vòng hơn 10 năm trước đó, ở mức 12,6% vào cuối tháng 12 năm 2007

so với cuối năm 2006. Con số này vượt xa so với mục tiêu của Chính phủ là cố gắng kiềm
chế lạm phát, thực tế này cũng cho thấy người tiêu dùng không được hưởng lợi do giá cả
giảm từ việc giảm thuế theo cam kết WTO. Mặc dù Việt Nam xuất khẩu dầu nhưng lại phải
nhập khẩu tất cả các sản phẩm hóa dầu và do đó chỉ thu được một phần lợi nhuận từ việc
sản xuất các sản phẩm năng lượng. Vào thời gian này, năm 2007 – 2008, giá dầu thế giới
đang tăng cao một cách đột biến, lạm phát thế giới cũng tăng cao đột biến đã khiến cho giá
xăng dầu, giá nông sản, nguyên vật liệu sản xuất như thép, phân bón và các loại hóa chất
vào Việt Nam cũng tăng cao, và sự gắn chặt giá trị của VND với USD đã làm tăng mức độ
nhập khẩu lạm phát quốc tế. Đặc biệt, lạm phát năm 2007 của Việt Nam cao hơn tất cả các
nước trong khu vực Đông Nam Á. Sang năm 2008, tình hình lạm phát vẫn không được cải
thiện, chỉ trong 2 tháng đầu năm CPI tăng 6,02% và liên tục 4 tháng sau đó CPI đều tăng
trên 2% mỗi tháng. Đỉnh điểm lạm phát năm 2008 lên gần 30%. Năm 2008 cũng đánh dấu
một năm mà thâm hụt thương mại đạt mức cao kỷ lục là 18 tỷ USD, nếu tính riêng 5 tháng
đầu năm thâm hụt thương mại là 13,6 tỷ USD, gần bằng cả năm 2007. Tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam năm 2008 cũng bị sụt giảm mạnh so với năm 2007 chỉ còn 6,23%/năm trong
khi năm 2007, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 8,48% (cao hơn so với giai đoạn trước
Việt Nam khi gia nhập WTO). Bước sang năm 2009, kinh tế Việt Nam cũng không thoát
khỏi vòng xoáy của cuộc khủng hoảng kinh tế đang lan rộng mà xuất phát từ Mỹ khi tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế chỉ còn 5,32% và đã có dấu hiệu phục hồi khá vào năm 2010 là 6,78%
nhưng năm 2011 lại chỉ còn 5,89%, tới quý I năm 2012 tăng trưởng GDP chỉ ở mức 4%.
Trong khi đó, lạm phát của Việt Nam dù đã được kiềm chế nhưng vẫn còn ở mức cao. Trước
sức ép của cuộc khủng hoảng tài chình toàn cầu, thị trường tài chính Việt Nam bị ảnh hưởng
rất lớn. Đồng tiền Việt Nam đồng liên tục bị sức ép giảm giá do thâm hụt cán cân thanh toán
có xu hướng gia tăng làm giảm dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Thứ hai, trong năm 2010,
phục hồi kinh tế thế giới vẫn chưa thực sự vững vàng dẫn đến xuất khẩu và đầu tư nước


15

ngoài vẫn nằm trong xu hướng giảm. Một vấn đề khác cũng rất đáng lo ngại đó là vấn đề

thâm hụt ngân sách, tới đầu năm 2009, chính sách kích cầu để chống đỡ khủng hoảng kinh
tế đi liền với việc suy giảm các nguồn thu cũng như khó khăn kinh tế sẽ đẩy thâm hụt lên
mức rất cao. Tuy nhiên thực tế đây là một vấn đề đáng lo ngại trong trung và dài hạn vì bội
chi ngân sách của Việt Nam thực ra đã luôn ở mức 5% GDP trong các năm gần đây. Riêng
năm 2009, bội chi ngân sách ước tính bằng 7% GDP. Nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu
phục hồi từ năm 2009 đến nay là do các gói kích cầu và chính sách nới lỏng tiền tệ, ngoài ra
kinh tế Việt Nam cũng được hỗ trợ bởi sự phục hồi của kinh tế thế giới. Như vậy, sự phục
hồi của kinh tế Việt Nam không phải là bền vững, vẫn có nguy cơ tiềm ẩn nhiều bất ổn như
những gì đã nhận định đối với nền kinh tế thế giới. Nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại là điều
khó tránh khỏi.

1.2 Những vấn đề đặt ra cho chính sách tiền tệ của Việt Nam
1.2.1 Những vấn đề từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế tiềm ẩn từ cuối năm 2007, bùng nổ và
cuối năm 2008, phát tác và lan rộng vào năm 2009; bắt đầu từ thị trường địa ốc, lan sang
kinh tế tài chính, kinh tế thực, lan sang lĩnh vực xã hội, đặc biệt là lao động việc làm, bắt
đầu từ nước Mỹ, lan nhanh sang các nước phát triển khác và tác động lớn đến các nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đứng trước bối cảnh như vậy, thách thức
to lớn mà Việt Nam phải đối mặt với nhiều nguy cơ đe dọa tới cả nền kinh tế, những nguy
cơ mà hầu hết các quốc gia đang gặp phải trong bối cảnh khủng hoảng này. Ví dụ như nguy
cơ xảy ra tình trạng đổ vỡ của một số tổ chức tài chính và tín dụng do đầu tư vào các tổ chức
tài chính, tín dụng lớn trên thế giới bị đổ vỡ hoặc do gặp khó khăn về thanh khoản. Sẽ xảy
ra tình trạng phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sự
ngưng trệ của các làng nghề…Kinh tế sẽ bị suy thoái cùng với đó còn là lạm phát tăng cao,
cán cân thanh toán tổng thể bị mất cân đối lớn, thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng, tỷ lệ
nghèo đói tăng…Đây rõ ràng là những thách thức vô cùng lớn trong việc điều hành kinh tế
vĩ mô của Chính phủ trước bối cảnh kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng suy thoái
nghiêm trọng. Để vừa duy trì được tốc độ tăng trưởng vừa kiềm chế được lạm phát là một
điều không dễ dàng đối với chính sách tiền tệ của chính phủ Việt Nam.



16

Đối với các doanh nghiệp của Việt Nam, tuy đang đối diện với những thách thức khi mở
cửa thị trường và hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhưng cuộc khủng hoảng này cũng tạo ra
cơ hội cho họ khi mà các doanh nghiệp nước ngoài đang rút gọn vốn đầu tư để củng cố và
khắc phục thiệt hại cho các chi nhánh ở các nước đang rơi vào tình trạng khủng hoảng. Vấn
đề được đặt ra là chính phủ Việt Nam cần xây dựng chính sách tiền tệ như thế nào để các
doanh nghiệp trong nước có thể huy động được vốn đầu tư vào cải thiện quá trình sản xuất
kinh doanh để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trước khi các đối thủ ở nước
ngoài tập trung được nhiều nguồn lực hơn đầu tư lấn át doanh nghiệp trong nước.
Trong thời gian này, chính sách tiền tệ của hầu hết các quốc gia là đều nới lỏng, các giải
pháp kích cầu nhằm vực dậy nền kinh tế, nhưng đây đều là giải pháp ngắn hạn và mang tính
tức thời; trong dài hạn, nguy cơ lạm phát là điều mà các quốc gia này phải đối mặt. Đặc biệt,
trong bối cảnh giá dầu mỏ, giá vàng và nguyên vật liệu trên thế giới đang tăng cao trong giai
đoạn khủng hoảng. Hơn nữa, trong suốt thời gian từ khi khủng hoảng xảy ra, Mỹ luôn tìm
cách giảm giá đồng USD bằng cách bơm đồng USD mạnh vào nền kinh tế, điều này gây nên
rủi ro tỷ giá đối với đồng tiền neo giữ tỷ giá với đồng USD, trong đó có VND, trước hết là
với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam mất cạnh tranh hơn khi VND lên giá so với đồng
USD. Trong khi, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tính tới năm 2010 là thị trường
Mỹ.

1.2.2 Những vấn đề từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008-2009 bùng nổ, nền kinh tế thế giới
lại nổi lên cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu. Cuộc khủng hoảng này cũng đặt ra cho Việt
Nam những thách thức khi mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2011, nền kinh tế Việt Nam
thu hút được khoảng 14,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài bằng 74% so với năm 2010. Sau
cuộc khủng hoảng, các nước Châu Âu và kể cả Mỹ cũng đang thực hiện những chính sách
thắt chặt chi tiêu để vượt qua được khoảng thời gian khó khăn. Điều này khiến cho lượng

vốn đầu tư nước ngoài từ các nền kinh tế phát triển bị giảm rõ rệt. Việt Nam là nước có tỷ lệ
vốn đầu tư nước ngoài lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế khiến cho Việt Nam bị ảnh
hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng này.


17

Sau hai cuộc khủng hoảng lớn của kinh tế thế giới, các luồng vốn đầu tư nước ngoài
có xu hướng chuyển từ các nước Châu Âu sang các nền kinh tế mới nổi để tránh thuế thu
nhập doanh nghiệp. Việt Nam được đánh giá nằm trong nhóm các quốc gia đang phát triển
mới nổi và đây là một cơ hội đối với Việt Nam để thu hút nguồn đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, theo Ngân hàng Thế giới (WB), hiện chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam
đang sụt giảm (xếp thứ 98 trong tổng số 183 nền kinh tế, tụt 8 bậc so với năm 2010). Điều
này thể hiện sự suy giảm về niền tin của các nhà đầu nước ngoài vào nền kinh tế Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đã khiến cho các nhà đầu tư cũng như các tổ chức xếp
hạng tín nhiệm quan tâm hơn đến vấn đề nợ công của các quốc gia trên thế giới. Trong đó,
ba nhóm chỉ tiêu cơ bản để cảnh báo là: nợ quá nhiều thể hiện ở chỉ số nợ công/ GDP cao,
chi tiêu quá mức thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách so với GDP, tốc độ tăng GDP sụt giảm.
Năm 2011, với mức nợ công lên đến 54,6% GDP và bội chi ngân sách ở mức 4,9% GDP,
Việt Nam đang bị các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá có mức độ rủi ro cao so với các
nền kinh tế mới nổi khác. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng hút vốn nước ngoài
mà còn ảnh hưởng đến chi phí cho các khoản tín dụng từ các tổ chức tài chính trên thế giới.
Các doanh nghiệp trong nước cũng chịu sự tác động từ việc dòng vốn nước ngoài đổ
vào Việt Nam sụt giảm. Điều này khiến cho các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài hay có
vốn nước ngoài bị sụt giảm về lượng vốn đầu tư cũng như công nghệ được chuyển giao.
Bên cạnh đó, đầu tư ít đi cũng khiến cho lượng lao động được tuyển ít đi làm tình trạng
thêm khó khăn đối với nền kinh tế. Vấn đề chung đặt ra cho Nhà nước về nền kinh tế và
hoạt động của các doanh nghiệp là phải nâng cao được mức tín nhiệm của mình bằng cách
thực hiện các chính sách tiền tệ điều tiết lại các hoạt động của nền kinh tế gián tiếp tác động
tới tình trạng nợ công vốn là một yếu tố nhạy cảm trong thời kỳ này.

Khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá hối
đoái ảnh hưởng rất nhiều tới nền kinh tế Việt Nam. Cuộc khủng hoảng càng diễn biến theo
chiều hướng trầm trọng càng khiến cho đồng EURO liên tục bị áp lực giảm giá trên thị
trường tài chính thế giới. Điều này khiến cho đồng EURO mất giá so với đồng USD và
khiến cho hàng hóa của Việt Nam xuất sang thị trường Châu Âu giảm sức cạnh tranh do
được tính bằng USD. Năm 2011, Việt Nam vẫn bị thâm hụt thương mại trong khi đồng USD
tăng giá khiến gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc gia.


18

1.2.3 Những vấn đề từ nội tại nền kinh tế Việt Nam
Sau khi thị trường bất động sản bị thắt chặt và kiểm soát chặt chẽ, các ngân hàng hiện
nay đang gặp vấn đề rất khó khăn về thanh khoản và thu hồi các khoản nợ xấu nhất là trong
các khoản cho vay lãi suất cao trong việc kinh doanh thị trường bất động sản và chứng
khoán. Nếu việc thu hồi những khoản nợ không tốt có thể gây ra những ảnh hưởng xấu hơn
nữa tới thị trường bất động sản kể cả thị trường bất động sản thế chấp. Những thị trường này
có thể sẽ rơi vào tình trạng trầm lắng hơn nữa và giảm giá mạnh. Điều này đồng nghĩa với
sự thiệt hại trực tiếp giảm giá trị tài sản nợ của ngân hàng và công ty đầu tư tài chính có
lượng tài sản nhận thế chấp các khoản vay và đầu tư bằng bất động sản. Nguồn vốn huy
động tài chính – tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn cả về quy mô lẫn điều kiện tín dụng do
chủ trương thắt chặt của Nhà nước trong chính sách tài chính và tiền tệ, ưu tiên kiềm chế
lạm phát xuống một con số. Bên cạnh đó hệ thống tài chính còn gặp áp lực lớn từ việc tái
cấu trúc nền kinh tế. Việc tái cấu trúc khiến những ngành cần được đầu tư lớn để phát triển
trong khi hệ thống tài chính đang gặp khó khăn từ trước. Nếu kiểm soát không tốt, các hoạt
động tài chính và đầu tư tài chính và cho vay tín dụng phục vụ tái cấu trúc sẽ tăng rủi ro
theo một số khía cạnh sau:
Một là, rủi ro từ khả năng thanh khoản kém hơn cho các khoản vay mới do giảm
nguồn thu tài chính từ sự từ bỏ thị trường, làm việc cũ, trong khi thị trường mới chưa xuất
hiện ngay và sức cạnh tranh mới chưa xác lập vững chắc.

Hai là, rủi ro từ nguy cơ gia tăng nợ của các doanh nghiệp (gắn với thiếu hụt nguồn
vốn duy trì đầu tư cũ và cần thêm các khoản vay mới cho tái cấu trúc).
Ba là, rủi ro từ sự thất thoát, tham nhũng vốn đầu tư mới cho những dự án đầu tư mới
trong khuôn khổ hoặc nhân danh tái cấu trúc, nhất là trong khu vực đầu tư công.
Bốn là, rủi ro từ việc lãng phí các dự án đầu tư dở dang theo mô hình đầu tư cũ,…
Đặc biệt, ngay các tổ chức tín dụng và công ty tài chính trực thuộc các tập đoàn kinh tế theo
mô hình cũ sẽ còn đối diện với nguy cơ giảm dần quy mô, phạm vi hoạt động hoặc phải tách
ra hoạt động như một tổ chức tài chính - tín dụng độc lập và chuyên nghiệp trên thị trường
cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Những nguyên nhân khiến Việt Nam phải tái cấu trúc nền kinh tế cũng chính là nhân
tố trực tiếp hoặc gián tiếp tạo rủi ro cho các tổ chức tín dụng và đầu tư tài chính. Đó là: kinh
tế phát triển thiếu bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp; lạm phát và mặt


19

bằng lãi suất có thể vẫn khá cao; cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối khó
cải thiện gây áp lực lên thị trường tiền tệ và tỷ giá; giá vàng trên thị trường có nhiều khả
năng vẫn biến động bất thường. Mặt khác, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi, hệ số tín
nhiệm quốc gia thấp và chỉ số cạnh tranh tụt bậc liên tiếp nhiều năm. Kinh tế - xã hội nước
ta vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu. Một số khó khăn và thách thức về thị trường có thể lớn hơn và khó lường hơn so với dự
báo. Nhiều nhà kinh tế đang e ngại về khả năng xuất hiện một làn sóng khủng hoảng kinh tế
thế giới vào năm 2012. Những khó khăn và rủi ro đó có thể phát tác, gây hệ quả trái với
mong đợi và làm nản lòng những quyết tâm và kế hoạch tái cấu trúc cần thiết trong thời gian
tới.
Năm 2011 là năm mà lạm phát trên toàn thế giới tăng cao trở lại, và Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hướng đó tuy nhiên lạm phát của Việt Nam còn cao hơn thế giới rất
nhiều. Như vậy, thách thức lớn đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam là làm sao vừa kiềm
chế lạm phát vừa phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Bởi nhìn

từ góc độ vĩ mô, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng đầu tư mà nguồn
đầu tư nước ngoài là vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của Việt Nam và nếu chính
sách tiền tệ - tài khóa không nhất quán rõ ràng minh bạch, các số liệu về nền kinh tế có chất
lượng thì khó có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam trong khi Việt
Nam đang vấp phải sự cạnh tranh với nguồn vốn đầu tư đang ồ ạt chảy vào các nước khác
như Thái Lan, Trung Quốc.
Tuy gặp nhiều thách thức lớn nhưng dự đoán, các ngân hàng và công ty tài chính Việt
Nam cũng có những cơ hội thuận lợi về tài chính như: thị trường ngoại hối chuyển biến tích
cực, tỷ giá dần ổn định, trạng thái ngoại hối của hệ thống ngân hàng, dự trữ ngoại tệ và cán
cân thanh toán quốc tế được cải thiện. Hoạt động mua bán ngoại tệ và kinh doanh vàng
được kiểm soát mà đã mang lại kết quả bước đầu. Mới đây, Chính phủ cũng đã thống nhất
về nguyên tắc Nhà nước sẽ độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu,
nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Đây cũng được xem là một trong
những giải pháp điều hành chính sách tài chính - tiền tệ trong năm 2012. Mặt khác, nợ công
được giữ ở mức an toàn, nợ công cuối năm 2011 ước khoảng 54,6% GDP, dự kiến đến cuối
năm 2012 nợ công khoảng 58,4% GDP. An ninh lương thực và an ninh năng lượng được


20

đảm bảo. Dự trữ xăng dầu trước đây là 7, đã tăng lên 40 ngày. Xuất khẩu lương thực năm
2011 đạt mức kỷ lục, trên 7,2 triệu tấn; đồng thời, vẫn bảo đảm đủ lương thực tiêu dùng
trong nước và dự trữ. Quy mô nền kinh tế đang tăng lên, nhiều ngành kinh tế - xã hội có
bước phát triển mới. Việt Nam cũng đã ký kết thêm được nhiều hiệp định và thoả thuận
quan trọng về hợp tác toàn diện và mang tầm chiến lược với các đối tác lớn. Việt Nam vẫn
được cộng đồng quốc tế và nhiều tổ chức quốc tế tin tưởng vào triển vọng cả về trung hạn
và dài hạn. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cũng đã đưa ra những dự báo khá lạc quan cho nền kinh
tế Việt Nam. Theo IMF, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 là 6,3% (cao hơn
mức 5,89% của năm 2011); năm 2013 là 7,5%.
Trước những khó khăn và cơ hội hiện nay, Việt Nam cần đưa ra chính sách tiên tệ

phù hợp để không chỉ giải quyết những vấn đề trên thị trường tài chính mà còn kết hợp với
các chính sách, công cụ khác để ổn định nền kinh tế quốc gia trước những biến động lớn của
thị nền kinh tế giới. Việt Nam cần phải rút kinh nghiệm từ các bài học trong quá khứ và kinh
nghiệm từ các quốc gia khác.

CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
2.1 Quan điểm của Việt Nam về điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn 2007 đến
nay
2.1.1 Quan điểm chung về sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ hết sức quan trọng của Chính phủ trong
việc điều tiết nền kinh tế và trong bối cảnh hiện nay, mục đích cuối cùng đó là kiềm chế lạm
phát, đảm bảo ổn định nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Chính
sách tiền tệ có trong tay các công cụ như lãi suất, trần tín dụng, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ
thị trường mở, tái tài trợ và tái chiết khấu, các chính sách tín dụng có chọn lọc và một yếu tố
rất quan trọng đó là chính sách tỷ giá hối đoái. Chính sách tiền tệ có tác động trực tiếp tới
lượng cung tiền tệ và tín dụng và tác động gián tiếp thông qua giá cả. Như vậy, chính sách


21

tiền tệ đã tác động tới hầu hết mọi hoạt động kinh tế xã hội và ảnh hưởng trực tiếp tới sự cân
bằng ngân sách nhà nước, cán cân thanh toán quốc tế và sự ổn định của nền kinh tế quốc
gia.
Trong một nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không chỉ có quyền phát hành
tiền mà còn điều tiết lượng tiền cung ứng, tức là NHNN phải thực hiện chính sách tiền tệ
không gây ra lạm phát và phải ổn định giá trị đồng tiền. Nhiệm vụ ổn định tiền tệ luôn là
định hướng chỉ đạo hoạt động của NHNN. NHNN thực hiện chính sách tiền tệ tức là quá
trình NHNN kiểm soát tiền tệ sao cho khối lượng tiền tệ cân đối với mức tăng tổng sản

phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền. Một chính sách tiền
tệ đúng đắn phải hướng vào việc kiểm soát nguồn gốc làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung
ứng trong nền kinh tế. Như vậy, việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ sao cho phụ
hợp với tình hình của nền kinh tế, lựa chọn mục tiêu ưu tiên trở thành một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ mà NHNN phải hướng tới.
Trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến nay, diễn biến kinh tế thế giới và kinh tế vĩ
mô của Việt Nam diễn ra hết sức khó lường bởi trong giai đoạn này, khủng hoảng tài chính
toàn cầu xảy ra mà nó được bắt nguồn từ nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới là Mỹ. Do Mỹ
là trung tâm tài chính, thị trường tiêu thụ, và con nợ lớn nhất thế giới, khủng hoảng tài chính
và kinh tế của Mỹ đã lan ra nhanh chóng các nền kinh tế khác, dẫn đến khủng hoảng toàn
cầu. Đến Việt Nam, khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới tổng cầu của nền
kinh tế Việt Nam: cầu đầu tư bị giảm do nguồn cung vốn FDI và đầu tư gián tiếp bị giảm
mạnh, cầu về tiêu dùng bị giảm, do khủng hoảng thế giới làm giảm mạnh cầu về hàng xuất
khẩu. Khi đó, tổng sản lượng của nền kinh tế Việt Nam theo đó bị giảm mạnh. Sản lượng
giảm khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, kéo theo đó là sự sụt giảm tiêu dùng nội địa.
Trước tình hình nền kinh tế toàn cầu như vậy, Việt Nam cần phải có những chính sách, công
cụ và giải pháp đồng bộ nhằm giữ vững nền kinh tế, vượt qua giai đoạn khó khăn của cuộc
khủng hoảng này.
Từ năm 2007 – 2008 đánh dấu thời điểm lạm phát tăng nhanh sau nhiều năm tốc độ
lạm phát ở mức vừa phải. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18% mức cao
nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương


22

thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6
tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6/2009, chỉ số lạm phát tuy có tăng
chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%). Năm 2007
là năm ảm đạm trong nền kinh tế Mỹ khi mà đồng đô la xuống giá nghiêm trọng. Sự suy
thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác cũng chịu sự

ảnh hưởng. Trong thời gian này, nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nhiều sự kiện, chỉ tiêu đầy
hứa hẹn. Đặc biệt là sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, lượng vốn đầu tư
nước ngoài và kiều hối vào Việt Nam tăng đột biến (năm 2007 lên tới 20 tỷ USD). Về
nguyên tắc, khi nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ khiến cho đồng nội tệ lên
giá. Tuy nhiên, lạm phát tại Việt Nam trong thời gian này vẫn là một điều đáng lo ngại.
Nguyên nhân vừa là do lạm phát chi phí đẩy với chi phí đầu vào (nguyên vật liệu, vận tải
kho bãi, năng lượng, tiền lương…) tăng, đẩy giá bán ở đầu ra lên cao, vừa là lạm phát cầu
kéo – do nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Chính phủ tăng cao, kéo theo giá
bán của các loại hàng hóa, dịch vụ tăng lên, vừa là lạm phát kỳ vọng – phát sinh từ các yếu
tố tâm lý và đầu cơ. Tuy nhiên bước vào năm 2008, thì nguyên nhân lạm phát chủ yếu là do
chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố chi phí đầu vào trên thế giới tăng cao kỷ lục (dầu thô
vượt ngưỡng 147 USD/thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1000 USD/tấn,
phân bón, vải sợi…cũng đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nền kinh tế Việt Nam. Đó
là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện sinh hoạt và sản xuất tăng,
chính phủ đã tiến hành cải cách tiền lương làm thu nhập dân cư tăng và chi phí của doanh
nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát. Bên cạnh đó, trong đầu năm
2008, tỷ giá giữa USD/VND xuống thấp kỷ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi
suy thoái kinh tế ở Mỹ và việc FED cắt giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống mức thấp
nhất trong nhiều năm (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình như vậy, NHNN đã can thiệp vào thị trường nhằm
khuyến khích xuất khẩu và hạn chế lạm phát. Ngày 3/3/2008, Chính phủ đã đưa ra 19 giải
pháp kiềm chế lạm phát và phát triển thị trường chứng khoán. Trong 19 giải pháp này,
Chính phủ đã nhận định được thách thức lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu đề ra về
tăng trưởng và lạm phát năm 2008 là lạm phát đang tăng cao vào 2 tháng đầu năm 2008,
tình hình kinh tế Mỹ và cả thế giới đang giảm sút. Theo đó, Chính phủ chủ trương tiếp tục


23

thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát và kiểm soát tăng giá năm 2008 tại văn bản số

75/TTg – KTTH ngày 15/1/2008; chống đầu cơ găm hàng tăng giá, lạm dụng lạm phát;
kiểm soát giá cả các hàng hóa độc quyền; tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt
chẽ, chủ động, linh hoạt, điều hành chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt chi tiêu, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, hạn chế bội chi ngân sách,…NHNN công bố và thực
hiện việc hỗ trợ vốn cho các NHTM để bảo đảm khả năng thanh toán; đồng thời xem xét
việc tăng dự trữ bắt buộc, áp dụng biện pháp mua tín phiếu NHNN bắt buộc đã công bố;
thực hiện chính sách lãi suất thực dương theo cơ chế thị trường, sử dụng có hiệu quả các
công cụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ
bản, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa các loại lãi suất trái phiếu, tín phiếu Kho bạc, tín phiếu
NHNN. Về tỷ giá, tiếp tục thực hiện mua ngoại tệ cho các nhà đầu tư bằng đồng tiền Việt
Nam, hạn chế tình trạng đô la hóa, thực hiện điều hành tỷ giá giữa VND và USD với biên độ
giao động là 2%. Chính phủ cũng đưa ra mức tăng trưởng tín dụng tối đa. Các giải pháp
cũng hướng đến phát triển lành mạnh thị trường bất động sản thông qua kiểm soát tín dụng,
chính sách thuế và các biện pháp hành chính khác; phát triển và tăng trưởng thị trường
chứng khoán, không hạn chế các công ty tham gia công bố và niêm yết trên sàn giao dịch;
việc lập thêm các công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại cổ phần cũng được khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển.
Tình hình kinh tế thế giới vào năm 2008 đang có nhiều biến động phức tạp, khó
lường. Lạm phát thế giới đang tăng cao do giá cả nguyên vật liệu đầu vào đang tăng, sự suy
giảm của kinh tế Mỹ đã kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế
Việt Nam có sức cạnh tranh chưa cao lại mới bước đầu vận hành theo cơ chế thị trường và
đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới thì những hệ quả nặng nền của thiên tai,
dịch bệnh, và những biến động bất lợi của kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tăng
trưởng và đến mặt bằng giá cả trong nước. Trước tình hình này, Chính phủ tiếp tục ban hành
Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008, trong đó, yêu cầu NHNN chủ động, linh
hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát
chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh
khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Sử dụng linh hoạt



24

các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính
sách lãi suất thực dương.
Từ tháng 10 năm 2008, tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và khó
lường, khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu đã tác động trực tiếp tới kinh tế Việt
Nam, làm cho sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp tới việc làm
và đời sống nhân dân. Trước tình hình đó, Chính phủ xác định nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách
trong kế hoạch năm 2009 là phải tập trung mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh
tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo
đảm an sinh xã hội, phấn đấu tăng trưởng kinh tế năm 2009 ở mức 6,5%. Để hoàn thành
được nhiệm vụ đã đặt ra ở trên, chính sách tiền tệ năm 2009 được đề ra về cơ bản vẫn là nới
rộng nhằm kích thích sản xuất, tiếp tục xem xét điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc của các tổ
chức tín dụng, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh. Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, điều chỉnh linh hoạt tỷ giá
ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh
tế vĩ mô, phần đầu điều hành cán cân thanh toán quốc thế theo hướng không để thâm hụt.
Tuy nhiên để phù hợp với những diễn biến mới của thị trường tài chính, tiền tệ thế giới, chủ
động điều hành chính sách tiền tệ hướng đến kiềm chế lạm phát, từ cuối tháng 11/2009,
NHNN đã có những điều chỉnh thích hợp trong điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá theo
hướng chủ động kiềm chế lạm phát. Bước sang năm 2010, trước tình hình tăng trưởng kinh
tế thế giới đã khởi sắc hơn, Việt Nam tiếp tục thực hiện các công cụ nhằm kích thích nền
kinh tế tăng trưởng như chính sách về tỷ giá, đặt ra mục tiêu tăng trưởng cung tiền và lạm
phát, bên cạnh đó, tới cuối năm khi lạm phát có dấu hiệu tăng cao trở lại, NHNN lại thực
hiện thắt chặt tiền tệ bằng chính sách lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Trước những diễn biến mới của tình hình kinh tế thế giới năm 2011, Chính phủ đưa
ra Nghị quyết 11 với nhận định, tình hình kinh tế thế giới thời gian này đang diễn biến phức
tạp, lạm phát tăng cao, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá
lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao. Bên cạnh đó
chính sách tiền tệ, tài khóa lại nới lỏng để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế

trong thời gian trước đó. Điều này đã làm cho giá cả tăng cao, tăng nguy cơ mất ổn định
kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Do đó, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu nhiệm vụ trọng tâm ngay


25

trước mắt là tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Theo đó, đề ra việc thực hiện chính sách tiền tệ là chặt chẽ và thận trọng, phối hợp hài hòa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát, điều hành và kiểm soát để
bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán
khoảng 15-16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, giảm tốc độ và
tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản và chứng
khoán. Cùng với thắt chặt chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa cũng được chỉ đạo thực
hiện thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước. Với mục tiêu giảm
bội chi ngân sách nhà nước xuống dưới 5%. Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ
trương này cho tới quý I năm 2012.

2.1.2 Vị trí của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam
Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô, được sử dụng làm công
cụ để điều tiết và quản lý nền kinh tế, vì vậy mục tiêu của chính sách tiền tệ phải thống nhất
với mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Các mục tiêu cơ bản gồm tăng sản lượng thực tế, tăng việc
làm, kiểm soát lạm phát và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này nhìn
chung là thống nhất với nhau, các mục tiêu đó đều hướng tới sự ổn định và phát triển nền
kinh tế và việc thực hiện mục tiêu này cũng là điều kiện để thực hiện mục tiêu kia. Ví dụ
như: kiểm soát lạm phát sẽ tạo ra sự ổn định tiền tệ, làm tăng sản lượng thực tế và tăng việc
làm. Tuy nhiên trên thực tế, các mục tiêu trên không thể đạt được cùng một lúc bởi các hoạt
động kinh tế nhằm đạt tới các mục tiêu khác nhau ấy không phải lúc nào cũng tương hợp. Ví
dụ: mục tiêu ổn định giá cả thường mâu thuẫn với mục tiêu lãi suất và việc làm cao trong
thời gian ngắn, khi nền kinh tế đang phát triển và thất nghiệp giảm xuống thì cả lạm phát và

lãi suất bắt đầu tăng lên, ít có có hoạt động kinh tế vừa có thể làm tăng trưởng lại vừa làm
giảm sự tăng lên của giá cả. Điều đó đòi hỏi phải ưu tiên cho một mục tiêu nào đó trong
những điều kiện nhất định. Hơn nữa, cần phải lựa chọn các mục tiêu trung gian để hướng tới
việc thực hiện các mục tiêu cuối cùng. Các mục tiêu trung gian như mức cung ứng tiền và
lãi suất, tỷ giá là những yếu tố có thể tác động tới tăng trưởng kinh tế, việc làm và giá cả.
Bên cạnh đó, dự trữ, cơ số tiền…cũng là những biến số nhạy cảm với các công cụ của chính


×