Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn các trường phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.88 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN THÔNG

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG
DÂN TỘC NỘI TRÚ CỦA TỈNH BÌNH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN THÔNG

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG
DÂN TỘC NỘI TRÚ CỦA TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số

: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ VIỆT HẠNH

HÀ NỘI, 2016


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CBGV-CNV: Cán bộ giáo viên - Công nhân viên.
2. DTNT: Dân tộc nội trú.
3. PT.DTNT BT: Phổ thông Dân tộc nội trú Bình Thuận.
4. GD&ĐT: Sở Giáo dục và Đào tạo.
5. XHCN: Xã hội chủ nghĩa.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
Chương 1....................................................................................................................6
DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN HIỆN NAY.........................................................................................6
1.1. Dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ ở trường học - một số vấn đề lý luận..............6
1.2. Dân chủ trong trường học ở nước ta hiện nay....................................................16
Chương 2..................................................................................................................22
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRONG CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH THUẬN HIỆN NAY...............................................................22
2.1. Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường Phổ thông dân tộc
nội trú trên địa bàn tỉnh Bình Thuận hiện nay....................................................22
2.2. Những vấn đề đặt ra và kết quả trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trong các trường Phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Bình Thuận hiện
nay.............................................................................................................................33
Chương 3..................................................................................................................54

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI
TRÚ

TRÊN

ĐỊA

BÀN

TỈNH

BÌNH

THUẬN

HIỆN

NAY..........................................................................................................................54
3.1. Một số giải pháp chủ yếu...................................................................................54
3.2. Một số kiến nghị................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................70
PHỤ LỤC.................................................................................................................73


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là một giá trị mang tính toàn cầu. Tuy nhiên, cách thức thực hiện mỗi
nơi mỗi khác, tuỳ theo dân trí, văn hóa và thể chế chính trị của mỗi nước. Nhưng dù
khác nhau thế nào cũng tuân theo nguyên tắc căn bản là phải có sự tham gia của dân

chúng và dân chúng phải là người thụ hưởng thành quả từ sự tham gia của mình.
Dân chủ không tự có, dân chủ là một khát vọng, dân chủ là đấu tranh, là một
quá trình xác lập và hoàn thiện. Dân chủ vừa là mục tiêu, điều kiện đồng thời là động
lực cho sự phát triển của mỗi quốc gia, tổ chức.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 2 năm
1998 của Bộ Chính trị về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08
tháng 09 năm 1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và
trong hoạt động của cơ quan không chỉ nói lên tính cấp thiết của việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân mà còn đặt ra yêu cầu đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có chất lượng, hiệu quả, không tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Tuy nhiên, quyền làm chủ
của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, tham
nhũng vẫn còn nghiêm trọng và chưa bị đẩy lùi, làm giảm lòng tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước.
Dân chủ trong trong trường học không phải là một ngoại lệ. Để huy động tiềm
năng trí tuệ của mọi thành viên và tổ chức nhà trường theo luật định, góp phần xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục đáp ứng
được sự phát triển của đất nước trong tình hình mới.
Quyết định 04/2000/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (GD&ĐT)
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường đã bước đầu tạo
ra không khí dân chủ trong các trường học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt; cũng
giống như nhiều cơ quan, đơn vị thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, vẫn còn có
trường học triển khai chậm hoặc triển khai hình thức. Có trường do thiếu dân chủ


dẫn đến gây mất đoàn kết, khiếu kiện. Điều đó ảnh hưởng không tốt tới chất lượng
dạy và học, đến uy tín của ngành giáo dục đối với xã hội, đối với nhân dân.

Ở trường Phổ thông dân tộc nội trú Bình Thuận (PT.DTNT BT) thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy cho đối tượng là con em vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cho
nên việc thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy được quyền làm
chủ của cán bộ giáo viên - công nhân viên (CBGV-CNV) trong nhà trường chẳng
những vẫn là một đòi hỏi, một yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới trong ngành
GD&ĐT mà còn có tác dụng tuyên truyền đến học sinh, phụ huynh phát huy được
quyền làm chủ của mình, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát nhà nước,
khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng...vì mục
tiêu chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới là thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bác Hồ nói rất giản dị rằng dân chủ là
dân là chủ, dân làm chủ, là dân tin, dân muốn nói. Vậy đề tài "Thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn các trường phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh Bình
Thuận" là nhằm góp sức vào việc nghiên cứu luận giải vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp thiết đó.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dân chủ ở cơ sở là vấn đề được nhiều nhà khoa học, những người làm công
tác lý luận quan tâm ở những góc độ khác nhau. Đề tài khoa học cấp Nhà nước về
"Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển của nước ta hiện nay" do PGS.TS Hoàng Chí Bảo - Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2002. Trong đề này, tác giả tập trung
nghiên cứu cách thức và giải pháp nhằm tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, phát
huy dân chủ ở xã, phường, trị trấn với các quyền "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra", tác giả cũng chỉ ra việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn gặp nhiều
khó khăn, những bức xúc của nhười dân vẫn còn nhiều. trình độ chuyên môn của cán
bộ cấp xã còn nhiều hạn chế, tệ quan liêu, xa rời nhân dân, tham nhũng vẫn còn
nhiều. vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy. nguyên nhân của tình trạng
này bắt nguồn từ ý thức làm chủ chưa cao, người dân thiếu thông tin về các vấn đề
quan trọng của địa phương. Do vây muốn "củng cố và tăng cường hệ thống chính trị
ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện nay" đòi hỏi phải khắc
phục tình trạng trên. Đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền

cấp xã ở nước ta hiện nay" do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông đồng chủ
trì. Đề tài "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp" của TS. Vũ


Hoàng Công - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2002. Ở công trình
này, các tác giả đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm, xu hướng và giải pháp nhằm
thực hiện dân chủ ở cơ sở sao cho hiệu quả nhất, phát huy tối đa quyền làm chủ của
người dân. Như vậy, các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu về việc
thực hiện Quy chế dân chủ gắn với tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở. Ở đó, các
tác giả cũng chỉ ra phương hướng, giải pháp để đảm bảo thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chưa có công trình nào bài viết nào đi sâu
nghiên cứu Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường PT.DTNT. Do đó, đề tài
nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cả về lý luận và thực tiễn vấn đề thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường PT.DTNT trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở, làm rõ thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường
PT.DTNT trên địa bàn tỉnh Bình Thuận hiện nay, từ đó xác định một số giải pháp và
kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ trong trường học đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đổi mới của ngành giáo dục.
Nhiệm vụ:
Phân tích lý luận về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong trường học,
làm sáng tỏ sự cần thiết phải thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường
PT.DTNT trên địa bàn tỉnh Bình thuận trong giai đoạn hiện nay.
Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những dự báo về xu hướng vận động
của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong trường PT.DTNT trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận trong thời gian tới.
Nêu ra giải pháp và kiến nghị để thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ

sở trong các trường PT.DTNT trên địa bàn tỉnh Bình thuận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các trường Phổ thông.
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trường
Phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Bình Thuận qua khảo sát thực tế tại 04
trường PT.DTNT ở Bình Thuận giai đoạn từ 2005 đến nay.
Phạm vi:


+ Về không gian: Khảo sát Quy chế dân chủ ở các trường Phổ thông dân tộc
nội trú trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
+ Về thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở các trường
Phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ 2005 đến nay.địa bàn tỉnh
Bình Thuận qua khảo sát thực tế tại 04 trường PT.DTNT ở Bình Thuận giai đoạn từ
2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được tổng
kết trong các văn kiện của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
mácxít; kết hợp lý luận với thực tiễn, sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh chính trị học v.v...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Góp phần luận chứng căn cứ khoa học của việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở trong trường học nói chung và trường PT.DTNT Bình Thuận nói
riêng.
Về thực tiễn: Đề ra được một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm
thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ cơ sở ở nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn gồm 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN HIỆN NAY
1.1. DÂN CHỦ, DÂN CHỦ CƠ SỞ, DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG HỌC - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm về dân chủ
Từ thời cổ đại thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân
(democratia là từ ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos là quyền lực). Người đầu
tiên đưa ra khái niệm dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp là
Herodotos (484 - 425 trước Công nguyên) dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ chức, quản lý xã hội,
phát triển xã hội, phát triển con người. Theo ông, dân chủ là thể chế chính trị do
nhân dân nắm quyền lực thông qua con đường bầu cử. Như vậy, với ý nghĩa đó, dân
chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội - nhất là xã hội có giai
cấp.
Thời kỳ cộng sản nguyên thủy con người đã biết sống gắn bó với nhau để tồn
tại và phát triển. Họ biết sử dụng sức mạnh của cộng đồng để thực hiện quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Sự phát triển của sản xuất và phân công
lao động xã hội, phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp đã làm cho xã hội cộng sản
nguyên thủy tan rã, hình thành nên Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Giai cấp chủ nô đã
biến Nhà nước thành công cụ thực hiện quyền lực chính trị, phục vụ lợi ích của
mình, đó hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp - dân chủ
của giai cấp chủ nô.
Nền dân chủ sơ khai của xã hội loài người không được tiếp tục phát triển ở
thời kỳ lịch sử tiếp theo mà lại bị thủ tiêu bởi chế độ chuyên chế phong kiến. Đây
chính là một trong những nguyên nhân khiến cho cuộc đấu tranh giành quyền dân
chủ trở thành một trong những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp.Nhà nước phong

kiến, độc đoán chuyên quyền câu kết với các thế lực của thần quyền đã gạt nhân dân
lao động ra khỏi cơ chế quyền lực. Cuộc đấu tranh giành quyền lực - giành quyền
làm chủ lại tiếp tục diễn ra gay gắt. Kết quả là chế độ chuyên chế phong kiến lại bị
một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ hơn phủ định - đó là chế độ dân chủ tư sản. Nền
dân chủ tư sản mạnh mẽ vì nó dựa trên một nền kinh tế - xã hội phát triển hơn so với
các chế độ trước đó.


Dưới chế độ dân chủ tư sản địa vị xã hội của công dân được pháp luật thành
văn và không thành văn quy định. Theo đó, các quan niệm về dân chủ được bắt đầu
từ khái niệm nhân dân là người chủ của quyền lực, có quyền và nghĩa vụ công dân
được pháp luật quy định và bảo vệ. Nhưng nền dân chủ tư sản trong thực chất còn rất
nhiều hạn chế và không thoát khỏi sự mị dân nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư
sản cầm quyền. Chế độ dân chủ tư sản cùng với sự tha hóa của con người là sự tha
hóa về quyền lực, đặc biệt là quyền lực chính trị. C.Mác nhận xét về chế độ dân chủ
tư sản rằng bầu cử trong chủ nghĩa tư bản là sự "tự do" của nhân dân lựa chọn những
người thống trị mình.
Theo lý luận ở phương Tây người ta tìm cơ sở đó ở bản nguyên con người và
xã hội. Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng và xã họi gồm những cá nhân tự
do, theo tự nguyện khế ước mà tổ chức nhà nước, đặt ra pháp luật. Những cá nhân
trong xã hội là công dân trước pháp luật và nhà nước. Trong xã hội, trước nhà nước
và pháp luật, mọi công dân là bình đẳng, là những cá nhân có quyền tự do, có quyền
sở hữu và có quyền mưu cầu hạnh phúc. Sự công bằng của luật pháp chính là sự tôn
trọng những quyền đó, tôn trọng sự khế ước giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Những
người tự do và bình đẳng quan hệ với nhau theo tinh thần hữu ái. Đó là cơ sở lý luận
chống phong kiến, hình thành trong cuộc đấu tranh của các tầng lớp thị dân, của giai
cấp tư sản. Cá nhân, cái thực thể được đưa làm đơn vị xã hội, được chế độ dân chủ tư
sản bảo vệ quyền lợi, được chú ý ở nhiều mặt: xã hội, chính trị, kinh tế. Nhà nước tư
sản luôn luôn đề cao chức năng chính trị (thống trị giai cấp) khi hình thành bất kỳ
một quy định pháp luật nào để thực thi trong xã hội. Quyền dân chủ cho những cá

nhân đó trước hết nhằm làm cho nó làm chủ được vận mệnh của mình trong đời sống
xã hội và chống lại sự lạm quyền của nhà nước và pháp luật. Cơ sở bảo vệ lợi ích của
nền dân chủ tư sản là bảo vệ, bênh vực và tạo mọi cơ hội cho giai cấp tư sản ngày
càng giàu có. Điều đó được thể hiện tập trung trong các quy định pháp luật của Nhà
nước tư sản. Chẳng hạn, các quy định về kiểm soát tài sản, nơi cư trú, quy định về
vận động tài chính cho các cuộc bầu cử v.v... Đó là một trong những nguyên nhân
dẫn đến cách mạng vô sản để giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập chế độ
dân chủ Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN). Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự
giành lấy chính quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc" [21, tr. 623624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền lực Nhà nước


(quyền làm chủ về chính trị), thiết lập Nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô
sản. tiến tới "hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân" [22, tr. 135].
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ,
quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành những nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục tiêu của sự phát
triển kinh tế - xã hội, các giá trị và chuẩn mực dân chủ chi phối hoạt động của mọi
lĩnh vực xã hội. Nền dân chủ XHCN với tư cách là chế độ chính trị, đồng thời với tư
cách là quyền lực của nhân dân sẽ từng bước hoàn thiện và phát huy vai trò to lớn
trong tiến trình cách mạng. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị - pháp lý và dân
chủ trong kinh tế, làm chủ trong kinh tế và xã hội sẽ tạo điều kiện để dân chủ XHCN
ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của nhân dân lao động. Với ý nghĩa đó, chế độ
dân chủ XHCN đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và con người, trở thành mục tiêu và động lực của cuộc cách mạng vô
sản.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng mười Nga 1917, Nhà nước Xô viết - chế
độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời đã từng bước hiện thực hóa quyền dân
chủ của nhân dân trên thực tế, hiện thực hóa sự bình đẳng của quần chúng trong việc
tham gia vào tổ chức và hoạt động chính quyền Nhà nước. Theo Lênin: "Chế độ Xô

viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân; đồng thời, nó có
nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện trong lịch sử thế giới
một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản" [19, tr. 184].
Trong nếp nghĩ của người Việt, hai cách diễn đạt sau đây về dân chủ thường
được đa số đồng tình: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Đối
với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến, góp phần tìm ra chân lý”. Dân chủ là
“dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời. Nhân dân từ địa vị nô lệ đã trở thành người chủ của đất nước.
Từ năm 1954, Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ miền Bắc tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhân dân đã trở thành chủ thể của mọi quyền lực. Năm 1975 đất
nước thống nhất, nhân dân trở thành người chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước, hệ thống chính trị XHCN được thiết lập trên phạm
vi cả nước.
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN,


bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Không có dân chủ thì không
có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà không thực hiện quyền dân chủ rộng rãi
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống với quảng đại quần chúng thì chỉ là chủ nghĩa xã
hội hình thức.
Dân chủ với tư cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con người. Tuy
nhiên, trong các chế độ dân chủ đã từng tồn tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ
vô sản - dân chủ XHCN mới thực sự là chế độ dân chủ của đa số nhân dân trong xã
hội, là chế độ dân chủ của dân, do dân và vì dân, dân là chủ, dân làm chủ và quyền
lực thuộc về nhân dân, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước.
1.1.2. Khái niệm về dân chủ ở cơ sở
Dân chủ ở cơ sở đã được thực tế khẳng địng là một chủ trương đúng đắn, trực

tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố hệ thống chính trị, làm trong sạch và
lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, trở thành động lực thúc đẩy phong trào thi đua
yêu nước của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quổc trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Nền dân chủ XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo dựa trên cơ sở thực hiện tốt
và kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, sự kết hợp
chặt chẽ hai hình thức dân chủ nói trên đã động viên sức mạnh của toàn dân tham gia
vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Phương châm “Dân biết” ở đây được hiểu là quyền được tiếp cận thông tin
một cách đầy đủ và trung thực. Qua sự nhận biết từ thông tin, dân biết được quyền và
nghĩa vụ của mình. Do vậy, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và hệ thống
chính trị cơ sở là phải thông báo thường xuyên, đầy đủ đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; những vấn đề kinh tế, xã hội của địa phương cho
nhân dân được biết.
“Dân bàn” - là một khái niệm để chỉ quyền tham gia ý kiến của nhân dân, bàn
để đi đến những quyết định trực tiếp; bàn để thực hiện; bàn để tham gia ý kiến, để từ
đó cơ quan đại diện quyết định.
“Dân làm” – dân là chủ thể trực tiếp của quá trình thực hiện, khi được biết,
được bàn, được tham gia ý kiến, thì việc thực hiện sẽ thuận lợi. Từ đó đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ trở thành phong trào thi đua sâu rộng và
có hiệu quả trong nhân dân.


“Dân kiểm tra” – tức là nhân dân có quyền kiểm tra hoạt động của các tổ
chức, cơ quan Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật; từ công tác kiểm tra để có kiến
nghị chấn chỉnh, bổ sung… với mục đích là làm cho hoạt động của các cơ quan này
lành mạnh hơn, dân chủ và hiệu quả hơn.
Cả bốn khâu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là một quy trình
“kín”, có mối liên hệ chặt chẽ, thúc đẩy, tác động lẫn nhau nhằm phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở.

Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không
tùy thuộc chủ yếu vào sự quán triệt và thực hiện như thế nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã,
phường, cơ quan, doanh nghiệp v.v.. là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước; là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp
nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên, viên chức điều
hành và xử lý công việc hàng ngày. Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được
tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám
sát hoạt động hàng ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo.
Theo Lênin "Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát
triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn v.v... đó là một trong
những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh cách mạng xã hội" [15, tr.97]
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và
sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân,
làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc quản lý của Nhà
nước" [27, tr. 590]. "Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm
cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong " [24, tr. 295].
Người yêu cầu: "Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương"
[24, tr. 698-699].
Như vậy, nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể nhân dân
thật sự vững mạnh, trong sạch; bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Việc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, cậy thế trái phép v.v... chỉ có thể
thực hiện có hiệu quả nếu thật sự dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân
dân. Dân chủ ở cơ sở - trước hết là dân chủ trực tiếp - là hình thức nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí (qua ý kiến) nguyện
vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền ở cơ sở.
1.1.3. Khái niệm về dân chủ ở trường học


Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển

của mỗi quốc gia, dân tộc. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ
trẻ “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [24, tr. 33].
Giáo dục trong nhà trường là con đường cơ bản nhất, vững bền nhất để hình
thành người lao động có kỹ thuật, có kỷ luật cao đáp ứng những yêu cầu của phát
triển kinh tế - xã hội. Nhờ GD&ĐT mà trình độ học vấn của nhân dân mới được
nâng cao, mở ra những khả năng to lớn trong việc nắm bắt và sử dụng những thành
tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, thúc đẩy nhanh nhịp độ phát triển của đất
nước.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát
triển GD và ĐT. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách của đất
nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt giặc dốt. "Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu" và "Dốt nát cũng là kẻ địch", nhiệm vụ diệt giặc đói và giặc dốt
gắn liền với nhau. Mục đích của học tập theo Người, là để làm việc, làm người, làm
cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân
loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Vì vậy,
"vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"
[27, tr. 222].
Khi cách mạng Việt Nam phải thực hiện hai nhiệm vụ cùng một lúc: xây dựng
CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn
hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền
Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà" [28, tr.190]. Khi đế quốc Mỹ mở
rộng chiến tranh ra cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định "Trong hoàn cảnh cả
nước có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh
hơn bao giờ hết" [29, tr. 402].
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chủ trương, chính sách phát triển về giáo dục. Khát vọng lớn lao nhất của Hồ Chí
Minh là "Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai

cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [23, tr. 161].
Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh
viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo Nhân dân, số 5299, ngày 16/10/1968, Hồ


Chí Minh viết: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ
dân chủ xã hội chủ nghĩa".
Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong
giáo dục đã được khởi xướng ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân
An Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây là: "tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật
và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ". Đây là quyền tự do của mọi
người được hưởng sự giáo dục không hạn chế, được làm chủ kho tàng tri thức của
nhân loại. Trong điều kiện lúc bấy giờ, đó là quyền được tự do học tập, quyền phát
triển các loại trường ngoài hệ thống trường công của thực dân Pháp, được mở những
loại trường như Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội, như trường Dục Thanh ở Phan
Thiết, nơi Hồ Chí Minh đã từng dạy học - là nhằm đào tạo những nhân tài cho đất
nước, góp phần mở mang, nâng cao dân trí, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu.
Để làm được điều đó, Người yêu cầu “phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ
nghĩa” vì theo Người, chỉ có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất
cả sinh viên, học sinh đề ra sáng kiến. Theo đó, các cấp ủy, chính quyền, các ngành
các cấp, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến công tác
giáo dục, tạo điều kiện giúp đỡ các trường về mọi mặt, riêng nhà trường “phải thật sự
mở rộng dân chủ trong cơ quan” [25, tr. 269], phải phát huy cao độ dân chủ trong
giáo dục, tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo
ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách
nhiệm để phát triển giáo dục, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước
phát triển mới. Trong Bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục (từ ngày 3
đến 8/6/1957, tại Hà Nội), Hồ Chí Minh nói: “giáo dục trong nhà trường dù có tốt
mấy nhưng thiếu Giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không thu
được hoàn toàn”.

Trong khuôn khổ giáo dục ở nhà trường, việc thực hành dân chủ là một đòi
hỏi hết sức bức thiết, theo đó, Người yêu cầu những người làm công tác quản lý giáo
dục phải nhận thức đúng tầm quan trọng của dân chủ trong giáo dục, xác định giáo
dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; chủ trương
của Nhà trường phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; phải kết hợp chặt chẽ chủ trương,
chính sách của Nhà nước với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú
của quần chúng, của cán bộ và của địa phương.
Để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường phát huy được hiệu
quả, theo Hồ Chí Minh yếu tố cần thiết đầu tiên là phải đào tạo và xây dựng đội ngũ


những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là các cô giáo, thầy giáo - những người
vẻ vang nhất, những anh hùng vô danh, người kỹ sư tâm hồn, vì theo Người, “không
có thầy giáo thì không có giáo dục”. Để xứng đáng với danh hiệu ấy, Người cho rằng
“mỗi người thầy giáo phải không ngừng học tập trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và
phẩm chất đạo đức cách mạng của nhà giáo, thực sự vừa "hồng" vừa "chuyên", "phải
tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiện vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì
dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải mình trước. Phải cố gắng học
tập để cải tạo mình, cải tạo con em, cải tạo xã hội”, phải thật sự yêu nghề, yêu
trường.
Mặt khác, để nâng cao trình độ nhận thức của người học, Hồ Chí Minh cho
rằng thầy cô giáo phải có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ, áp đặt và
cần tạo môi trường, điều kiện để người dạy và người học có sự đối thoại, trao đổi
trong quá trình giảng dạy, học tập. Người chỉ rõ chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến
của mình, góp phần tìm ra chân lý, “được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng
hoặc không đúng cũng vậy", và nhấn mạnh “trong trường, cần có dân chủ. Đối với
mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu.
Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” [30] và "khi mọi người đã phát
biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục

tùng chân lý". Một cách cụ thể hơn, Hồ Chí Minh kêu gọi giáo viên phải biết tôn
trọng ý kiến của đồng nghiệp, của người học, không nên có thành kiến đối với các ý
kiến trái với ý kiến của mình, phải "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư
tưởng".
Tuy nhiên, để dân chủ trong giáo dục ở nhà trường được hoàn bị, Hồ Chí
Minh yêu cầu “dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải
là “cá đối bằng đầu”, trong trao đổi, đối thoại phải trên tinh thần nghiêm túc, công
khai, khách quan, phản ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra, “không
được nói gàn, nói vòng quanh".
Như vậy, mặc dù đề cao và yêu cầu phải dân chủ, phải nêu cao tác phong độc
lập suy nghĩ, tự do tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng khẳng định không thể có dân chủ
quá trớn hay tùy tiện, dân chủ phải gắn liền với pháp luật, tự do phải gắn liền với kỷ
cương. Về mối quan hệ này, Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa,
nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có


cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” [31] và
"không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã
quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi
hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ
những hành động tự do quá trớn ấy" [24, tr 108].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định, phát triển
GD&ĐT và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương khóa VII đã có nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp
GD&ĐT. Đặc biệt, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX đã chỉ rõ: "Nhận thức sâu sắc GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là
nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD&ĐT là
đầu tư cho phát triển" [11, tr. 29].
Hơn bao giờ hết, trong giai đoạn đổi mới và phát triển hiện nay của đất nước,

lời Bác dạy luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam, nó không chỉ là cơ sở
lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ
đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà
còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết
thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói
chung hiện nay. Bài học này nhắc chúng ta luôn quán triệt rằng một nền giáo dục
mới nhất thiết phải thực hiện tốt dân chủ mới; một nhà trường phát triễn vững mạnh
nhất thiết phải có dân chủ và thực hiện tốt dân chủ trong hoạt động giáo dục. Dân
chủ đó nhất thiết phải gắn liền kỷ cương, vì thế song song với việc phát huy dân chủ
cần nghiêm khắc đối với những trường hợp vi phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt
động giáo dục bằng những chế tài nhất định.
1.2. DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.2.1. Tầm quan trọng của việc đưa Quy chế dân chủ ở cơ sở vào trường học
hiện nay
Trong những năm đổi mới vừa qua, quyền làm chủ của nhân dân lại được
nâng lên một bước, tuy nhiên quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế còn bị vi
phạm ở nhiều nơi, ở nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu sách nhiễu, cửa quyền, tham nhũng
gây phiền hà cho dân vẫn đang tồn tại, chưa đẩy lùi được:
Tình trạng mất dân chủ, quan liêu, quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong một
số ngân hàng hoặc gây lãng phí lớn trong xây dựng v.v... chẳng những làm suy giảm


lòng tin của dân đối với Đảng và Chính quyền mà còn triệt tiêu nguồn động lực của
nhân dân và xâm phạm vào bản chất tốt đẹp của chế độ [36, tr. 3-4].
Tình trạng mất dân chủ kéo dài không giải quyết kịp thời đã biến một số nơi
thành "điểm nóng", có quy mô phức tạp hơn. Có nơi, dân ở thôn, xã tập trung hàng
trăm người kéo lên trụ sở UBND xã, huyện khiếu kiện. Hay ở Bình Thuận vào tháng
4/2015 có hàng nghìn người đổ ra quốc lộ 1A để phản đối về ô nhiễm mà chưa được
giải quyết của nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân đã gây ra tắt nghẽn giao thông kéo dài...
Hơn lúc nào hết, Đảng ta một mặt phải xây dựng được đường lối chính sách

đúng, mặt khác, phải lãnh đạo Nhà nước xây dựng được những thiết chế dân chủ một
cách cụ thể, phù hợp với từng đối tượng ở cơ sở nhằm hiện thực hóa những phương
châm có ý nghĩa chiến lược như: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; và Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 30CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tới nay, chúng ta đã
triển khai Chỉ thị này rộng rãi trong cả nước bằng thực hiện Quy chế dân chủ ở cả 3
loại hình cơ sở là xã, phường, thị trấn; cơ quan; các doanh nghiệp. Thực hiện Chỉ thị
của Bộ Chính trị và Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội về xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngày 08 tháng 9 năm 1998, Chính phủ đã ra Nghị
định số 71/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan. Đây là cơ sở pháp lý cho việc triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
của ngành GD&ĐT nói chung và các cơ sở trường học nói riêng. Việc đưa Quy chế
dân chủ vào nhà trường, qua thực tế cho thấy có vai trò rất quan trọng:
Thứ nhất, thực hiện Quy chế dân chủ ở trường học sẽ nâng cao nhận thức về
quyền và nghĩa vụ, phát huy được quyền làm chủ, khơi dậy được tiềm năng trí sáng
tạo, tránh nảy sinh tâm lý cha chung không ai khóc của CBGV-CNV và của người
học. Một khi không xác định rõ quyền và nghĩa vụ của cá nhân đối với tập thể, cá
nhân sẽ thụ động, lệ thuộc vào tập thể, khả năng, của cá nhân không được phát huy.
Do đó, khi CBGV-CNV trong nhà trường ý thức được quyền làm chủ của mình, tự
giác thực hiện nghĩa vụ được giao, ý thức vì nhà trường sẽ được nâng cao. CBGVCNV sẽ thẳng thắn phê bình, đóng góp ý kiến cho nhà trường. Như vậy, một khi Quy
chế dân chủ cơ sở được thực hiện tốt thì không những hạn chế được tiêu cực mà còn
khơi dậy được tính đoàn kết của tập thể, tạo ra không khí phấn khởi, giúp CBGVCNV hoàn thành tốt các nhiệm vụ đề ra.


Thứ hai, thực hiện Quy chế dân chủ ở trường học sẽ tăng cường kỷ cương, nề
nếp, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, nâng cao hiệu lực quản lý trong sử dụng tài
sản, tài chính, trong tuyển sinh, thi cử, đánh giá v.v... Khi có sự kết hợp hài hòa giữa
dân chủ và kỷ cương trong nhà trường thì hiệu lực thực thi, quản lý giáo dục trong
nhà trường chắc chắn sẽ âng lên đáng kể.
Thứ ba, thực hiện Quy chế dân chủ ở trường học sẽ xây dựng niềm tin và mối

quan hệ chặt chẽ giữa CBGV-CNV với cấp ủy Đảng và Chính quyền, với học sinh
và phụ huynh học sinh. Trong đó, người dạy và người học được biết, được bàn, được
làm những gì và kiểm tra những gì? Điều đó góp phần quan trọng ngăn chặn được
những hành vi quan liêu, hách dịch, của cán bộ, tạo ra niềm tin của CBGV-CNV với
lãnh đạo nhà trường.
1.2.2. Nội dung quy chế dân chủ cơ sở trong trường học ở nước ta hiện nay
Với mục đích phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên, góp phần xây
dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên có đủ
phẩm chất năng lực, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
phát triển và đổi mới của nhà trường, của ngành; ngăn chặn và chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu mọi người Phải làm cho mỗi cán bộ, giáo
viên thông suốt và nắm vững tinh thần nội dung các văn bản nói trên để tạo ra sự
đồng tình, nhất trí cao trong nhận thức, hành động và tăng cường trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện Quy chế.
Phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên gắn liền với việc đảm bảo sự
lãnh đạo của cấp uỷ cơ quan, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chế
độ thủ trưởng và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng. Dân chủ phải
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; phát huy dân chủ đồng thời phải kiên quyết
xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm Hiến pháp, pháp luật và xâm phạm
quyền tự do dân chủ của nhân dân, cản trở việc thi hành công vụ ở cơ quan.
Việc đưa Quy chế dân chủ ở cơ sở vào trường học, cần dựa trên những văn
bản của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT về việc triển
khai thực hiện Quy chế dân chủ. Trước hết là các văn bản sau đây:
- Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Nghị quyết số 55/1998/NQ-UBTVQH khóa X, ngày 30/8/1998 của ủy ban
Thường vụ Quốc hội về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan.



- Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan.
- Thông tư số 10/1998/TTCP-TCCB ngày 5/12/1998 của Ban tổ chức - Cán
bộ Chính phủ hướng dẫn triển khai Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan.
- Quyết định 04/2000/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
Các văn bản này đã quy định rất cụ thể những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Kế hoạch số 38/KH-UB của UBND tỉnh Bình Thuận về việc triển khai thực
hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị sự nghiệp... và doanh
nghiệp nhà nước.
Quy chế dân chủ trong nhà trường được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
- Quy định những thông tin mà Hiệu trưởng nhà trường phải công khai cho
CBGV-CNV biết để có ý kiến.
- Những việc mà CBGV-CNV được quyền bàn bạc và quyết định theo nguyên
tắc dân chủ.
- Những việc phải trưng cầu ý kiến của CBGV-CNV trước khi Hiệu trưởng
quyết định.
- Những việc mà CBGV-CNV có quyền giám sát kiểm tra
- Những việc mà học sinh được biết, được tham gia ý kiến.
Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ
cụ thể hóa nội dung Quy chế dân chủ bằng các quy định, quy chế, quy ước. Các quy
định, quy chế, quy ước thể hiện quyền được biết, được bàn, được làm và được kiểm
tra của CBGV-CNV. Tuy nhiên, quyền này gắn liền với trách nhiệm của các chủ thể
trong nhà trường là Hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, phụ huynh, các đoàn thể và tổ
chức trong nhà trường.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy chế dân chủ trong trường học đỏi hỏi phải đảm
bảo các yêu cầu sau:
Một là, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, học tập quán triệt đến cán bộ đảng

viên và toàn thể cán bộ công nhân viên cơ quan các Chỉ thị, Nghị quyết, Quy chế,
Quy định của Đảng và Nhà nước về dân chủ ở cơ sở. Trên cơ sở đó mỗi CBGVCNV trong các nhà trường phát huy quyền làm chủ của mình.


Hai là, Ban Giám hiệu các trường học cần bảo đảm cho CBGV-CNV biết đầy
đủ, chính xác những thông tin cần thiết để CBGV-CNV tham gia xây dựng, phát
triển nhà trường.
Bằng nhiều cách, Ban Giám hiệu các cơ sở trường học mở rộng thông tin để
người dạy và người học trong nhà trường biết đầy đủ, chính xác các vấn đề chính
như những điều trong Quy chế đã ghi. Trên cơ sở hiểu biết các chủ trương, chính
sách, pháp luật, CBGV-CNV và học sinh nhà trường có quyền dân chủ bàn bạc quyết
định những công việc thiết thực trong nhà trường như cách quản lý của Ban Giám
hiệu, sử dụng tài sản, tài chính; thi cử, đánh giá; cách đánh giá, thi đua, khen thưởng;
việc dạy thêm học thêm v.v...Có như vậy, nhà trường mới thực sự phát huy hết tài
năng, trí sáng tạo của mọi thành viên trong nhà trường.
Ba là, CBGV-CNV trong nhà trường trực tiếp kiểm tra, giám sát thúc đẩy các
hoạt động của nhà trường.
CBGV-CNV trong nhà trường được giám sát, kiểm tra những việc liên quan
đến thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và kế hoạch công tác năm
học, những việc liên quan đến quyền và lợi ích của CBGV-CNV. Điều này sẽ góp
phần khắc phục các hạn chế, yếu kém, mở rộng phát huy các kinh nghiệm tốt tạo
điều kiện cho nhà trường phát triển.
Kết luận chương 1
Thực tế khẳng định: thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chủ trương đúng đắn,
trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố hệ thống chính trị, trở thành
động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân, góp phần
xây dựng và bảo vệ Tổ quổc trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
Với dân chủ ở cơ sở trong trường học được thể hiện trong toàn bộ hệ thống
giáo dục, cho đến từng cơ sở trường học. Trong trường học, dân chủ được thể hiện ở

trách nhiệm của Hiệu trưởng, quyền và nghĩa vụ của CBGV-CNV, trách nhiệm của
các tổ chức đoàn thể đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường, thể
hiện quyền làm chủ trực tiếp của học sinh, phụ huynh học sinh trong việc thực hiện
mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục theo phương châm: được biết, được bàn, được
tham gia ý kiến, được giám sát kiểm tra mọi mặt hoạt động của nhà trường. Dân chủ
gắn với kỷ cương, việc thực hiện dân chủ nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc, sự
lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển giáo dục.
Trong khuôn khổ giáo dục ở nhà trường, việc thực hành dân chủ là một đòi hỏi hết


sức bức thiết, theo đó, Người yêu cầu những người làm công tác quản lý giáo dục
phải nhận thức đúng tầm quan trọng của dân chủ trong giáo dục, xác định giáo dục là
sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; chủ trương của Nhà
trường phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; phải kết hợp chặt chẽ chủ trương, chính
sách của Nhà nước với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú của
quần chúng, của cán bộ và của địa phương.

Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRONG CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH THUẬN HIỆN NAY
2.1. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG CÁC
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH
THUẬN HIỆN NAY
2.1.1. Đặc điểm các trường Phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận
a. Vị trí địa lí của tỉnh Bình Thuận
Bình Thuận là tỉnh cuối cùng của vùng cực Nam Trung bộ, nối liền Trung bộ
với miền Đông Nam bộ, đông bắc giáp Ninh Thuận, bắc giáp Lâm Đồng, tây nam
giáp Bà Rịa – Vũng Tàu và phía tây giáp tỉnh Đồng Nai. Phía đông và đông nam

giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km. Bình Thuận là một tỉnh bao gồm một
vùng rừng núi khá lớn, là đoạn cuối cùng của khối núi Trường Sơn Nam tiếp giáp


với vùng đồi núi của miền Đông Nam bộ và Nam Tây Nguyên, đây là địa bàn sinh tụ
lâu đời của nhiều dân tộc thiểu số.
Khí hậu nằm trong khu vực khô hạn nhất cả nước, nắng, gió nhiều, nhiệt độ
trung bình trong năm từ 26,50C – 27,50C. Trong năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 4 năm sau; lượng mưa
trung bình dao động từ 800- 1.300mm/năm. Đối với các xã vùng cao, vào mùa mưa
thường gây ngập lụt, xói lở; nhưng sang mùa nắng hầu hết các sông, suối đều không
có nước, nước ngầm khan hiếm, giếng khô cạn và nhiều phèn; do đó không thuận lợi
cho việc sản xuất và sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã vùng cao.
Toàn tỉnh hiện có 10 huyện, thị xã, thành phố, với 127 xã, phường, thị trấn;
tổng dân số 229.453 hộ/1.140.429 khẩu, với 27 dân tộc anh em sinh sống; trong đó
có 26 dân tộc thiểu số, với 14.647 hộ/79.320 khẩu, chiếm tỉ lệ trên 7% so với dân số
của tỉnh; trong đó dân tộc Chăm 5.229 hộ/29.352 khẩu, dân tộc K’Ho 2.028
hộ/10.610 khẩu, dân tộc Raglay 1.384 hộ/7.083 khẩu, dân tộc Giarai 922 hộ/4.802
khẩu, dân tộc Châuro 496 hộ/ 2.711 khẩu, còn lại là các dân tộc khác: Khơme, Êđê,
Bana…
Những năm sau đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc ở tỉnh Bình Thuận
đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và phát triển toàn diện dân sinh, kinh tế - xã
hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng kể,
tạo được sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số nói
chung và đồng bào các xã vùng cao nói riêng.
Tuy nhiên, tình hình các mặt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay vẫn
còn gặp nhiều khó khăn chậm phát triển. , đặc biệt ở các xã vùng cao. Hệ thống
chính trị cơ sở còn yếu, cấp ủy, chính quyền một số nơi chưa phát huy tốt vai trò lãnh
đạo, quản lý xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ trong vùng dân tộc thiểu số còn nhiều

khó khăn, hạn chế. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là ở các xã vùng cao còn thấp. Chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe
đồng bào chưa cao, việc khai thác, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của các dân tộc còn hạn chế. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp.
Với vị trí và đặc điểm nêu trên, việc triển khai và thực hiện quy chế dân chủ ở
trong trường học là việc làm cấp thiết, ẩn chứa nhiều khó khăn. Một phần do bà con
phải làm kinh tế tìm kiếm kế sinh nhai, phần khác đây là vùng đa dân tộc nên đội ngũ


cán bộ còn hạn chế nhiều về am hiểu phong tục, tập quán, tiếng nói..., nên việc thực
hiện dân chủ có phần thờ ơ, lơ là, đó cũng là điều có thể lí giải được.
b. Đặc điểm các trường Phổ thông dân tộc nội trú Bình Thuận
Đối với công tác giáo dục, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được các cấp, các
ngành quan tâm. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học được
quan tâm đầu tư ở tất cả các cấp học, hệ thống trường, lớp được đầu tư nâng cấp.
Học sinh và phụ huynh đã có chuyển biến về nhận thức, nề nếp học tập khá hơn, tỷ lệ
học sinh đến trường ngày càng tăng, đội ngũ giáo viên ngày càng được chuẩn hoá. Vì
thế, chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên, trong 15 xã thuần đồng bào dân
tộc thiểu số, hiện có 39 trường học/429 lớp học; 15/15 xã thuần đồng bào dân tộc
thiểu số có đủ các loại hình trường, lớp từ Mầm non đến Trung học cơ sở; toàn tỉnh
hiện có 4 trường Phổ thông dân tộc nội trú (tỉnh: 1, huyện: 3) với 1.897 học sinh
đang theo học và 443 giáo viên các cấp tham gia giảng dạy.
Ở vị trí mũi nhọn trong sự nghiệp giáo dục, trường phổ thông dân tộc nội trú
là trường phổ thông tạo nguồn cán bộ dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội của địa phương, trường có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục ở
miền núi, vùng dân tộc. Đây là trường phổ thông dành cho thanh thiếu niên các dân
tộc thiểu số, bản thân và gia đình thường trú ở vùng cao, vùng sâu, xa xôi, hẻo
lánh… Học sinh được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết để ăn học, được nhà
trường tổ chức nuôi dạy và sống nội trú ở trường trong quá trình học tập. Tính chất

của trường là phổ thông, dân tộc, đặc điểm nổi bật của trường là nội trú. trong một
năm học bổng được cấp đủ 12 tháng. Mức học bổng chính sách sẽ được điều chỉnh
theo tỷ lệ tương ứng với các quyết định điều chỉnh mức lương tối thiểu chung của
Nhà nước, bảo đảm bằng 80% mức lương tối thiểu được thực hiện theo Thông tư liên
tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo-Bộ Tài chính.
Tuy nhà nước có quan tâm đầu tư cho học sinh trường dân tộc, nhưng tình
trạng học sinh bỏ học vẫn còn khá cao, để động viên và vận động các em trở lại học
tập đòi hỏi các thầy cô giáo phải có tâm và tấm lòng yêu thương, bởi quảng đường đi
đến gia đình các em là vô cùng xa xôi, phải trèo đèo lội suối, đồng thời ít nhận được
sự hợp tác từ gia đình. Do đó, có thể xem có thể xem nhiệm vụ trọng tâm là đưa và
giữ được học sinh ở lại trường được đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy việc thực hiện
quy chế dân chủ đối với CBGV-CNV, học sinh chưa được quan tâm đúng mức.
2.1.2. Các nội dung và hình thức triển khai Quy chế dân chủ ở trường dân tộc
nội trú Bình Thuận


2.1.2.1. Các nội dung triển khai
Những việc mà Hiệu trưởng nhà trường phải cho CBGV-CNV biết, phải
trưng cầu ý kiến của CBGV-CNV trước khi quyết định:
Hiệu trưởng trong các trường DTNT ở Bình Thuận có vai trò đặc biệt quan
trọng. Việc xây dựng một tập thể đoàn kết, phát huy được khả năng sáng tạo, ý thức
tập thể của từng CBGV-CNV trong nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào năng lực
lãnh đạo và tư cách đạo đức của Ban Giám hiệu đặc biệt là Hiệu trưởng - người quản
lý điều hành mọi hoạt động của nhà trường, người chịu trách nhiệm trước pháp luật
và cấp trên về toàn bộ hoạt động của nhà trường, trong đó có hoạt động ăn, ở nội trú
của học sinh.
Với cương vị lãnh đạo quản lý cao nhất trong nhà trường Hiệu trưởng là
người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện những quy định về trách
nhiệm của nhà trường, của CBGV-CNV, của người học trong Quy chế dân chủ. Với
vai trò lãnh đạo, Hiệu trưởng nhà trường phải gương mẫu, đi đầu trong việc đấu

tranh chống những biểu hiện không dân chủ, trong nhà trường như: cửa quyền, sách
nhiễu, thành kiến, trù dập, giấu giếm, bưng bít, làm sai sự thật, làm trái nguyên tắc và
những biểu hiện không dân chủ khác. Chính điều này đòi hỏi người Hiệu trưởng phải
sáng suốt trong việc lựa chọn cán bộ, phải hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra hoạt động
của cấp dưới trực tiếp trong việc thực hiện dân chủ và giải quyết kịp thời những kiến
nghị của cấp dưới theo thẩm quyền được giao.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp biện chứng giữa tập trung và dân
chủ. Thiếu sự chỉ đạo tập trung, dân chủ có thể trở thành vô chính phủ. Coi nhẹ dân
chủ là phá hoại tính tập thể lãnh đạo và sẽ dẫn đến tình trạng quan liêu, chuyên
quyền, độc đoán. Để thực hiện nguyên tắc này Hiệu trưởng phải lắng nghe và tiếp
thu những ý kiến của cá nhân, tổ chức, đoàn thể trong nhà trường và có các biện
pháp giải quyết đúng theo chế độ, chính sách hiện hành của Nhà nước, theo nội quy,
quy chế, điều lệ của nhà trường và phù hợp với thẩm quyền, trách nhiệm được giao.
Trong trường hợp vượt quá thẩm quyền giải quyết của Hiệu trưởng thì phải thông
báo cho cá nhân, tổ chức, đoàn thể trong nhà trường biết và báo cáo lên cấp trên.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ càng trở nên cần thiết và mang lại kết
quả tốt trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ trong trường DTNT ở Bình Thuận.
Để tạo điều kiện phát huy dân chủ trong nhà trường Hiệu trưởng phải thực
hiện chế độ hội họp theo đúng định kỳ, phối hợp với tổ chức Công đoàn trong nhà
trường tổ chức Hội nghị cán bộ, viên chức theo quy định. Hội nghị cán bộ, viên chức


×