Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên trường Đại học kinh tế Nghệ An trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.2 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THƯƠNG UYÊN

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2

NGHỆ AN, 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THƯƠNG UYÊN

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 06.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Minh Duệ



3

NGHỆ AN, 2015
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện đề tài: “Giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên trường Đại
học Kinh tế Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, lời đầu tiên, cho phép tôi xin
được tỏ bày sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đoàn Minh Duệ người hướng dẫn khoa học cho tôi đầy nhiệt tình và trách nhiệm đã giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong Khoa Giáo
dục Chính trị- Trường Đại học Vinh; Phòng Quản lý nghiên cứu khoa học,
Phòng Công tác Học sinh sinh viên; Đoàn trường - Trường Đại học Kinh tế
Nghệ An đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện đề tài.
Một lần nữa, tôi xin cảm ơn cơ quan, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên, giúp đỡ, hỗ trợ cho tôi về mọi mặt để tôi
hoàn thành khoá học và luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài khoa
học nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận
được sự nhận xét, góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Cuối cùng xin kính chúc quý thầy cô, người thân, bạn bè lời chúc sức khoẻ
và hạnh phúc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 09 năm 2015.
Tác giả luận văn.


4
Nguyễn Thị Thương Uyên

MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCH

: Ban chấp hành

BGH

: Ban giám hiệu

CNH

: Công nghiệp hóa

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

GD- ĐT

: Giáo dục đào tạo

GS

: Giáo sư


HĐH

: Hiện đại hóa

HS- SV

: Học sinh – Sinh viên

SV

: Sinh viên

TNCS

: Thanh niên Cộng sản

TS

: Tiến sĩ

VH

: Văn hóa

VHTT

: Văn hóa truyền thống

XHCN


: Xã hội Chủ nghĩa


4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


5
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Quá
trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam giàu
lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, thương yêu con người, thương yêu
đồng loại, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn... Những đức tính đó đã trở
thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ con người Việt Nam đã
nâng niu, gìn giữ, đó là những giá trị tinh thần, tư tưởng, tâm lý như lòng yêu
nước, tính cần cù, óc sáng tạo, hài hước, trọng nhân nghĩa, kính thầy, ham học,
… những giá trị tốt đẹp đó có tác dụng củng cố, phát triển quan hệ xã hội, tạo ra
sức mạnh cho con người vượt qua khó khăn trong cuộc sống hiện tại để phát
triển xã hội và hoàn thiện nhân cách.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, sinh viên Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang
chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình.
Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao
động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân
thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như: thanh niên tình nguyện, thanh niên lập
nghiệp, tuổi trẻ học đường... được đông đảo sinh viên hưởng ứng, thực hiện.

Đảng, Nhà nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những
sinh viên tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, sinh viên Việt Nam ngày nay vẫn
xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.


6
Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng
như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện,
phấn đấu, một bộ sinh viên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo
ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu
dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu
lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật ... làm
ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu
niên, nhất là khi chưa được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này. Những
hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng
thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội
ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực thù địch đang “chờ đợi” và
sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành chiến lược “diễn
biến hòa bình” hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt
Nam.
Trong bối cảnh đó, việc bảo vệ các giá trị truyền thống là vấn đề cần phải
nhìn nhận nghiêm túc và có sự quan tâm đặc biệt cùng với quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Vì vậy, kế thừa và phát huy truyền thống
dân tộc sẽ giúp chúng ta ý thức được truyền thống dân tộc lịch sử vẻ vang của
dân tộc. Từ đó, làm cho mỗi con người, nhất là những thế hệ trẻ học sinh- sinh
viên ngày càng giàu lòng yêu quê hương đất nước. Việc đẩy mạnh và nâng cao
giáo dục giá trị truyền thống hết sức quan trọng đối với các trường đại học, cao
đẳng và các cấp, ngành từ trung ương đến địa phương trên đất nước Việt Nam.

Đối với trường Đại học Kinh tế Nghệ An, công tác giáo dục các giá trị
truyền thống cho sinh viên vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn, quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu một cách kỹ hơn. Trong những năm vừa qua, các cấp, ngành và
nhất là ban giám hiệu trường Đại học Kinh tế Nghệ An cùng với đoàn thanh
niên, hội sinh viên…đã có nhiều quan tâm, nhưng công tác giáo dục giá trị
truyền thống cho sinh viên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, còn nhiều tồn
tại và hạn chế. Đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào về vấn


7
đề này ở trường. Vì vậy, để nhìn nhận, khắc phục những hạn chế, tồn tại và phát
huy sức mạnh của những giá trị truyền thống của dân tộc, chúng tôi chọn vấn
đề: “Giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
Vấn đề truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống luôn thu hút sự quan
tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý, giáo dục, của giới lý luận trong đất nước Việt
Nam và ở ngoài nước.
Nước Việt Nam qua các thời kỳ luôn chú trọng và phát huy các giá trị
truyền thống của dân tộc và đã tạo được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng CNXH. Nhiều chủ trương
và đường lối nhằm phát huy giá trị truyền thống của dân tộc đã được thực hiện.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu về truyền
thống và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, đi sâu phân tích, làm rõ khái
niệm truyền thống, giá trị truyền thống và giá trị truyền thống của Việt Nam
trong công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH – HĐH, đã đi sâu vào việc phân tích
những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với việc giữ gìn, phát huy các
giá trị truyền thống. Đồng thời nhiều công trình đã đề cập đến các giải pháp giữ
gìn, phát huy các giá trị truyền thống trước xu thế toàn cầu hóa. Trong đó tiêu
biểu là các công trình: “Giá trị tinh thần truyền thống của con người Việt Nam”
(1980) do Trần Văn Giàu chủ biên; “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên

hiện nay” (2004) của Phạm Đình Nghiệp, Nxb Thanh niên; “Phát triển lý tưởng
xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt Nam hiện nay” (2005) của Nguyễn Đức
Tiến, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; “Công tác giáo dục lý luận cho sinh viên
Việt Nam hiện nay”(2010) do Trần Thị Anh Đào ( chủ biên), Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên” (2008) của
Đoàn Nam Đàn, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; “Vấn đề khai thác các giá trị
truyền thống vì mục tiêu phát triển” của Nguyễn Trọng Chuẩn; "Giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền
kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt; "Quan hệ biện chứng giữa truyền


8
thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay",
Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002.
Trong những cuốn sách này, các tác giả đã nghiên cứu những truyền thống
tốt đẹp của con người Việt Nam và vai trò của việc giáo dục các giá trị truyền
thống cho thế hệ trẻ.
Ngoài ra, trong một số công trình, luận văn, luận án, sách đã nghiên cứu về
đề tài này cụ thể như: “Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên trong bối cảnh
Việt Nam hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, số 12 (2008). “Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên tỉnh Nghệ An”, TS.Đoàn Minh Duệ
(chủ biên) (2004), Nxb Nghệ An. “Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục truyền thống cho sinh viên Đại học Vinh”, TS. Đinh Thế Định (2005), Đề tài
khoa học cấp bộ. “Sinh viên với việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh trong thời kỳ
hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thống, Học viện Chính
trị- hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh- Học viện báo chí và tuyên truyền, Số 5
(2009)…
Các công trình nghiên cứu, bài viết trên đã đi sâu phân tích, làm rõ khái
niệm, giá trị của truyền thống dân tộc Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Đồng

thời, nhiều công trình đã đề cập đến các giải pháp giữ gìn, phát huy, giáo dục giá
trị truyền thống cho thế hệ trẻ sinh viên trước thử thách toàn cầu hóa của đất
nước. Các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối với việc
kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống hiện nay ở nước ta.
Đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp, đầy đủ và
chuyên sâu đến việc giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên trường Đại học
Kinh tế Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, những công trình nghiên
cứu trước đây là điều kiện thuận lợi và nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi
thực hiện đề tài này trên cơ sở kế thừa và phát triển.


9
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục các giá trị truyền thống cho
sinh viên Trường Đại học Kinh tế Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục các giá trị truyền thống cho sinh
viên các trường đại học.
- Điều tra, khảo sát và đánh giá thực trạng công tác giáo dục giá trị truyền
thống cho sinh viên trường Đại học Kinh tế Nghệ An.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục giá trị truyền thống cho sinh viên trường Đại học Kinh tế Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên rất rộng, đa dạng,
phong phú và cũng là vấn đề cấp bách. Song, trong giới hạn luận văn này, tác
giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu về các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, đánh giá thực trạng công tác giáo dục giá trị truyền thống cho sinh
viên ở trựờng Đại học Kinh tế Nghệ An và đề ra phương hướng, các giải pháp

cơ bản để thực hiện tốt vấn đề đó trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Truyền thống có nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc giáo dục giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc cho sinh viên trường Đại học Kinh tế Nghệ An.
- Đề tài được điều tra trực tiếp tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An với 400
phiếu điều tra ở 2 đối tượng:
+ 50 phiếu điều tra dành cho cán bộ công nhân viên Trường Đại học Kinh
tế Nghệ An.
+ 350 phiếu điều tra dành cho sinh viên: trong đó 157 phiếu điều tra các lớp
hệ Cao đẳng với các ngành: Kế toán K9- 02 là 18 phiếu, Kế toán K9- 03 là 18


10
phiếu, Kế toán K9- 04 là 15 phiếu, Khoa học cây trồng K9 là 7 phiếu, Chăn nuôi
thú y là 13 phiếu, Tài chính ngân hàng K9-01 là 11 phiếu, Kế toán K10-01 là 25
phiếu, Kế toán K 10-02 là 32 phiếu, Kế toán K10-03 là 18 phiếu và 193 phiếu
điều tra cho hệ Đại học các ngành: Kế toán K1 ở 4 lớp Kế toán K1-01 là 41
phiếu, Kế toán K1-02 là 46 phiếu, Kế toán K1-03 là 33 phiếu, Kế toán K1-04 là
35 phiếu; Kinh tế K1 là 10 phiếu và Chăn nuôi thú y K1 là 28 phiếu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Tác giả thực hiện luận văn này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về các giá trị truyền thống của dân tộc, của Bộ
Giáo dục&Đào tạo về công tác giáo dục truyền thống; đồng thời có dựa trên các
nghị quyết của Tỉnh ủy Nghệ An về vấn đề này. Ngoài ra, tác giả luận văn còn
kế thừa các thành tựu lý luận của các công trình nghiên cứu đã được công bố có
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khi nghiên cứu đề tài
như: phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch;
phương pháp so sánh, thống kê, điều tra ( bằng phiếu điều tra, phỏng vấn, điều
tra qua tài liệu); sử dụng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu hệ thống, phương
pháp quan sát….
6. Đóng góp của luận văn
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận văn có ý nghĩa sâu sắc cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Luận văn góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của
giá trị truyền thống dân tộc,định hướng tư tưởng cho sinh viên, đánh giá thực
trạng công tác giáo dục truyền thống cho sinh viên trường Đại học Kinh tế Nghệ
An, đề ra phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác
giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên trường Đại học Kinh tế Nghệ An


11
trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tạo ra những cơ sở vững chắc để triển khai mở
rộng ra nhiều trường khác.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, tìm hiểu về những nội dung
của giá trị truyền thống dân tộc và công tác giáo dục giá trị truyền thống cho
sinh viên trường Đại học Kinh tế Nghệ An
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 7 tiết.


12

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG

CHO SINH VIÊN TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Truyền thống
Truyền thống vốn là một vấn đề luôn được đề cập đến rất nhiều trong xã
hội Việt Nam. Vì thế, khi bàn đến khái niệm truyền thống lại có nhiều cách nhìn
nhận khác nhau và nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng tựu chung định nghĩa
mang tính phổ thông và được nhiều người chấp nhận nhất đó là: Truyền thống là
những thói quen hình thành lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Dựa trên cơ sở định nghĩa chung nhất về truyền thống, thì các nhà khoa học
đã khái quát khái niệm này ở nhiều cấp độ khác nhau trong từng lĩnh vực chuyên
môn. Cụ thể, GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn quan niệm: “Nói đến truyền thống là
nói đến phức hợp của những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những
phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí…của một cộng đồng người đã hình
thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác” [7, tr.11]. Trong định nghĩa này GS, TS Nguyễn Trọng Chuẩn đã cụ thể
hóa khái niệm truyền thống được hình thành ở nhiều cấp độ khác nhau, đó là
“phức hợp của những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những phong tục,
lối sống, cách ứng xử….” của con người đã được hình thành trong lịch sử và có
tính bền vững, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong sách “Bàn về văn hóa Việt Nam” thì GS, Vũ Khiêu lại có định nghĩa
khác: “Truyền thống là những thói quen lâu đời đã được hình thành trong nếp
sống, suy nghĩ và hành động của một dân tộc, một gia đình, một dòng họ, một
làng xã , một tập đoàn lịch sử” [25, tr.536].


13
Khi nghiên cứu về “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã đưa ra định
nghĩa: “Truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những tập quán,

thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định,
được hình thành trong lịch sử và trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác” [7, tr.11].
GS, TS Trần Đình Sử khi nghiên cứu về truyền thống dân tộc và tính hiện
đại của truyền thống lại cho rằng: “Truyền thống là mối liên hệ của lịch sử, mà
một đầu là những giá trị văn hóa được sáng tạo trong quá khứ lịch sử dân tộc và
một đầu là sự thẩm định, xác lập và phát huy của người hiện đại” [39, tr.45].
Như vậy, khi định nghĩa khái niệm truyền thống tuy các nhà khoa học có những
cách biểu đạt khác nhau, nhưng về cơ bản đều thống nhất ở chỗ coi: Truyền
thống là những tập tục, thói quen và nói chung là những kinh nghiệm xã hội
được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ của con người, được
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Các nhà triết học tiêu biểu của Chủ nghĩa duy vật Mác xít cũng ít nhiều
thông qua các tác phẩm của mình đã thể hiện quan điểm về truyền thống. Trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph. Ăngghen viết: “Lịch sử chẳng qua
chỉ là nối tiếp của các thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những
vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ trước đó để
lại, do đó mỗi thế hệ một mặt tiếp tục phương thức hoạt động được truyền lại,
nhưng trong mỗi hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác lại biến đổi
những hoàn cảnh cũ một hoạt động hoàn toàn thay đổi” [31, tr.65].
Khi tiếp cận truyền thống dưới góc độ Triết học, thì TS Nguyễn Lương
Bằng thông qua luận án tiến sĩ triết học “Kết hợp truyền thống và hiện đại trong
quá trình đổi mới giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay”, đã đưa ra định
nghĩa: “Truyền thống là một khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng như tính
cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, thói quen trong tư duy, tâm lý, lối ứng
xử… được hình thành trên cơ sở những điều kiện địa lý- tự nhiên, kinh tế- xã


14
hội cũng như hoạt động của con người trong qúa trình lịch sử và được lưu truyền

từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một cộng đồng người nhất định” [2, tr.18].
Tóm lại, khi nghiên cứu về truyền thống thì các nhà khoa học đã có những
góc nhìn khác nhau,vì thế đã có những định nghĩa khác nhau về cùng một vấn
đề. Tuy nhiên, điểm chung nhất ở họ khi nghiên cứu là đều dựa trên thế giới
quan khoa học và phương pháp luận biện chứng. Vì thế, những định nghĩa đã
nêu trên đều chứa đựng những nhân tố hợp lý của nó.
* Những đặc trưng cơ bản của truyền thống
Trên cơ sở sự nghiên cứu của các nhà khoa học về truyền thống thì từ đó ta
có thể khái quát thành 4 đặc trưng cơ bản của truyền thống như sau:
1. Truyền thống là kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người
trong quá khứ biểu hiện ở tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, tập quán,
thói quen trong tư duy, lối ứng xử, tâm lý, đạo đức…
2. Truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng người (thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, gia đình, làng xã...), là bản sắc của các cộng đồng
người.
3. Truyền thống đã được hình thành trong lịch sử do tác động của môi
trường tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản xuất
và kết cấu kinh tế xã hội, tác động thường xuyên của lịch sử, tác động của môi
trường văn hóa khu vực và thế giới.
4. Truyền thống có tính kế tục từ lớp người trước sang lớp người sau, nó ăn
sâu vào tâm lý, vào phong tục tập quán, vào nếp nghĩ…của con người. Tuy
nhiên, trước và sau không hoàn toàn giống nhau, đồng nhất với nhau nhưng về
căn bản thì không khác biệt.
Như vậy, đặc trưng của truyền thống là có tính cộng đồng, tính ổn định và
lưu truyền. Những đặc trưng này có tính độc lập tương đối vì khi những cơ sở,
điều kiện hình thành truyền thống thay đổi thì nó cũng dần dần biến đổi cho phù
hợp với hoàn cảnh mới hoặc có thể truyền thống mới sẽ xuất hiện. Truyền thống
có tính hai mặt đối lập nhau đó là truyền thống tốt và truyền thống xấu. Truyền



15
thống tốt có tác dụng hình thành nên những phẩm chất tốt ở con người và hành
động của con người góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, truyền thống
xấu sẽ kìm hãm sự phát triển của con người và xã hội. Hai mặt này của truyền
thống luôn tồn tại tạo thành mâu thuẫn biện chứng trong quá trình lịch sử.
*Truyền thống có nhiều cấp độ khác nhau: Có truyền thống gia đình,
truyền thống của từng địa phương, đơn vị, truyền thống cách mạng, truyền thống
dân tộc.
* Nguyên tắc chung của việc giữ gìn và phát huy truyền thống là phải
bảo đảm sự kế thừa biện chứng với 4 nội dung:
+ Một là, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ của quá khứ (tập tục
lạc hậu, tàn dư tư tưởng phong kiến, tâm lý sản xuất nhỏ...).
+ Hai là, giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ (tinh thần yêu nước, lao
động cần cù sáng tạo, tinh thần nhân đạo cao cả...).
+ Ba là, ngay các yếu tố tích cực, tiến bộ đó cũng không giữ lại nguyên xi,
mà phải được cải biến cho phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới.
+ Bốn là, các thế hệ mới phải sáng tạo ra những yếu tố hoàn toàn mới mà
các thế hệ cha anh hoặc không có khả năng, hoặc không có điều kiện để thực
hiện.
1.1.2. Giá trị truyền thống
Truyền thống với tư cách là tổng hợp những tư tưởng, tình cảm, phong tục
tập quán, lối sống… của một cộng đồng người, hình thành trong quá trình lịch
sử, tương đối ổn định, được truyền từ đời này qua đời khác, bao hàm cả mặt tích
cực và mặt tiêu cực, hình thành nên những truyền thống tốt đẹp và truyền thống
tiêu cực.
Truyền thống tốt đẹp của một cộng đồng được hình thành trong quá trình
lịch sử gắn với các giá trị chân, thiện, mỹ phù hợp với chuẩn mực của đời sống
xã hội, thúc đẩy sự phát triển, thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới
mục tiêu cao quý. Những truyền thống tốt đẹp đó hình thành hệ giá trị truyền
thống của một cộng đồng, được giữ gìn và phát huy trong mọi quá trình lịch sử.



16
Do vậy, khi đề cập đến giá trị truyền thống là chỉ nói đến những truyền thống tốt
đẹp của một cộng đồng, không tính đến những truyền thống tiêu cực.
GS Trần Văn Giàu quan niệm: “Chỉ có cái tốt mà thôi, bởi vì chỉ có những
cái gì tốt đều được gọi là giá trị. Tuy nhiên, không phải mọi cái gì tốt đều được
gọi là giá trị mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích
cực cho đạo đức, luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn
sự hành động thì mới được mang danh là giá trị truyền thống” [21, tr.50]. Với
cách nhìn nhận như vậy, GS Trần Văn Giàu đã hướng con người khi tiếp thu
những giá trị truyền thống của dân tộc thì phải luôn biết chọn lựa những “cái
tốt” và những “cái tốt” đó phải là cái phổ biến, có tác dụng tích cực cho đạo đức,
hướng hành động con người theo xu hướng tích cực.
GS Phan Huy Lê đã khẳng định: “Khi nói đến giá trị truyền thống là đã
hàm ý tuyển chọn và phân biệt, chỉ nói đến những truyền thống tốt đẹp” [27,
tr.4]. Quan niệm của GS Phan Huy Lê khi nói về giá trị truyền thống cũng đồng
quan điểm với cách nhìn nhận của GS Trần Văn Giàu. Thực tế khi nói đến
truyền thống dân tộc lại có nhiều truyền thống, trong đó có truyền thống tốt và
truyền thống không tốt. Vậy, những truyền thống được coi là cơ giá trị và cần
lưu giữ, phát huy đó phải là truyền thống tốt, có như vậy mới giúp hình thành và
làm cho xã hội Việt Nam ngày càng tốt đẹp.
GS Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng: “Khi nói đến giá trị truyền thống thì
hàm ý đã muốn nói tới những giá trị tương đối ổn định, tới những gì tốt đẹp, là
tích cực, là tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc có khả năng truyền lại qua
không gian và thời gian” [8, tr.18].
Nói một cách ngắn gọn, giá trị truyền thống của một cộng đồng người
chính là tổng hợp những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng người đó. Là tất cả
những gì cần được giữ gìn. Phát huy và phát triển cho phù hợp với xã hội hiện
đại.

Giá trị truyền thống dân tộc là sự tổng hòa các giá trị về tâm lý, ý thức,
phong tục tập quán, lối sống…của tất cả các cá nhân, các dân tộc, các địa


17
phương. Là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa dân tộc: ước mơ, lý tưởng, trình độ năng
lực, ý chí, bản lĩnh, phong cách tư duy, phương pháp hành động…thực hiện mục
đích cao cả của các cộng đồng người.
Với vị trí và cấu trúc như vậy, giá trị truyền thống dân tộc chứa đựng tiềm
năng và bền vững, là sức mạnh vốn có của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người.
Nó vừa có tính ổn định, vừa có tính biến động do sự bổ sung, chuyển hóa và
phát triển ngày càng phong phú để phù hợp với yêu cầu của thời đại. Với sức
mạnh, sự trường tồn bền vững, sự tiếp nối giá trị truyền thống dân tộc sẽ là cơ sở
vững chắc cho sự phát triển của đất nước.
Những giá trị truyền thống của một dân tộc được cô đúc, thử thách và tái
tạo qua nhiều thế hệ kế tiếp nhau theo những bước thăng trầm của lịch sử, trong
sự giao lưu, tiếp xúc với nền văn hóa của các dân tộc khác. Theo nghĩa đó, giá
trị truyền thống dân tộc như là sự rút gọn lịch sử và là sự cô đặc văn hóa của mỗi
dân tộc. Vì vậy, có thể nói rằng giá trị truyền thống dân tộc là cái thể hiện bản
chất đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa dân tộc. Và nếu quan niệm bản sắc dân tộc là
toàn bộ tâm hồn, khí phách sâu xa nhất của dân tộc, nơi hội tụ các phẩm chất
đặc sắc của văn hóa cộng đồng, là cốt lõi bên trong như là căn cước của mỗi dân
tộc, thì giá trị truyền thống dân tộc là những khía cạnh, những nét độc đáo của
bản sắc văn hóa dân tộc. Hay nói cách khác, giá trị truyền thống dân tộc là
những thành tố cấu thành bản sắc dân tộc.
Giá trị truyền thống dân tộc không phải là quà tặng của thượng đế mà nó
được nảy sinh trên mảnh đất hiện thực. Nó được hình thành và phát triển do sự
tác động của nhiều nhân tố, song những nhân tố cơ bản là:
+ Môi trường tự nhiên và điều kiện địa lý
+ Quá trình lao động sản xuất

+ Tác động thường xuyên của hoàn cảnh lịch sử
+ Tác động của môi trường khu vực và thế giới.


18
1.1.3. Khái niệm giáo dục giá trị truyền thống
1.1.3.1. Khái niệm giáo dục
Trong tiếng Anh, từ “Giáo dục” được biết đến với từ “Education”, đây là
một từ gốc La tinh được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” - “Ex-ducere” có
nghĩa là “làm bộc lộ ra” hoặc dẫn con người vượt ra khỏi hiện tại của họ để
vươn tới những gì hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn. Có thể hiểu “Giáo
dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người
được giáo dục” [36, tr.6].
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “Giáo
dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người.” [36, tr.19]. Định nghĩa
này nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu
tố dạy học, nhưng không đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng
của việc đó.
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là: quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách,
được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và
quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) được hiểu là: một bộ phận của quá trình giáo dục
tổng thể, là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ,
những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội,
thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động, tư tưởng, chính trị, thẩm mỹ…
Do đó, khái niệm Giáo dục được hiểu đầy đủ là quá trình được tổ chức có ý
thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm,
thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần

hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài,
góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội.
Hay nói cách khác quá trình giáo dục là quá trình mà dưới sự tổ chức, lãnh
đạo có mục đích các loại hoạt động phong phú, các mối quan hệ nhiều mặt của


19
người được giáo dục đối với người khác, với thế giới xung quanh, các dạng giao
lưu đa dạng giữa họ với nhau và giữa họ với những người lớn tuổi khác, nhằm
hình thành cho con người được giáo dục quan điểm, niềm tin, định hướng giá trị,
lý tưởng, động cơ, thái độ, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen ứng xử đúng đắn trong
các quan hệ đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, lao động, vệ sinh…thuộc các
lĩnh vực đời sống xã hội.
Giáo dục gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là
quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền
thụ sự hiểu biết.. Giáo dục là nền tảng cho sự truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế
hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả
năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.
Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ
giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và làm chủ được các
mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, cách ứng xử trong xã hội.
Như vậy, quá trình giáo dục là quá trình tác động của rất nhiều nhân tố:
bao gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong…Đó là
những ảnh hưởng của các sự kiện kinh tế, chính trị, pháp chế - hành chính, tư
tưởng – văn hóa, tâm lý – tập quán…của xã hội; các ảnh hưởng của hoạt động
giáo dục của nhà trường, gia đình, các đoàn thể…từng ngày, từng giờ tác động
đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh, của người học.
1.1.3.2. Giáo dục giá trị truyền thống
Giáo dục giá trị truyền thống có thể được hiểu là quá trình được tổ chức có
ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình

cảm, thái độ của người học theo hướng tiếp thu những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Từ đây góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những
tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người trong xã hội.
Giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên nhằm mục đích giúp sinh viên
hiểu biết sâu sắc quá khứ gian khổ, đau thương nhưng anh dũng và vinh quang


20
của dân tộc, của Đảng để sinh viên tự hào, tin tưởng, nhận rõ giá trị của cuộc
sống hiện tại, nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế
chân chính, xây dựng thái độ lao động mới, ý thức tự lực tự cường, có trách
nhiệm với xã hội, với tương lai của dân tộc, tiếp tục sự nghiệp của các thế hệ cha
anh đi trước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ còn nhằm bảo đảm
sự kế tục và thống nhất giữa các thế hệ cách mạng Việt Nam.
Vì thế, sinh viên Việt Nam dù ở hoàn cảnh nào cũng phải nỗ lực hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình, thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm công dân,
phấn đấu góp phần đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, từng bước vươn
lên theo kịp các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện ở sự
xung kích, sáng tạo trong phát triển kinh tế: năng động, nhạy bén “đi tắt đón
đầu” trong nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ. Và đặc biệt
trong tình yêu quê hương đất nước, luôn tin tường vào sự lãnh đạo của Đảng và
con đường mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn đó là Chủ nghĩa xã hội
và Chủ nghĩa Cộng sản.
Nói tóm lại, trong thời kỳ mới, những giá trị truyền thống của dân tộc được
biểu hiện dưới nhiều nội dung và hình thức đa dạng, phong phú hơn. Vấn đề cốt
yếu của việc giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên trong thời đại ngày nay
chính là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp hài hòa chủ nghĩa
quốc tế vô sản chân chính, là đem hết nhiệt tình, trí tuệ, tài năng để xây dựng đất

nước theo định hướng XHCN, trước mắt là xây dựng xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên tinh thần hòa bình, hữu nghị và hội
nhập, cùng nhau phát triển. Để từ đó vừa bảo tồn và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc vừa từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.


21
1.2. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam cần giáo
dục cho sinh viên
Mỗi dân tộc có những truyền thống riêng trong quá trình phát triển và xây
dựng đất nước. Trải qua hơn bốn nghìn năm xây dựng và bảo vệ đất nước, dân
tộc Việt Nam đã hình thành một hệ những giá trị truyền thống, đó là chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc; tình đoàn kết, tương thân tương ái lẫn nhau;
truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa; là những giá trị về gia đình, văn hóa, phong
tục tập quán…và rất nhiều những hệ giá trị quý báu mà cha ông ta đã đúc rút và
truyền lại cho thế hệ sau. Trải qua một thời gian dài như vậy, những giá trị
truyền thống của dân tộc vẫn không hề bị mất đi mà ngược lại nó càng được bảo
tồn và phát huy trong đời sống của nhân dân. Khi bàn về các giá trị truyền thống
của dân tộc thì hầu hết các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đều nhất trí với
quan điểm của GS Trần Văn Giàu về giá trị tinh thần truyền thống cơ bản của
dân tộc Việt Nam là: “Yêu nước, đoàn kết, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa…” [22, tr.94]. Trong đó, yêu nước là bậc thang giá trị
cao nhất, là giá trị cốt lõi định hướng cho mọi giá trị khác.
1.2.1. Giáo dục truyền thống yêu nước cho sinh viên
Yêu nước là tình cảm phổ biến của mọi quốc gia, dân tộc nhưng do điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước mà nó có sự khúc xạ khác nhau. Đối
với dân tộc Việt Nam, yêu nước là tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất, là “sợi
chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại”. “Yêu nước”
là một khái niệm được hình thành từ hai khái niệm “yêu” và “nước”. “Yêu” theo

nghĩa chung nhất, là trạng thái tình cảm của chủ thể này đối với một chủ thể
khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được gắn kết với chủ
thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. “Yêu” không chỉ thể hiện qua lời
nói, ý thức mà còn thể hiện bằng hành động. “Nước” ở đây có nghĩa là đất nước,
quê hương, Tổ quốc, quốc gia, non sông [24, tr.10].
Theo từ điển Bách khoa mở thì Chủ nghĩa yêu nước được hiểu chính
là biểu hiện quan điểm tích cực về quê hương của một cá nhân hay tập thể, trong


22
đó quê hương có thể là một vùng, một thành phố nhưng thường gắn với khái
niệm quốc gia. Nó gồm những quan điểm như: tự hào về thành tựu hay văn
hóa của quê hương, mong muốn bảo vệ những đặc điểm đó, đồng hóa mọi thành
viên của quốc gia. Chủ nghĩa yêu nước rất gần với chủ nghĩa dân tộc, vì thế
chúng hay được dùng như những từ đồng nghĩa. Nếu xét cặn kẽ thì chủ nghĩa
dân tộc liên quan tới các học thuyết và phong trào chính trị hơn, trong khi chủ
nghĩa yêu nước liên quan tới quan niệm nhiều hơn.
Yêu nước là một tình cảm, một trạng thái tâm lý tự nhiên của con người
như tình yêu quê hương, xứ sở, sự gắn bó với ngôn ngữ và niềm tự hào về
truyền thống…Yêu nước là một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình yêu và
lòng trung thành đối với Tổ quốc, lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ
quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước cũng có quá trình phát
triển cùng với lịch sử phát triển của quốc gia dân tộc, theo quá trình đó thì tình
cảm yêu nước có tính chất cảm tính ấy dần dần trở thành lý tính có nội dung tư
tưởng, lý luận.
Việt Nam có vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình, tài nguyên, sinh thái
thuận lợi, khí hậu nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng. Với vị trí và đặc điểm
ấy, Việt Nam đã chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn nhưng cũng đặt ra không ít
thử thách đối với con người. Vì thế, qúa trình hình thành và phát triển của dân
tộc Việt Nam gắn liền với qúa trình thống nhất quốc gia. Điều đó đã tác động

sâu sắc đến sự phát triển của ý thức dân tộc, tạo nên sự cố kết cộng đồng. Tinh
thần yêu nước được thể hiện qua ý thức cộng đồng và phát triển trong qúa trình
xây dựng và bảo vệ đất nước. Nó là sản phẩm riêng của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Có xây
dựng đất nước vững mạnh mới có thể ngăn chặn được họa ngoại xâm, Ngược
lại, có bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ quốc gia mới tạo tiền đề cho việc xây
dựng đất nước. Yêu nước đối với nhân dân ta trước hết là chăm lo phát triển đất
nước trên mọi phương diện như kinh tế, văn hóa, chính trị, từ đó đảm bảo sức
mạnh nội sinh cho sự bảo tồn của dân tộc. Đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước


23
Việt Nam là: xuất hiện rất sớm và luôn luôn được củng cố, đối mặt bởi vô số
những cuộc khởi nghĩa chống đô hộ và nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, thành một thứ vũ khí tinh thần cực kỳ sắc bén. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ
lịch sử khác nhau, chủ nghĩa yêu nước có những biểu hiện khác nhau.
Dân tộc nào cũng có tinh thần yêu nước nhưng mức độ sâu đậm là khác
nhau do hoàn cảnh lịch sử tạo ra. Cái độc đáo chủ yếu trong hoàn cảnh lịch sử
dân tộc Việt Nam là phải chống giặc ngoại xâm liên tục trong nhiều nghìn năm,
nhiều thời đại với nhiều đế quốc lớn hùng mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Chính vì
vậy, lòng yêu nước đã trở thành một động lực lớn thôi thúc nhân dân Việt Nam
đứng lên đấu tranh để dành độc lập tự do.
Yêu nước là giá trị truyền thống hàng đầu, chủ đạo trong bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam, là "Sợi chỉ đỏ xuyên suốt" toàn bộ lịch sử Việt Nam từ thời
cổ đại đến hiện đại. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh quan
của người Việt Nam và nếu dùng từ "đạo" với nguyên nghĩa của nó là "đường",
là hướng đi, thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo Việt Nam" [22, tr.30].
Chủ nghĩa yêu nước bắt nguồn và phát triển từ thời vua Hùng dựng nước,
thể hiện trong tinh thần quật khởi "đền nợ nước, trả thù nhà" của Hai Bà Trưng,
ý chí quật cường "không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người" của Bà Triệu,

ở ý chí giải phóng dân tộc của nhân dân ta suốt nghìn năm Bắc thuộc. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam được nhân lên gấp bội, sau khi Ngô Quyền đánh thắng quan
Nam Hán trên sông Bặch Đằng mở ra thời kỳ lịch sử mới trong lịch sử dân tộc.
Lòng yêu nước đó được khẳng định trong bài thơ "Thần" của Lý Thường Kiệt,
trong "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, ở lòng tự tôn dân tộc cao cả của
người anh hùng dân tộc áo vải Nguyễn Huệ, trong tinh thần kiên cường bất
khuất của bao thế hệ người dân Việt Nam gần một thế kỷ đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược. Khắp đất nước ta có nhiều đền thờ các anh hùng dân tộc, những
người đã có công, đã xả thân vì nước. Dân tộc ta coi Hùng Vương, Trần Hưng
Đạo, Hồ Chí Minh... là những vị thánh, đó là điều ít có ở các dân tộc khác.


24
Đặc biệt chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện ở sự quý trọng nền văn
hóa dân tộc cũng như sắc thái văn hóa của các địa phương, của các dân tộc (tộc
người) trong nước. Đó là ý thức dân tộc, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước Việt Nam. Tinh thần dân tộc đóng vai trò chủ yếu trong việc bảo
vệ dân tộc khỏi bị họa diệt vong, bảo vệ nền văn hóa dân tộc giữ được sắc thái
riêng, không bị hòa trộn với các nền văn hóa khác.
Có thể nói rằng lịch sử dân tộc ta từ khi dựng nước đến nay là lịch sử đấu
tranh chống ngoại xâm. Cho nên yêu nước tập trung trước hết ở tinh thần chống
giặc ngoại xâm, tinh thần "nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ", thực hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"
Yêu nước là sức mạnh tinh thần, nguyên khí của dân tộc, đưa dân tộc giành
được những thắng lợi vẻ vang trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đúng như
nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân tộc ta có truyền thống nồng nàn yêu
nước, đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xa tới nay mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ to lớn nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và lũ cướp nước" [35, tr.572].

Chủ nghĩa yêu nước không những đưa dân tộc ta giành chiến thắng trong
các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm mà còn giành thắng lợi trước âm
mưu đồng hóa của kẻ thù trong suốt nghìn năm đô hộ và nhiều lần hội nhập
quốc tế, giữ gìn bản sắc dân tộc và không ngừng làm giàu thêm kho tàng giá trị
truyền thống của dân tộc mình.
Trong công cuộc CNH- HĐH đất nước sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
đang là động lực nội sinh tạo nên ý chí, quyết tâm, nghị lực và trí tuệ để đưa đất
nước ta nhanh chóng vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp văn minh của thời
đại. Chủ nghĩa yêu nước còn là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, bảo đảm
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu và hội nhập
quốc tế.


×