BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ NHẬT HUY
CÚ SỐC GIÁ DẦU VÀ LỢI NHUẬN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ NHẬT HUY
CÚ SỐC GIÁ DẦU VÀ LỢI NHUẬN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính - Ngân Hàng
Mã Số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Lê Nhật Huy, tác giả của luận văn thạc sĩ “Cú sốc giá dầu và lợi nhuận thị
trường chứng khoán: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam”.
Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn là kết quả nghiên cứu cá nhân dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang. Luận văn được thực
hiện một cách độc lập. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, được thu thập
từ các nguồn đáng tin cậy, các kết quả nghiên cứu được lấy từ phần mềm kinh tế
lượng Eviews và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
TP.HCM, Ngày 22 Tháng 10 Năm 2015
Học viên thực hiện luận văn
Lê Nhật Huy
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
TÓM TẮT ................................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG ...................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂYError! Bookmark not def
2.1 Lý thuyết nền mối quan hệ giữa giá dầu và thị trường chứng khoánError! Bookmark not d
2.1.1 Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá (APT) ...... Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ môError! Bookmark not defined.
2.2 Các nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau trên thế giớiError! Bookmark not defined.3
2.3 Các nghiên cứu tại Việt Nam ................................ Error! Bookmark not defined.
2.4 Các loại cú sốc trong giá dầu ................................ Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨUError! Bookmark not define
3. Khái quát phương pháp nghiên cứu ........................ Error! Bookmark not defined.
3.1. Kiểm định tính dừng ............................................ Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Tính dừng .......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Bậc tích hợp ...................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.3 Kiểm định Unit-root (kiểm định đơn vị) ............ Error! Bookmark not defined.
3.2 Mô hình Vector tự hồi quy - VAR (Vector Autoregressive Models)Error! Bookmark not d
3.2.1 Giới thiệu về mô hình VAR ............................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Một số vấn đề của mô hình VAR ....................... Error! Bookmark not defined.
3.3 Mô hình VAR cấu trúc - SVAR (Structural VAR)Error! Bookmark not defined.
3.4 Mô hình Scalar – BEKK ....................................... Error! Bookmark not defined.
3.5 Dữ liệu nghiên cứu ............................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................ Error! Bookmark not defined.
4.1 Kết quả thống kê mô tả biến ................................. Error! Bookmark not defined.
4.2 Kiểm định tính dừng ............................................. Error! Bookmark not defined.
4.3 Tương quan giữa giá dầu thực và các cú sốc giá dầu khác nhauError! Bookmark not defin
4.3.1 Kết quả phân tích mô hình VAR ........................ Error! Bookmark not defined.
4.3.2 Xác định độ trễ tối ưu......................................... Error! Bookmark not defined.
4.3.3 Kết quả kiểm định mức ý nghĩa của mô hình VARError! Bookmark not defined.
4.4. Mối tương quan biến đổi theo thời gian ............... Error! Bookmark not defined.
4.4.1. Chỉ số thị trường chứng khoán tổng hợp .......... Error! Bookmark not defined.
4.4.2. Chỉ số các lĩnh vực công nghiệp ....................... Error! Bookmark not defined.
4.4.3 Kiểm định mô hình Kiểm định tính chính xác của mô hình Scalar-BEKKError! Bookmar
CHƢƠNG V: KẾT LUẬN ....................................... Error! Bookmark not defined.
5.1 Những kết luận chính ............................................ Error! Bookmark not defined.
5.2 Hạn chế của đề tài ................................................. Error! Bookmark not defined.
5.3 Kiến nghị và hướng nghiên cứu tiếp theo ............. Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADF
: Kiểm định Augmented Dickey – Fuller
ADS
: Aggregate demand: đại diện cho cú sốc tổng cầu dầu
ATP
: Arbitrage pricing theory (Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá)
BEKK
: Baba, Engle, Kraft and Kroner
BP
: Công ty gas và xăng dầu quốc tế
CPI
: Consumer price index (Chỉ số giá tiêu dùng)
EVIEW
: Econometric Views (Phần mềm thống kê kinh tế lượng)
KPSS
: Kiểm định Kwiatkowski – Phillips – Schimidt- Shin
OECD
: Organization of Economic cooperation and Development (Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế)
OSS
: Oil Specific Demand Shock
SVAR
: (Structure vector autogressions) Mô hình Vector cấu trúc tự hồi quy
TTCK
: Thị trường chứng khoán
VAR
: (Vector autoregressions) Mô hình Vector tự hồi quy
VECM
: Mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số
VN-INDEX : (Việt Nam Stock Index) Chỉ số giá chứng khoán Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Tên Bảng
Trang
Tình hình tiêu thụ và nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam từ
năm 2005-2014
Tóm tắt kỳ vọng tương quan giữa các loại cú sốc giá dầu
và lợi nhuận thị trường chứng khoán Việt Nam
4
21
Bảng 3.1
Tóm tắt các biến chính sử dụng trong bài
37
Bảng 4.1
Thống kê mô tả các biến
39
Bảng 4.2
Kết quả kiểm định ADF và KPSS đối với từng biến
40
Bảng 4.3
Kết quả ước lượng các ma trận ràng buộc trong SVAR
42
Bảng 4.4
Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình VAR
43
Bảng 4.5
Bảng 4.6
Bảng 4.7
Bảng 4.8
Bảng 4.9
Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan LM Test
Statistic
Kết quả kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi - Kiểm
định White
Mối qua hệ giữa Lợi nhuận Thị trường chứng khoán và các
loại cú sốc giá dầu
Kết quả phân tích mối quan hệ giữa các cú sốc giá dầu, chỉ
số các ngành công nghiệp cụ thể và chỉ số VN30
Kết quả kiểm định Wald đối với mô hình Scalar-BEKK
45
45
48
51
55
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình vẽ
Hình 1.1
Hình 2.1
Tên hình vẽ
Đồ thị chuỗi thời gian giữa chỉ số VN-INDEX và Giá dầu
thế giới từ tháng 01/2009 – 05/2015.
Sơ đồ kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ
mô
Hình 3.1
Đồ thị chuỗi lợi suất chỉ số VN-INDEX
Hình 4.1
Kiểm tra giá trị Roots
Hình 4.2
Hình 4.3
Hình 4.4
Đồ thị phân tích phản ứng xung giữa các cú sốc giá dầu và
giá trị thực của dầu
Ước lượng các cú sốc giá dầu khác nhau từ năm 2009 đến
2015
Tương quan giữa lợi nhuận thị trường chứng khoán Việt
Nam và các cú sốc giá dầu
Trang
6
11
32
44
46
47
50
1
TÓM TẮT
Mối quan hệ giữa cú sốc giá dầu và lợi nhuận thị trường chứng khoán hiện
nay không chỉ là vấn đề đáng quan tâm tại Việt Nam mà còn ở rất nhiều quốc gia
trên thế giới. Nhằm làm rõ hơn, giá dầu ở đây cụ thể là giá dầu thô thế giới và cú
sốc giá dầu được phân tích ở nhiều thành tố khác nhau, bao gồm: cú sốc trong cung
dầu, cú sốc trong tổng cầu dầu và cú sốc cầu thị trường dầu cụ thể. Những loại cú
sốc khác nhau có các mức ảnh hưởng khác nhau đến nền kinh tế nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng. Có rất nhiều nghiên cứu nước ngoài về mức độ ảnh
hưởng của giá dầu đến thị trường chứng khoán, ví dụ ở các thị trường phát triển
như: Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản…; hay các thị trường đang phát triển như: Trung
Quốc, Pakistan....
Tuy nhiên, ở Việt Nam, câu chuyện về cú sốc giá dầu còn tương đối mới và
chỉ có một số ít các nhà nghiên cứu quan tâm. Vì vậy, tác giả đã kế thừa các nghiên
cứu trước đây về mối quan hệ giữa cú sốc giá dầu và lợi nhuận thị trường chứng
khoán để áp dụng nghiên cứu tại Việt Nam. Bằng cách tiến hành thực hiện đo lường
mối quan hệ này thông qua mô hình “Vector cấu trúc tự hồi quy” (SVAR) và mô
hình “Scalar-BEKK”, với chuỗi dữ liệu theo tháng bao gồm: giá dầu, sản lượng dầu,
chỉ số hoạt động kinh tế toàn cầu, lợi nhuận thị trường chứng khoán Việt Nam, chỉ
số VN30 và chỉ số các ngành kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
(1) Các loại cú sốc khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến lợi nhuận thị trường
chứng khoán;
(2) Các loại cú sốc khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến chỉ số lợi nhuận của các
ngành công nghiệp được lựa chọn trên thị trường chứng khoán Việt Nam;
(3) Thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy nhiều biến động trước các cú sốc
giá dầu thế giới.
Từ khóa chính: Cú sốc, giá dầu, thị trường chứng khoán, SVAR, Scalar – BEKK.
2
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG
Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu đầu vào quan trọng nhất của quá trình
sản xuất đối với một nền kinh tế hiện đại, 50% lượng dầu mỏ sẽ được dùng để sản
xuất năng lượng điện và nhiên liệu cho các phương tiện giao thông để vận chuyển
hàng hóa ra thị trường; 50% còn lại được dùng cho hóa dầu để sản xuất các chất
dẻo, dung môi, phân bón, nhựa đường, thuốc trừ sâu và nhiều loại sản phẩm khác.
Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ
thùng (theo số liệu BP Statistical Review 2015) đến 1.260 tỉ thùng (theo số liệu
Oeldorado 2009 của ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và được khai thác
ngày càng tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003.
Theo số liệu năm 2003, trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở các nước Ả Rập Saudi
(262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq (115,0 tỉ thùng), kế đến là ở Các
Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela. Nước khai thác dầu
nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu
tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt
Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991, khi sản lượng xuất
khẩu được khoảng ba triệu tấn. Sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu cao nhất
cũng vào năm 2003, đạt khoảng 20 triệu tấn/năm và giảm dần đến năm 2011 xuất
khẩu còn 8,2 triệu tấn/năm. Trong khi đó nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam năm
2011 là 10,65 triệu tấn.
Do tầm quan trọng của dầu mỏ mà biến động giá dầu có thể ảnh hưởng đến
hoạt động của nền kinh tế. Việc giá dầu tăng khiến cho tổng sản lượng tạm thời
giảm, vì các nhà đầu tư trì hoãn kinh doanh do gia tăng sự không chắc chắn về giá
dầu (Guo, Hui và Kliesen, 2005). Giá dầu tăng cao dẫn đến giá cả các hàng hóa
khác tăng theo gây ra tình trạng lạm phát. Do đó, người tiêu dùng sẽ có nhiều hạn
chế trong chi tiêu của họ và có thể làm giảm nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ.
Điều này lại có thể gây ra sự suy giảm lợi nhuận của công ty và thu nhập của người
tiêu dùng. Do đó đồng nghĩa với việc giá cổ phiếu của những công ty này sẽ có sự
3
thay đổi lớn. Chính thực tế nêu trên có thể gửi tín hiệu lạm phát đến nhà hoạch định
chính sách và các ngân hàng trung ương, nhờ đó có thể đưa ra các tác động đến giá
dầu nhằm phản ứng lại với tình hình. Để kiềm chế lạm phát ngân hàng trung ương
buộc phải hi sinh tăng trưởng kinh tế, đầu tư thay vào đó áp dụng các chính sách
tiền tệ thắt chặt. Hầu hết các nghiên cứu trước đây liên quan đến những cú sốc giá
dầu đối với hoạt động kinh tế đều được thực hiện tại các nước có nền kinh tế phát
triển đặc biệt là Mỹ, Châu Âu... Những nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của
biến động giá dầu đối với kinh tế của các nước đang phát triển là khá ít ỏi. Nguyên
nhân một phần là do thiếu các dữ liệu đáng tin cậy và một phần khác là do việc ít
phụ thuộc vào dầu mỏ trong lịch sử của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, từ khi
nhu cầu về năng lượng của các quốc gia này ngày càng tăng lên, những công trình
nghiên cứu các ảnh hưởng của biến động giá dầu lên nền kinh tế tại các nước như
Maylaysia, Thái Lan, Indonesia... cũng đã được thực hiện.
Nguyên nhân chính của việc thực hiện nghiên cứu này là vì vai trò của dầu
mỏ đối với nền kinh tế Việt Nam không chỉ thể hiện ở các ứng dụng của nó mà còn
trên nhiều phương diện khác. Dầu mỏ và các chế phẩm từ dầu mỏ đã đưa kinh tế
Việt Nam vượt qua thời kỳ nông nghiệp lạc hậu trở thành nước đang phát triển với
tốc độ tăng trưởng trung bình trên 7%/năm, dầu thô xuất khẩu đóng góp từ 26% đến
30% ngân sách nhà nước, 18% đến 22% vào GDP, xuất khẩu dầu thô chiếm bình
quân khoảng 16% tổng giá trị xuất khẩu mỗi năm. Tuy Việt Nam là nước xuất khẩu
dầu thô nhưng phần lớn lượng xăng dầu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong
nước hiện nay đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, cụ thể là nhập khẩu từ Singapo và
trong tương lai gần vẫn sẽ phải tiếp tục việc nhập khẩu này. Do đó giá cả trong
nước chịu ảnh hưởng rất lớn của biến động giá trên thị trường thế giới và vai trò của
dầu mỏ càng trở nên quan trọng hơn nữa trước định hướng trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020 của Việt Nam.
4
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ dầu mỏ ngày càng tăng, không chỉ trong
ngắn hạn mà cả trong dài hạn do sự bùng nổ dân số. Bên cạnh đó, các ngành công
nghiệp tiếp tục phát triển, đặc biệt là sự tăng tốc của ngành giao thông do nhu cầu đi
lại tăng cao… Là nước xuất khẩu dầu thô, nhập khẩu dầu tinh chế để phục vụ hoạt
động, trước năm 2009 Việt Nam nhập khẩu 100% lượng xăng dầu cho nhu cầu tiêu
dụng nội địa. Năm 2009, một số nhà máy lọc dầu được xây dựng và đã đi vào hoạt
động như nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn. Chính điều này
góp phần giảm lượng xăng dầu nhập khẩu. Tuy nhiên, do sự thiếu ổn định các các
nhà máy này nên chỉ mới tạm cung cấp được khoảng 20-30% nhu cầu thị trường.
Để đáp ứng phần còn lại, Việt Nam vẫn phải nhập mức từ 70-80%. Do đó, có thể
thấy rằng giá xăng dầu nội địa phụ thuộc rất lớn vào thị trường dầu thế giới.
Bảng 1.1 Tình hình tiêu thụ và nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam từ năm 2005
đến năm 2014
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012 2013 2014
258
254
283
300
304
329
358
361
367
384
12.2
12
13.3
14.1
14.1
15.1
16.5
16.6
17.1
17.2
250
254
258
296.4 291.8 236.7
227
232
230
198
11.3
11
10.67
9.2
9.11
8.6
Khối lượng
tiêu dùng
(ngàn
thùng/ngày)
Khối lượng
tiêu dùng
(triệu tấn)
Khối lượng
nhập
khẩu(ngàn
thùng/ngày
Khối lượng
nhập khẩu
(triệu tấn)
12.55 12.85
13
9.85
5
% Khối
lượng nhập
khẩu so với
97% 100%
91%
99%
96%
72%
63%
64% 63% 52%
khối lượng
tiêu dùng
Nguồn: Tổng Cục thống kê Việt Nam, Cơ quan năng lượng Hoa Kỳ (US Energy
Information Administration)
Như vậy, dựa vào Bảng 1.1, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất
nhiều vào việc nhập khẩu dầu. Biến động giá dầu là chủ đề quan trọng cần quan tâm
vì dầu là yếu tố đầu vào cần thiết cho hầu hết các sản phẩm và dịch vụ (như ngành
vận tải). Trong khi hầu hết các công ty không tiêu thụ dầu thô, họ chỉ tiêu thụ xăng,
dầu đốt nóng và nhiên liệu phản lực, mà tất cả sản phẩm này đều làm từ dầu thô.
Mặt khác, thị trường chứng khoán Việt Nam đã xuất hiện từ năm 2000 và
đang trong giai đoạn phát triển. Số liệu thống kê của công ty cổ phần chứng khoán
Sài Gòn - Hà Nội, chỉ số VN-INDEX, năm 2014 tăng trưởng đến 20.62% so với
năm 2013. Đặc biệt, năm 2014, thị trường chứng khoán (TTCK) đã trải qua khá
nhiều phiên trượt giảm mạnh, do sự ảnh hưởng của hai sự kiện lớn, Biển Đông và
giá dầu thô. Gần đây hơn, theo thông tin đăng tải trên các báo điện tử như
vnexpress.vn, cafef.vn…, chỉ số VN-INDEX mất 30 điểm vào ngày 24/08/2015, kể
từ khi giá dầu thế giới không ngừng lao dốc và đã xuyên thủng ngưỡng 40
USD/thùng vào đầu giờ sáng 24/8/2015, trên thị trường châu Á. Có thể thấy, tại thời
điểm quý III của năm 2015, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đón nhận nhiều
tin xấu đến từ cả trong và ngoài nước như: sự bất ổn tại Trung Quốc; đồng nhân dân
tệ giảm giá; giá dầu không ngừng lao dốc; nỗi lo tỷ giá; tâm lý bầy đàn…
Vì vậy, mối quan hệ giữa giá dầu (thế giới) và lợi nhuận thị trường chứng
khoán Việt Nam là một đề tài rất được quan tâm. Hiện tại, theo Hình 1.1 bên dưới,
chúng ta dễ thấy hướng chuyển động giữa chỉ số VN-INDEX và giá dầu thế giới là
6
cùng chiều. Tuy nhiên, sự biến động của giá dầu thế giới có ảnh hưởng đến thị
trường chứng khoán Việt Nam hay không thì cần được chứng minh qua các phân
tích thực nghiệm.
Hình 1.1. Diễn biến giá dầu thế giới và chỉ số VN-INDEX
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước Việt
Nam, Cơ quan quản lý thông tin về năng lượng thế giới)
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Liên Hoa (2012), chỉ ra cho thấy, tồn tại
mối quan hệ cùng chiều giữa sản lượng công nghiệp Việt Nam và giá dầu, tuy nhiên
sự tác động động của giá dầu đến sản lượng sản xuất công nghiệp tương đối nhỏ.
Tương tự, nghiên cứu của Bùi Văn Vinh (2011), cho thấy trong ngắn hạn giá
dầu thế giới được coi là nguyên nhân giải thích cho sự biến động giá cả chứng
khoán Việt Nam. Nghiên cứu của Đỗ Ngọc Anh (2011), chứng minh giữa giá dầu
thô và chỉ số VN-INDEX có mối tương quan trong dài hạn nhưng khá yếu, chỉ
khoảng 0.05. Hay, nghiên cứu của Trần Thị Minh Phương (2013), cũng cho thấy
các cú sốc trong giá chứng khoán bị tác động chủ yếu bởi các giá trị quá khứ của nó
hơn là tác động của giá dầu, tỷ giá hối đoái hay lãi suất.
7
Các bài nghiên cứu đối với Việt Nam chỉ đơn thuần nghiên cứu mối tương
quan giữa thay đổi trong giá dầu (thế giới) và lợi nhuận thị trường chứng khoán
Việt Nam một cách tổng quan nhất. Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Phương
Thảo (2013) tìm thấy giá dầu thế giới có tương quan cùng chiều với thị trường
chứng khoán, khi giá dầu tăng 1 USD/thùng thì chỉ số VN-INDEX tăng 4,423 điểm.
Các tác giả chưa phân tích sự tác động của từng loại cú sốc giá dầu khác nhau, lên
lợi nhuận thị trường chứng khoán Việt Nam. Thêm vào đó, các tác giả cũng chưa
phân tích tương quan giữa giá dầu và lợi nhuận thị trường chứng khoán Việt Nam
trong điều kiện chuỗi dữ liệu có phương sai thay đổi theo thời gian.
Lê Thị Minh Hương (2013) trong nghiên cứu “Ảnh hưởng của biến động giá
dầu lên các quyết định đầu tư chiến lược Công ty” đã sử dụng dữ liệu biến động giá
dầu thô thế giới làm biến nghiên cứu trong mô hình đầu tư công ty ở Việt Nam
nhằm mục đích cho thấy sự gắn kết giữa biến động giá dầu thô thế giới và giá xăng
ở Việt Nam như thế nào.
Dữ liệu :
+ Giá xăng A92 ở Việt Nam. Nguồn : xangdau.net
+ Giá dầu thô thế giới. Nguồn: EIA – Cơ quan Thông tin Năng lượng của Mỹ.
+ Thời gian: Năm 2005 đến năm 2012, 8 năm
+ Lấy giá đóng cửa hàng ngày và tính biến động giá dầu (%) theo quý, công thức
tính biến động theo Sadorsky (2008) cho ra kết quả như sau:
Biến động Giá xăng VN = -5.75 + 0.77 x Biến động giá dầu thế giới + Sai số
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Minh Hương (2013), mức biến
động giá xăng Việt Nam trung bình khoảng 8%/quý và biến động giá dầu thế giới
khoảng 17,81%/quý, hai mức cao nhất của hai biến đều rơi vào năm 2008, khi cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra. Kết quả cho thấy nếu giá dầu thế giới biến
động tăng 1% thì giá xăng Việt Nam biến động tăng 0.77%, với mức ý nghĩa 5% và
biến động giá xăng Việt Nam biến động cùng chiều với biến động giá dầu thế giới.
8
Nhìn lại năm 2014 và nửa đầu năm 2015, thị trường chứng khoán (TTCK) đã
trải qua khá nhiều phiên trượt giảm mạnh, do sự ảnh hưởng của hai sự kiện lớn là
Xung đột trên biển Đông và giá xăng dầu có sự điều chỉnh. Có thể thấy thị trường
chứng khoán Việt Nam đã đón nhận nhiều tin xấu đến từ cả trong và ngoài nước
như: sự bất ổn tại Trung Quốc, đồng nhân dân tệ giảm giá, giá dầu xuyên thủng
không ngừng lao dốc, nỗi lo tỷ giá, tâm lý bầy đàn …
Mặt khác, khi nghiên cứu tại thị trường Việt Nam, phương pháp được các tác
giả khác sử dụng khá giống nhau, như là mô hình VAR, mô hình ECM, mô hình
VECM, mô hình đồng liên kết, phương pháp Johansen, phương pháp phân rã
phương sai, phương pháp kiểm định nhân quả Granger, để kiểm định mối quan hệ
giữa giá dầu, nền kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán. Cú sốc giá dầu được các
tác giả phân tích thể hiện thông qua sự thay đổi của giá dầu thế giới và chưa có sự
phân tích sâu về các cú sốc khác nhau tồn tại trong giá dầu. Theo Kilian (2009)
chứng minh, cú sốc giá dầu sẽ được chia thành ba loại: oil supply shocks, aggregate
demand shocks và oil- specific demand shocks. Cũng theo thảo luận về kênh truyền
dẫn của giá dầu đến nền kinh tế (sẽ được thảo luận ở phần 2.1 của đề tài này), các
kênh truyền dẫn chính của cú sốc giá dầu bao gồm: cú sốc nguồn cung dầu và tổng
cầu, hiệu ứng số dư tiền thực, lạm phát. Vì vậy, cú sốc giá dầu nên phân tách thành
các cú sốc khác nhau, khi phân tích ảnh hưởng của cú sốc giá dầu thị trường chứng
khoán.
Ngoài ra, trên thực tế, khi phân tích dữ liệu chuỗi thời gian, hiện tượng
phương sai thay đổi là vấn đề đáng lưu ý theo quan điểm của Filis. G (2014). Do
vậy, khi phân tích ảnh hưởng của cú sốc giá dầu lên nền kinh tế vĩ mô và thị trường
chứng khoán cũng nên quan tâm đến điều kiện phương sai thay đổi. Vấn đề này,
chưa được các tác giả tại Việt Nam đề cập đến.
9
Vì vậy, bằng việc kế thừa kết quả nghiên cứu về sự tác động của giá dầu lên
lợi nhuận thị trường chứng khoán và dựa trên nền tảng bài nghiên cứu “Cú sốc giá
dầu và lợi nhuận thị trường chứng khoán: Bằng chứng mới ở Mỹ và Trung Quốc”
của Filis, G. (2014), tác giả tiến hành thực hiện nghiên cứu này, với mong muốn đo
lường tác động của từng loại cú sốc giá dầu lên lợi nhuận thị trường chứng khoán và
góp phần bổ sung tài liệu nghiên cứu thực nghiệm cho vấn đề này ở một nước đang
phát triển như Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng các mô hình kinh tế lượng VAR, SVAR, Scalar-BEKK
để ước lượng tương quan giữa cú sốc gía dầu và chỉ số lợi nhuận thị trường chứng
khoán. Nghiên cứu tập trung vào việc đi tìm câu trả lời cho những vấn đề sau:
(1) Có tồn tại mối quan hệ thay đổi theo thời gian giữa giá dầu và lợi nhuận thị
trường chứng khoán Việt Nam hay không?
(2) Sự tác động của các loại cú sốc giá dầu khác nhau lên lợi nhuận thị trường
chứng khoán Việt Nam, trong điều kiện phương sai thay đổi là như thế nào?
(3) Thị trường chứng khoán Việt Nam có biến động lớn trước các cú sốc giá dầu
hay không?
Phần còn lại của luận văn được tổ chức như sau:
Phần 2: Giới thiệu tổng quan về các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm
trước đây.
Phần 3: Thảo luận về kiểm định tính dừng, mô hình VAR, SVAR, ScalarBekk. Đồng thời, phần này cũng trình bày đặc tính của các chuỗi dữ liệu
được sử dụng trong nghiên cứu này.
Phần 4: Trình bày và thảo luận kết quả thực nghiệm.
Phần 5: Kết luận
10
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY
Dầu, vốn, lao động và vật liệu sản xuất đại diện cho những thành phần quan
trọng của quá trình sản xuất đối với hầu hết các hàng hóa và dịch vụ. Và những thay
đổi trong giá các yếu tố đầu vào này sẽ ảnh hưởng đến dòng tiền mặt (Basher và
Sadorsky, 2006). Khi giá dầu thay đổi sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới việc
tăng chi phí của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Sự tác động này ở từng quốc gia,
từng doanh nghiệp với những đặc điểm khác nhau sẽ gây nên ảnh hưởng khác nhau.
Nhưng nhìn chung khi giá dầu tăng nền kinh tế sẽ kỳ vọng lạm phát gia tăng do chi
phí đầu vào của doanh nghiệp tăng, đồng thời khả năng mở rộng sản xuất của doanh
nghiệp bị thu hẹp. Theo thời gian nếu giá dầu tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tốc độ
tăng trưởng và giá trị của các doanh nghiệp, hay nói cách khác là giá trị của toàn bộ
từng ngành công nghiệp. Vì vậy, giá dầu tăng sẽ làm giảm dòng tiền mặt và giảm
giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp.
2.1 Lý thuyết nền mối quan hệ giữa giá dầu và thị trƣờng chứng khoán:
2.1.1 Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá (APT)
Vào năm 1976, nhà kinh tế học Stephen Ross đã đề xuất Lý thuyết kinh
doanh chênh lệch giá (APT) để xác định giá cả tài sản. APT phát biểu rằng tỷ suất
sinh lợi kỳ vọng của tài sản tài chính có thể được đo lường thông qua các yếu tố
kinh tế vĩ mô khác nhau hoặc là yếu tố thị trường. Vì vậy, theo APT, tỷ suất sinh lợi
của chứng khoán (lợi nhuận của chứng khoán) là một hàm số tuyến tính của tập hợp
các yếu tố kinh tế tác động đến tất cả các chứng khoán.
Stephen Ross (1976) đã triển khai mô hình APT như sau:
R=
Trong đó:
+ F1+
F2+…+
Fn +
(*)
R: tỷ suất sinh lợi của chứng khoán (lợi nhuận của chứng khoán)
: tỷ suất sinh lợi mong đợi của chứng khoán
Fn: nhân tố vĩ mô thứ n của nền kinh tế
: đặc trưng của từng chứng khoán riêng biệt
11
Các yếu tố F được sử dụng trong mô hình (*) có thể là: lạm phát, GDP, thay
đổi trong lãi suất, rủi ro chính trị, giá dầu, khu vực mậu dịch, tỷ giá hối đoái…
Như vậy theo APT, cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ mô, giá
dầu và tỷ suất sinh lợi của chứng khoán. Trong nghiên cứu thực nghiệm, Jones và
Kaul (1996), đã sử dụng mô hình APT và cho thấy tác động của giá dầu đến thị
trường chứng khoán. Tương quan xảy ra do giá dầu biến động làm ảnh hưởng đến
dòng tiền thực và giá dầu là một yếu tố rủi ro đối với thị trường chứng khoán.
2.1.2 Kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Liên Hoa (2012), dựa trên nghiên
cứu của Brown và Yucel (2002) và Tang và cộng sự (2010) đã đề cập đến kênh
truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô, theo đó, việc thay đổi của nền
kinh tế vĩ mô sẽ được phản ánh rõ nét vào thị trường chứng khoán, bởi một lẽ đơn
giản, thị trường chứng khoán chính là kim chỉ báo những gì đang xảy ra đối với sức
khỏe của một nền kinh tế.
Hình 2.1 Sơ đồ kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Liên Hoa (2012)).
12
Theo Nguyễn Thị Liên Hoa (2012), Kilian (2009) và Filis. G (2014), sơ đồ
2.1 sẽ giải thích của sự thay đổi giá dầu lên các nền kinh tế và thị trường chứng
khoán thông qua các kênh truyền dẫn chính như sau:
• Cú sốc cung dầu: Sự tăng giá dầu có thể thể được xem là một chỉ báo từ
một cú sốc trong tổng nguồn cung dầu. Sự tăng giá chính là báo hiệu sự khan hiếm
của nguồn năng lượng vốn được xem là nguyên liệu đầu vào cơ bản của sản xuất.
Do đó, tốc độ tăng trưởng sản lượng và năng suất của các ngành công nghiệp sẽ sụt
giảm. Điều này dẫn đến giảm mức tăng lương thực và tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Nhƣ vậy, dựa trên quan điểm này, cùng với kết luận của Kilian (2009) và
Filis. G (2014), có cơ sở để tin rằng trong cú sốc giá dầu sẽ bắt nguồn từ cú sốc
cung dầu (oil supply shocks). Và khi giá dầu thay đổi sẽ ảnh hưởng đến nền thị
trường chứng khoán.
• Áp lực lạm phát: giá dầu tăng sẽ tạo áp lực tăng lạm phát trong nền kinh
tế. Có thể giải thích điều này thông qua lý thuyết lạm phát do chi phí đẩy. Theo lý
thuyết lạm phát do chi phí đẩy, ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương,
thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu.
Dầu được xem là nguyên liệu nhập khẩu đầu vào của mọi ngành sản xuất
kinh doanh. Khi giá dầu tăng, kỳ vọng lạm phát sẽ tăng, do chi phí đầu vào doanh
nghiệp tăng. Tiếp theo đó khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
bị thu hẹp do chi phí đầu vào tăng. Theo thời gian, nếu giá dầu tiếp tục tăng cao sẽ
làm giảm tốc độ tăng trưởng và các giá trị doanh nghiệp. Dựa theo mô hình Gordon
được trình bày trong Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Trần Ngọc Thơ (2007-Trang
44), khi tốc độ tăng trưởng và các giá trị doanh nghiệp giảm thì giá cổ phiếu cũng
giảm theo. Giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp sụt giảm làm giảm lợi nhuận thực và
kỳ vọng ( ) của nhà đầu tư đối với chứng khoán và thị trường chứng khoán có xu
hướng sụt giảm lợi nhuận tổng thể (theo lý thuyết APT). Như vậy, khi lạm phát tăng
xuất phát từ cú sốc tăng giá của dầu thì chi phí sản xuất tăng, làm lợi nhuận giảm và
đầu tư cũng giảm theo.
13
Nhƣ vậy, giá giá dầu tăng sẽ làm giảm tăng trưởng GDP, làm tăng lãi suất
thực và nguy cơ tăng lạm phát. Nếu người dân và các nhà sản xuất nhìn thấy lạm
phát có xu hướng tăng sẽ phát sinh nhu cầu phòng ngừa rủi ro lạm phát, bằng cách
cắt giảm nhu cầu dầu mỏ trong dài hạn. Và tiếp đến, các nhà sản xuất sẽ điều chỉnh
sản lượng cung dầu. Khi cung dầu và cầu dầu thay đổi thì giá dầu sẽ thay đổi theo
(Lý thuyết cung cầu hàng hóa). Đây cũng có thể chính là cú sốc phòng ngừa (oil
specific demand shocks), theo như quan điểm của Kilian (2009).
• Kết luận: Dựa trên các kênh truyền dẫn được trình bày bên trên có thể thấy
sự thay đổi trong giá dầu có thể do những cú sốc khác nhau trong giá dầu quyết
định. Và, cũng có thể kết luận, dầu là nguồn nguyên liệu đầu vào đối với nền kinh
tế. Giá dầu sẽ góp phần trong việc quyết định chi phí sản xuất của nền công nghiệp,
và cũng nằm trong yếu tố cấu thành nên giá trị của sản phẩm đầu ra. Jones và Kaul
(1996) chỉ ra, khi giá dầu cao hơn thì đồng nghĩa với việc nhiên liệu đắt đỏ hơn, có
thể tạo nên chi phí cao hơn trong vận chuyển, cũng như giá cả lạm phát của hàng
hóa và dịch vụ, có thể lần lượt mang đến các lo ngại về lạm phát. Do đó, người tiêu
dùng sẽ có nhiều hạn chế trong chi tiêu của họ và có thể làm giảm nhu cầu đối với
hàng hóa và dịch vụ. Điều này lại có thể gây ra sự suy giảm lợi nhuận của công ty
và thu nhập khi cắt giảm sản lượng sản xuất. Từ đó, giá trị cổ phiếu của các công ty
sẽ bị ảnh hưởng và tạo ra thay đổi trên thị trường chứng khoán.
2.2 Các nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau trên thế giới:
Trong nhiều nghiên cứu gần đây đã xem xét các hành vi của thay đổi giá dầu
và lợi nhuận thị trường chứng khoán, qua đó cho thấy một mối quan hệ trực tiếp thú
vị giữa chúng với nhau. Từ những năm 1980, các nghiên cứu tiên phong về giá dầu
và thị trường chứng khoán đã xuất hiện và chứng minh được rằng giá dầu và thị
trường chứng khoán có tương quan với nhau. Chẳng hạn như nghiên cứu của Darby
(1982), Hamilton (1983), Burbridge và Harrison (1984), Gisser và Goodwin (1986)
hay Jones và Kaul (1996). Về mặt lý thuyết, biến động của giá dầu sẽ tác động đến
14
giá trị cổ phiếu. Mô hình định giá cổ phiếu hay mô hình chiết khấu cổ tức chỉ ra
rằng giá trị cổ phiếu bằng tổng chiết khấu dòng tiền mặt tương lai được kỳ vọng.
Tương tự, Basher và Sadorky (2006), cũng đã lập luận: Dầu, vốn, lao động
và vật liệu sản xuất đại diện cho những thành phần quan trọng trong quá trình sản
xuất cho hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, khi những thành phần này thay đổi sẽ ảnh
hưởng đến dòng tiền mặt của công ty (theo mô hình chiết khấu dòng tiền). Giá dầu
cũng là một trong những yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
Narayan K.Paresh and Narayan Seema (2010) kiểm định mối quan hệ giữa
giá dầu thế giới, tỷ giá hối đoái và TTCK Việt Nam bằng dữ liệu hàng ngày từ năm
2000 đến năm 2008. Kết quả cho thấy trong ngắn hạn giá dầu chỉ có ảnh hưởng khá
nhỏ đến chỉ số giá chứng khoán Việt Nam. Bằng kiểm định đồng liên kết, tác giả
cho thấy giá dầu và giá chứng khoán có mối quan hệ trong dài hạn và giá dầu ảnh
hưởng cùng chiều đến giá chứng khoán.
Greene, Jones và Leiby (1998) đánh giá tác động của các nhóm kinh tế như
OPEC lên kinh tế Mỹ. Các tác giả đã phát hiện ra ba sự mất mát chính rõ ràng và
được thêm vào trong nền kinh tế do sự tăng giá dầu: sự mất mát về tiềm lực sản
xuất, mất mát trong việc điều chỉnh hoạt động kinh tế vĩ mô và chuyển đổi sự giàu
có từ người tiêu dùng dầu của Mỹ sang các nước xuất khẩu dầu.
Nghiên cứu của Donoso (2009) đã so sánh mức độ ảnh hưởng của những
biến động trong giá dầu đến thị trường chứng khoán và sản xuất công nghiệp của ba
quốc gia là Mỹ, Anh và Nhật Bản. Nền kinh tế Mỹ đã được chứng minh là nhạy
cảm nhất trong ba nền kinh tế với sự thay đổi của giá dầu. Nền kinh tế Mỹ cũng là
nền kinh tế duy nhất mà thị trường chứng khoán cũng như sản xuất công nghiệp đã
tăng đáng kể trong thập niên 90, trong khi đó Anh đã có một thị trường chứng
khoán tăng nhưng ngành công nghiệp lại thể hiện một sự suy giảm so với năm 2000
15
và Nhật Bản đã có một sự phục hồi trong sản xuất công nghiệp sau cuộc khủng
hoảng năm 2001, nhưng thị trường chứng khoán thì vẫn gặp khó khăn trong việc đạt
được mức điểm như trước khi bong bóng kinh tế bùng nổ. Hơn nữa nghiên cứu này
cũng cho thấy những tác động bất cân xứng của giá dầu lên thị trường chứng khoán
và sản xuất công nghiệp của Mỹ, Anh và Nhật Bản. Các ngành công nghiệp của Mỹ
bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi cú sốc dầu mỏ tăng so với từ cú sốc dầu mỏ giảm, trong
khi ảnh hưởng của cú sốc dầu mỏ tăng vào thị trường chứng khoán Mỹ là ít hơn so
với ảnh hưởng của những cú sốc dầu giảm. Đồng thời, nền kinh tế Anh luôn luôn bị
ảnh hưởng bởi những cú sốc dầu giảm, trong cả hai thị trường chứng khoán và
ngành.
Huang và cộng sự (1996), quan sát thấy rằng lợi nhuận từ dầu không có mối
quan hệ tương quan với lợi nhuận cổ phiếu, ngoại trừ các công ty sản xuất dầu.
Jones và Kaul (1996) chứng minh rằng giá chứng khoán và giá dầu tại thị trường
Mỹ và Canada có tương quan, với ngoại lệ của Vương quốc Anh. Thêm một nghiên
cứu thú vị khác, Faff và Brailsford (1999) cho thấy sự biến động giá dầu có tác
động bất đối xứng với chứng khoán.
Rất nhiều những tác giả có nhiều đóng góp trong lĩnh vực này có thể liệt kê
như: Hammoudeh và cộng sự (2004), El-Sharif và cộng sự (2005), Anorou và
Mustafa (2007), và Park và Ratti (2008). Các nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ các
nền kinh tế phát triển như Canada, Châu Âu, Mỹ và Anh. Cụ thể, Park và Ratti
(2008) nhìn vào tác động của các cú sốc xảy ra trong giá dầu trên lợi nhuận chứng
khoán tại Mỹ và 13 nước Châu Âu khác, sử dụng mô hình VAR và các dữ liệu giữa
các năm 1986 và 2005. Họ nhận thấy rằng các cú sốc giá dầu đã có một tác động
mạnh đến lợi nhuận cổ phiếu với ngoại lệ của Hoa Kỳ.
Gần đây, Papapetrou (2001) đã nghiên cứu mối quan hệ này đối với thị
trường chứng khoán Hy Lạp với phương pháp Vector đa biến tự hồi quy (VAR) để
16
kiểm tra sự biến động trong mối quan hệ giữa giá dầu, lợi nhuận chứng khoán thực
tế và lãi suất, trong mối quan hệ với hoạt động kinh tế thực sự và việc làm cho Hy
Lạp. Tác giả đã quan sát thấy rằng những thay đổi trong giá dầu ảnh hưởng đến hoạt
động kinh tế thực tế, việc làm và biến động lợi nhuận chứng khoán.
Trong khi các nước vùng Vịnh là đối tượng được xem xét trong các nghiên
cứu của Hammoudeh và Eleisa (2004) sử dụng kiểm định VAR, và tỷ lệ khả năng
dựa trên mô hình Schwarz (SIC) và Akaike (AIC) để xem xét về mối quan hệ giữa
thị trường chứng khoán và giá dầu cho các nước thành viên Hội đồng Hợp tác vùng
Vịnh (GCC) (không bao gồm Qatar). Họ phát hiện ra rằng chỉ có các chỉ số thị
trường chứng khoán Ả Rập có thể được dự đoán dựa trên giá dầu sàn New York
Mercantile. Vì vậy, thị trường chứng khoán Ả Rập phụ thuộc rất nhiều vào giá dầu.
Saudi Arabia là thành viên lớn nhất của GCC và có thể có một số loại tác động lan
truyền đối với phần còn lại của các nước vùng vịnh nhỏ khác.
Kilian (2009), đã phân tách cú sốc giá dầu thành nhiều loại khác nhau, đó là:
cú sốc cung dầu (oil supply shock), cú sốc tổng cầu dầu (Aggregate Demand
shock); và cú sốc giá dầu thị trường cụ thể (Oil-market Specific Demand shock).
Kilian (2009) sử dụng phương pháp vector tự hồi quy (VAR) với ba biến, nguồn
cung dầu, giá thực tế của dầu và một biến trung gian đại diện cho nhu cầu toàn cầu
đối với các mặt hàng công nghiệp, với tác dụng đo lường hoạt động kinh tế toàn cầu
thực sự. Ông xác định, dựa trên một cấu trúc đệ quy, ba cú sốc dầu mỏ bao gồm:
một cú sốc từ nguồn cung cấp dầu, một cú sốc dầu thị trường cụ thể và một cú sốc
dầu tổng cầu toàn cầu. Kilian đã chỉ ra: sự gia tăng trong nhu cầu phòng ngừa đối
với dầu thô sẽ dẫn đến sự tăng mạnh và ngay lập tức trong giá dầu thực tế, còn sự
gia tăng trong nhu cầu dầu cho các ngành công nghiệp sẽ khiến giá dầu thay đổi
chậm hơn, và cuối cùng việc gián đoạn sản xuất dầu, sẽ gây ra việc tăng giá ít nhất
trong ba loại cú sốc.
17
Sau đó, Filis,G. và David C. Broadstock (2014) đã kế thừa nghiên cứu của
Killian (2009) và thực hiện phân tích mối quan hệ giữa giá dầu và thị trường chứng
khoán trong một môi trường biến đổi theo thời gian. Các tác giả, đã phân tích sự
biến đổi theo thời gian, của ba loại cú sốc trong giá dầu, bao gồm cú sốc cung dầu
(oil supply shock), cú sốc tổng cầu dầu (aggregate demand shock); và những cú sốc
dầu thì trường cụ thể (oil-market specific demand shock) với thị trường chứng
khoán của Mỹ và Trung Quốc. Nghiên cứu của tác giả, là sự kết hợp giữa việc phân
tích cú sốc giá dầu (thông qua mô hình SVAR) và phân tích mối quan hệ biến đổi
theo thời gian giữa cú sốc giá dầu và thị trường chứng khoán trong điều kiện
phương sai thay đổi (thể hiện trong mô hình Scarlar - BEKK).
Những kết luận chính của tác giả bao gồm: tương quan giữa các cú sốc giá
dầu và lợi nhuận cổ phiếu là rõ ràng và biến đổi theo thời gian (tức qua thời gian
khác nhau, mối quan hệ giữa chúng sẽ thay đổi theo); những cú sốc dầu của các loại
khác nhau cho thấy sự thay đổi đáng kể trong tác động của chúng lợi nhuận thị
trường chứng khoán; đối với từng ngành công nghiệp cụ thể, cú sốc giá dầu sẽ có
tác động khác nhau; và cuối cùng thị trường chứng khoán Trung Quốc, dường như
vững vàng hơn thị trường chứng khoán Mỹ, khi chịu ảnh hưởng từ các cú sốc giá
dầu.
Hầu hết các nghiên cứu trên được sử dụng các kỹ thuật kinh tế lượng hiện có
để thiết lập một số loại mối quan hệ rõ ràng giữa hai biến mục tiêu chính. Các công
trình nghiên cứu tập trung vào sự phụ thuộc giữa các thay đổi về giá dầu và các chỉ
số thị trường chứng khoán. Sự phụ thuộc sẽ giúp quyết định liệu hai biến chuyển
với nhau trong cùng một hướng hoặc ngược lại hay không. Trong các nghiên cứu
được đề cập ở trên, Cuong C. và M. Ishaq Bhatti (2012) sử dụng hai phương pháp
tương đối mới, cụ thể là Chi-Plots, Kendall (K) K-Plots và 3 trình Copula khác
nhau. Họ sử dụng giá dầu và dữ liệu chỉ số chứng khoán của Trung Quốc và Việt
Nam để nghiên cứu cấu trúc phụ thuộc của các phân phối của giá dầu và chứng