Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Kỹ năng của luật sư khi chuẩn bị luận cứ bảo vệ cho người bị hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.7 KB, 11 trang )

Đề tài: Kỹ năng của luật sư khi chuẩn bị luận cứ bảo vệ cho người bị hại.
Người thực hiện: Phạm Thành Công
Bài làm:
Trước khi ra phiên tòa xét xử, nếu Viện kiểm sát phải chuẩn bị cáo
trạng, Hội đồng xét xử phải chuẩn bị quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Luật
sư phải chuẩn bị bài luận cứ bào chữa hay bản bảo vệ, nó được coi như “ vũ
khí ” pháp lý để luật sư cùng thân chủ vượt qua cuộc “ tranh đấu ” với các cơ
quan tiến hành tố tụng và các bên đối tụng.
Thông thường, Bản luận cứ, bài bảo vệ của Luật sư được chuẩn bị
theo hình thức một bài nghị luận, trong đó Luật sư đưa ra quan điểm của
mình đối với việc giải quyết vụ án trên cơ sở phân tích, tổng hợp, đánh giá
chứng cứ một cách toàn diện, đầy đủ, chặt chẽ và được trình bày một cách
lôgic, khoa học.
Đối với luật sư thì bản luận cứ bào chữa hay luận cứ bảo vệ chính là
tiếng nói chính thức của luật sư tại phiên toà, thể hiện trình độ, khả năng
tranh tụng, bản lĩnh nghề nghiệp và văn hoá ứng xử của luật sư, thể hiện
kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội để luật sư thể hiện tranh tụng tại phiên
toà; đây cũng chính là chỗ dựa vững chắc về mặt tâm lý cho thân chủ, giúp
thân chủ tin tưởng vào sự công bằng của pháp luật, đồng thời cũng thể hiện
được chất lượng và khả năng của luật sư khi tham gia bào chữa, bảo vệ cho
thân chủ thể hiện ở bản luận cứ đầy súc tích, cô đọng, lập luận chặt chẽ,
thuyết phục người nghe.
Bài luận cứ là kết quả làm việc của một quá trình lao động vất vả, là
đúc kết của toàn bộ các công việc mà Luật sư đã làm trước khi ra phiên tòa
xét xử. Vì vậy, nên kỹ năng của luật sư khi chuẩn bị bản luận cứ là vô cùng
quan trọng. Nhận thức được vấn đề đó, tôi đã lựa chọn và xin trình bày


những nghiên cứu của mình về vấn đề : Kỹ năng của luật sư khi chuẩn bị
luận cứ bảo vệ cho người bị hại.
I. Một số vấn đề lý luận về người bị hại và bài bảo vệ cho người bị hại


1. Người bị hại trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”
Có thể hiểu, người bị hại chính là là những nạn nhân của hành vi
phạm tội của bị cáo, là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án,
là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra trong vụ án.
Trong một vụ án hình sự, những thiệt hại được xác định bao gồm:
-Về mặt thể chất: có nghĩa rằng họ có thể đã bị mất đi mạng sống của
mình, tổn thương sức khỏe do bị thương tật một cách tạm thời hay vĩnh viễn;
-Về mặt tinh thần: có nghĩa rằng họ đã có sự tổn thất về danh dự, uy
tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân;
-Về tài sản: có nghĩa rằng họ đã bị chiếm đoạt, bị mất mác, các vật có
giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất
khác.
Theo đó, pháp luật quy định, người bị hại được quyền đề nghị mức
bồi thường đối với thiệt hại về tài sản, về thể chất và về mặt tinh thần, mà họ
đã bị thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Theo quy định của pháp luật, thì người bị hại tham dự phiên tòa, trình
bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Nếu thấy cần thiết, người bị hại có quyền nhờ luật sư để bảo vệ quyền
lợi của mình tại phiên tòa. Việc bảo vệ quyền lợi của người bị hại trong vụ
án hình sự là một nhiệm vụ không dễ dàng và là một hoạt động nghề nghiệp
có tính kỹ năng cao của Luật sư.


2. Bản bảo vệ của luật sư trong trường hợp thân chủ là người bị hại.
“Bài bảo vệ cho người bị hại” của Luật sư trong vụ án hình sự là một
văn bản được sử dụng trong phần tranh luận tại phiên tòa với mục đích nhằm
bảo vệ quyền lợi của người bị hại trong chính vụ án hình sự đó.
Bài bảo vệ là một tài liệu quan trọng kết tinh công sức của Luật sư.

Thể hiện kết quả của một quá trình tích cự nghiên cứu, khai thác, đánh giá,
phân tích hồ sơ tài liệu của vụ án, để tìm ra những những tình tiết, những
chứng cứ quan trọng cần thiết phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi của người
bị hại là thân chủ của Luật sư trong vụ án.
Cũng là một văn bản viết của Luật sư, tuy nhiên do thân chủ của Luật
sư trong trường hợp này là người bị hại hoặc là phía người bị hại (trong
trường hợp người bị hại chết), cho nên nội dung và mục đích của bài bảo vệ
ứng sẽ là rất khác so với bài bào chữa cho bị cáo.
Trong vụ án hình sự, trách nhiệm dân sự của bị cáo trong việc bồi
thường tổn thất về vật chất cũng như tinh thần cho khách hàng của Luật sư
mới chính là mục đích mà Luật sư bảo vệ cho người bị hại và phía người bị
hại hướng đến. Còn trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu
là một việc đương nhiên mà theo quy định của pháp luật thì đây là công việc
của Kiểm sát viên nhân dân.
Bài bảo vệ trước hết thể hiện kỹ năng nghề nghiệp của luật sư. đồng
thời thể hiện nền tảng kiến thức khoa học pháp lý vững vàng của luật sư để
nhìn nhận vấn đề pháp lý một cách khoa học, có căn cứ để đưa ra kết luận
đúng đắn. Bài bào vệ cũng thể hiện đạo đức nghề nghiệp của luật sư, bởi
nếu không yêu quý công việc của mình, nếu không thật sự tôn trọng những
cam kết mang tính công việc đối với khách hàng, nếu không có tinh thần


trách nhiệm cao, thì cũng khó có được một kết quả tốt đẹp cho bài bào chữa,
bài bảo vệ của Luật sư.
II. Kỹ năng của luật sư khi chuẩn bị luận cứ bảo vệ cho người bị hại.
1. Mục đích, yêu cầu của bài bào vệ cho người bị hại.
a. Mục đích của bài bảo vệ.
Bài bảo vệ của các Luật sư là một trong những tài liệu quan trọng, kết
tinh công sức của các luật sư, thể hiện kết quả của một quá trình tích cực
nghiên cứu khai thác để tìm ra những tình tiết, chứng cứ cần thiết phục vụ

cho nhu cầu mục đích cho việc bào chữa, bảo vệ thân chủ của mình.
Trong nội dung bài bảo vệ, Luật sư cũng nêu quan điểm của mình về
vụ án, về hoạt động tố tụng mà các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã
tiến hành, về quan điểm truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo trong vụ án,
về tội danh, về khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị đối với bị cáo.
Đồng thời nhằm khẳng định bị cáo đúng là người phạm tội, giữa hành vi
phạm tội của bị cáo và kết quả dẫn đến sự mất mát, thiệt hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị hại, bị cáo là người có lỗi cho nên bị cáo phải
có trách nhiệm bồi thường trách nhiệm dân sự và khắc phục những hậu quả
mà mình đã gây ra.
Việc chuẩn bị bài bảo vệ nhằm giúp cho Luật sư có điều kiện xem lại
các tài liệu đã thu thập, ghi chép được, nhờ đó mà hiểu thấu đáo hơn về nội
dung vụ án. Khi viết cũng là lúc Luật sư cân nhắc đáng giá từng tài liệu, tình
tiết, so sánh, đối chiếu và tổng hợp các chứng cứ, để phát hiện và sử dụng
được các chứng cứ có lợi, bác bỏ những chứng cứ bất lợi cho thân chủ.
Trên cơ sở phân tích và tổng hợp các chứng cứ, Luật sư đưa ra các
quan điểm bảo vệ sẽ toàn diện và không bỏ sót những vấn đề quan trọng.
Bài bảo vệ được chuẩn bị kỹ lưỡng, sắp xếp các luận cứ một cách lô gíc,


khoa học, là tài liệu cần thiết để Luật sư sử dụng trong lúc bảo vệ. Nhờ có
dàn ý đã được chuẩn bị, Luật sư trình bày các vấn đề có trọng tâm, không bị
bỏ sót và cũng không mang tính dàn trãi tràn lan.
b. Yêu cầu của bài bảo vệ.
Nhìn chung, bài bảo vệ của luật sư phải là một tài liệu có tính chặt
chẽ, ngắn gọn, đầy đủ nội dung, có văn hóa, có trí tuệ, có căn cứ xác đáng và
có tính thuyết phục cao. Luận cứ bảo vệ cho thân chủ phải tuân theo cơ cấu,
bố cục chặt chẽ như bản luận cứ bào chữa. Văn phong của luận cứ bảo vệ
cũng đòi hỏi phải trong sáng, cô đọng, súc tích làm toát lên được mục đích
bảo vệ cho thân chủ của Luật sư.

Đề có được bài bảo vệ như vậy thì khi chuẩn bị viết, Luật sư cần phải
quán triệt các yêu cầu sau:
- Bài bảo vệ phải có bố cục chặt chẽ, được viết ngắn gọn, rõ ràng, súc
tích;
- Những vấn đề cần bảo vệ phải được ghi thành đề mục và sắp xếp
chúng theo một thứ tự hợp lý;
- Các tài liệu, số liệu được sử dụng phải chính xác, bảo đảm độ tin
cậy;
- Các quan điểm đề xuất phải rõ ràng, không lập lờ nước đôi, không
đổ lỗi, đổ tội cho người khác để có lợi cho người mình bảo vệ, không bênh
vực quyền lợi cho thân chủ của mình mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác
2. Những công việc cần chuẩn bị trong quá trình viết bài bảo vệ.
Luật sư phải là người hiểu rõ việc tham gia vào giai đoạn xét xử tại
tòa án là một hoạt động tố tụng hết sức quan trọng đối với việc hành nghề
của mình và đối với chính hợp đồng dịch vụ pháp lý mà Luật sư đã xác lập


với khách hàng của mình. Chính vì tính chất quan trọng như vậy, Luật sư
cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho giai đoạn xét xử, mà trong đó có việc
chuẩn bị bài bào chữa hoặc là bài bảo vệ cho thân chủ của mình.
Khi chuẩn bị viết bản luận cứ bảo vệ, đòi hỏi Luật sư cũng phải thực
hiện các công việc như: nghiên cứu hồ sơ, tổng hợp các tài liệu mà Luật sư
tự thu thập được, chuẩn bị các tài liệu có liên quan phục vụ cho việc bảo vệ
như văn bản pháp luật và các tài liệu cần thiết cho việc bảo vệ và vạch ra
phương hướng viết luận cứ bảo vệ.

a. Nghiên cứu hồ sơ.
b. Gặp gỡ thân chủ
c. Tổng hợp, đánh giá tài liệu, chứng cứ.

Để viết bài bảo vệ, Luật sư phải chuẩn bị các loại tài liệu. Những loại
tài liệu này gồm:
- Tài liệu, chứng cứ thu thập được từ việc nghiên cứu hồ sơ vụ án:
+ Các lời khai nhận tội của bị cáo;
+ Những lời khai chối tội của bị cáo nhưng rất mâu thuẫn với các
chứng cứ khác của vụ án;
+ Những lời khai buộc tội bị cáo của những người làm chứng, người
bị hại;
+Các tài liệu xác định vật chứng của vụ án;
+Các tài liệu về chứng thương, giám định;
+Các tài liệu chứng minh yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại như chứng
từ, hóa đơn, biên nhận…
- Các tài liệu, chứng cứ mới được thu thập bổ sung:
+Các tài liệu ghi chép được khi Luật sư gặp bị can, bị cáo;


+Các tài liệu Luật sư thu thập được từ việc tiếp xúc với thân nhân gia
đình người bị hại…
- Các tài liệu và văn bản pháp luật có liên quan:
+Bộ luật hình sự;
+Bộ luật tố tụng hình sự;
+Nghị quyết của HĐTP TANDTC, Nghị định chính phủ, Thông tư
liên tịch, và các văn bản dưới luật khác có liên quan đến việc bảo vệ của
Luật sư.
Là người bảo vệ cho quyền lợi của người bị hại, Luật sư phải nghiên
cứu các tài liệu và chứng cứ nói trên, để đánh giá và phân tích, từ đó đưa ra
những kết luận về những nội dung, tình tiết có lợi cho thân chủ của mình,
như là:
- Xác định hành vi phạm tội của bị cáo, xác định tội danh và khung
hình phạt cho bị cáo;

- Xác định những thiệt hại thực tế đã xảy ra;
-Xác định những tình tiết thể hiện việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại của người bị hại hoặc người ĐDHPCNBH là hợp lý, đúng đắn, chính xác
và có căn cứ.
d. Xác định hình thức viết bài bảo vệ
Tùy thuộc vào tính chất của vụ án là phức tạp hay đơn giản, số lượng
bị cáo nhiều hay ít, các tài liệu chứng cứ trong vụ án là đầy đủ hay con thiếu,
phù hợp hay có mâu thuẩn với nhau, bị cáo nhận tội hay không nhận tội…
mà bài bảo vệ của Luật sư cần được viết chí tiết hay chỉ ở dạng dàn ý và nó
được gửi đến Tòa án để Tòa án có điều kiện xem xét kỹ từng tình tiết nội
dung yêu cầu của người bị hại mà Luật sư nêu ra hay chỉ là tài liệu mà Luật
sư sẽ sử dụng tại tòa.


Trong trường hợp cần gửi trước cho HĐXX thì Luật sư bắt buộc phải
viết hoàn chỉnh bài bảo vệ.
e. Xác định hướng bảo vệ
Đây là công việc khá phức tạp của Luật sư, là một bài toán quan trọng
mà Luật sư phải có một lời giải hợp lý đúng đắn khẳng định sự thành công
hay thất bại của Luật sư trong vụ án.
Tùy thuộc vào chứng cứ của vụ án và việc Luật sư phải bảo vệ cho
đương sự nào trong vụ án mà Luật sư xác định định hướng bảo vệ cho phù
hợp: Nếu bảo vệ cho người bị hại, Luật sư phải xác định định hướng bảo vệ
theo hướng làm rõ trách nhiệm hình sự của bị cáo, trên cơ sở đó mới yêu cầu
bị cáo bồi thường thiệt hại một cách chính xác đầy đủ cho thân chủ của
mình.
Việc làm rõ TNHS của bị cáo có thể theo hướng đề nghị tăng nặng
TNHS như yêu cầu xem xét khung hình phạt khác nặng hơn, trả hồ sơ điều
tra bổ sung để truy tố theo tội danh khác nặng hơn, nếu thấy cáo trạng truy
tố không đúng. Việc cáo buộc bị cáo đòi hỏi bản luận cứ phải chỉ ra được

các tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS, các tình
tiết định khung nặng hơn so với khung mà Viện Kiểm Sát truy tố. Ở vị trí
người bảo vệ, kỹ năng bảo vệ được thực hiện theo hướng ngược lại với vị trí
của người bào chữa theo hướng giảm nhẹ.
Dưới đây là một ví dụ về việc bào chữa gheo hướng đề xuất chuyển
tôi danh các bị cáo phạm tội nặng hơn: “trong vụ án này, hành vi của các bị
cáo không thể xem là hành vi cố ý gây thương tích như cáo trạng của Viện
Kiểm sát, mà hành vi của các bị cáo đã có đầy đủ dấu hiệu của tội Giết
người mang tính chất côn đồ, hung hãn. Điều đó thể hiện qua việc: các bị
cáo đã đánh đuổi anh Dũng rất quyết liệt, đánh vào những chỗ hiểm yếu trên
cơ thể anh Dũng, đánh liên tiếp với những hung khí nguy hiểm như gậy tròn,


gậy vuông quật tới tấp vào đầu, vai anh Dũng. Thậm chi khi anh Dũng đã
kiệt sức không đi nổi thì tên Khánh đã tiếp tục lao tới dùng chân đá vào
bụng anh Dũng khiến anh bật ngửa xuống đường rồi đá liên tiếp vào người
anh dũng. Các bị cáo khác thấy anh Dũng không cử động được nữa nhưng
lại nhào tới đấm đá cho tới khi anh Dũng bất tỉnh nhân sự thì bỏ mặc nạn
nhân nằm đó và bỏ về nhà.
Biên bản giám định pháp y số 2993 ngày 04/1202002 của Viện Khoa
học hình sự Bộ Công an đã khẳng định: sưng nề, bầm tụ máu vùng đỉnh –
chẩm phải, trái không rách da, bầm tím, sưng nề toàn thân, vỡ xương đỉnh –
thái dương phải dài 13 cm, bai khớp đỉnh chẩm phải dài 5cm, chuyên nhân
gây ra cái chết đối với anh Dũng là vỡ hộp sọ gây máu tụ dưới màng cứng
do tác động trực tiếp của vật tày. Qua nghiên cứu bản pháp y trên, ta càng
nhận thức rõ ý định tước đoạt mạng sống của các bị cáo. Hành vi của các bị
cáo là giết người với lỗi cố ý trực tiếp, với mong muốn hậu quả chết người
xảy ra, với tính chất côn đồ và cố ý thực hiện hành vi đến cùng.
Định hướng bảo vệ phải dứt khoát rõ ràng thống nhất từ đầu đến cuối
không lưng chừng khập khểnh nước đôi.

3. Cơ cấu bài bảo vệ
Bài bảo vệ phải có cơ cấu thống nhất với nhau và gồm ba phần: Phần
mở đầu; Phần nội dung và Phần kết luận.
a) Phần mở đầu:
- Giới thiệu: Luật sư tự giới thiệu về mình, về cơ sở hành nghề luật sư,
về Đoàn luật sư mà mình đăng ký hoạt động nghề nghiệp luật sư.
- Lý do tham dự phiên tòa: Luật sư nêu lý do và căn cứ mà mình tham
gia phiên tòa.
b) Phần nội dung:
- Phân tích TNHS của bị cáo:


+ Nếu VKS truy tố đúng người đúng tội, đúng với nhận định phân tích
của Luật sư thì Luật sư cũng cần phải nêu ý kiến, đề nghị HĐXX chấp nhận
việc truy tố của VKS.
+ Nếu VKS truy tố chưa đúng người đúng tội, chưa đúng với phân
tích của Luật sư thì Luật sư cũng phải nêu quan điểm của mình, nếu cần thiết
thì đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Phân tích TNDS của bị cáo:
+Phân tích chứng minh thiệt hại của thân chủ là có thật, do chính hành
vi của bị cáo gây ra, hành vi của bị cáo là hành vi trái pháp luật.
+Việc yêu cầu bồi thường của người bị hại là có căn cứ.
c) Phần kết luận:
- Tóm tắt lại những nội dung chính đã trình bày, không cần thiết phải
lập lại toàn bộ nội dung, nội dung lập lại phải không mâu thuẫn với nội dung
đã trình bày;
- Đưa ra những đề xuất cụ thể về cách giải quyết vụ án theo hướng có
lợi nhất cho thân chủ của mình với Hội đồng xét xử.
Kết luận.
Việc bào chữa/bảo vệ của Luật sư là một quá trình đòi hỏi Luật sư

phải thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, hoàn thiện và sử dụng nhiều kỹ
năng khác nhau. Với mỗi giai đoạn ứng với mỗi hoạt động cụ thể của Luật
sư lại có những ý nghĩa không giống nhau, tuy nhiên hoạt động nào cũng vô
cùng quan trọng, đóng góp lớn vào sự thành công hay thất bại của Luật sư.
Việc chuẩn bị bài luận cứ bào chữa/ bảo vệ cũng vậy, là hoạt động đặc
thù của luật sư, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, Luật sư chuẩn bị tốt và có kỹ
năng tốt trong hoạt động này sẽ quyết định tới sự thành công hay thất bại của
Luật sư khi tham gia phiên tòa xét xử.


Trên đây là một số các nghiên cứu sơ lược của tôi về vấn đề kỹ năng
của Luật sư trong việc chuẩn bị bản luận cứ bào chữa/bảo vệ cho thân chủ
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế, do đặc thù của công việc nên
thời gian khá hạn hẹp, chắc chắn bài viết còn nhiều sai xót, vậy kính mong
Quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để bài viết của tôi
được tốt hơn.



×