Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.94 KB, 13 trang )

BÀI LÀM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân lao động,
đưa lại hạnh phúc cho nhân dân; vì vậy các quy định của pháp luật được đông đảo
nhân dân tôn trọng và tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh.Tuy nhiên do nhiều
nguyên nhân khác nhau,trong xã hội ta vẫn còn hiện tượng vi phạm pháp luật
(VPPL),xâm hại đến lợi ích vật chất và tinh thần của nhà nước,của xã hội và của
nhân dân.Do vậy việc nghiên cứu vấn đề VPPL,chỉ ra những nguyên nhân của
VPPL sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc nhận thức toàn diện về một hiện tượng tiêu
cực trong xã hội là VPPL, từ đó có những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng
và chống VPPL trong xã hội ta.
VPPL là một hiện tượng trong xã hội có những dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất: VPPL là hành vi của con người, thể hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động.
Thứ hai: VPPL là hành vi của con người mà hành vi đó trái pháp luật, xâm hại
tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Thứ ba: VPPL là hành vi trái pháp luật nhưng phải chứa đựng lỗi của chủ thể
đó.
Thứ tư: VPPL là hành vi trái pháp luật, có lỗi của chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lí.
Từ những dấu hiệu trên ta có thể xác định: VPPL là hành vi trái pháp luật, có lỗi
của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí,đã xâm hại tới quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ.
II. THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Trong thời gian qua mặc dù đảng và nhà nước ta đã tập trung vào công tác đấu
tranh phòng chống VPPL nhưng tình hình này vẫn xảy ra với những diễn biến phức
tạp, gây tổn thất không ít cho xã hội cũng như công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước.Tình hình này hiện đang thực sự là vấn đề nhức nhối, gây nhiều bức xúc cho
xã hội.

1




Trước hết là những vi phạm của cán bộ,viên chức nhà nước,những hành vi
tham nhũng,tiêu cực,vi phạm sở hữu nhà nước,cũng như các vi phạm liên quan đến
những người có chứ vụ,quyền hạn,lợi dụng vị trí,chức năng công tác để trục lợi cá
nhân ngày càng có chiều hướng gia tăng và phức tạp.Chẳng hạn,theo báo chưa đầy
đủ,riêng năm 2007 các địa phương trên cả nước đã phát hiện gần 500 vụ với hơn
1000 đối tượng phạm tội tham nhũng, gây thiệt hơn 260 tỷ đồng.Theo cục cảnh sát
điều tra(C37) thì tình hình tham nhũng sẽ còn diễn biến phức tạp, xảy ra ở hầu hết
các lĩnh vực xã hội,gây thiệt hại ngày càng lớn, mức độ, tính chất phạm tội ngày
càng tăng.
Các tội phạm phạm kinh tế nói chung là tội phạm mang tính kĩ thuật cao, đặc
biệt trong một số lĩnh vực chuyên môn phức tạp như tài chính, ngân hàng, sở hữu
công nghiệp, tin học…Tại hội thảo quốc gia về phòng chống tội phạm trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế(14/9/2007) đã báo cáo:từ 1996 đến 2006, lực lượng cảnh
sát điều tra tội phạm kinh tế đã phát hiện 16041 vụ xâm phạm sở hữu, thiệt hại
10844 tỷ đồng, đã khởi tố, điều tra 2788 vụ xâm phạm sở hữu với 5194 vụ buôn lậu
và tội phạm kinh tế khác, khởi tố 3840 vụ buôn lậu hàng cấm, hàng giả với 7554 đối
tượng,thu giữ tài sản trị giá 4015 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội, tình hình vi phạm cũng xảy ra
rất phức tạp, số vụ phạm tội hàng năm được phát hiện nhìn chung cò chiều hướng
gia tăng và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cho xã hội ngày càng trầm trọng.
Đặc biệt là những tội phạm về ma túy. Theo báo cáo tại hội nghị triển khai kế hoạch
hoạt động năm 2007 cho ủy ban quốc gia phòng chống HIV/AIDS và tệ nạn ma túy
mại dâm, chỉ tính riêng năm 2006, các lực lượng công an, quân đội, hải quan đã bắt
giữ hơn 10000 vụ với hơn 16600 đối tượng tội phạm ma túy. Tệ nạn ma túy,mại
dâm ở nước ta diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi. Tội phạm có tổ chức hoặc có
sự kết cấu thành băng nhóm, xã hội đen ngày càng nhiều.
Tình hình vi phạm an toàn giao thông (ATGT) vẫn xảy ra không thuyên
giảm.Theo số liệu thống kê đã được công bố trên báo chí (2007), khi mới chỉ tổng

kết lại sau một năm thực hiện nghị định 36-CP của chính phủ, đã có 4.5 triệu trường
hợp bị phạt vi phạm trật tự ATGT với số tiền lên tới 230 tỷ đồng
Trên lĩnh vực văn hóa cũng vi phạm sôi động không kém. Trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, ngoài những yếu tố tiến bộ văn minh thì những luồng văn hóa
lai căng, đồi trụy, phản động cũng tìm đường đến Việt Nam.

2


Tình hình vi phạm trên cũng đang là cản trở lớn đối với công cuộc đổi mới và
cải cách nền hành chính, tư pháp quốc gia như định hướng mà Đảng cộng sản Việt
Nam đã đề ra, vừa gây bất bình trong nhân dân, vừa làm cho nhân dân lo lắng, hoài
nghi sự nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, và tạo ra nhân tố
gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Để khắc phục và giảm thiểu tác động tiêu cực của tình hình VPPL như hiện
nay, cần đặt ra yêu cầu tích cực, chủ động tìm ra các nguyên nhân của tình hình
này, lấy đó làm căn cứ để phục vụ cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Trên cơ sở những nhận thức thực tiễn trên đây ta có thể rút ra được những nguyên
nhân VPPL ở nước ta hiện nay như sau:

1.Nguyên nhân khách quan.
Các điều kiện kinh tế được xem là yếu tố chi phối, quy định ý thức pháp luật
của mỗi cá nhân (tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội), từ đây ta có thể thấy
những yếu tố khách quan gây ra tình trạng VPPL là:
a.Nhóm nguyên nhân về kinh tế.
Sự xuất hiện tất yếu của cơ chế kinh tế mới-kinh tế thị trường đã làm thức dậy
những khả năng tiềm ẩn trong xã hội, khả năng tiềm ẩn đó có cả yếu tố tích cực
cũng có cả yếu tố tiêu cực.
Trước hết, trong bối cảnh giao thời giữa cơ chế thói quen lề lối cũ với yêu cầu
mở cửa năng động, hòa nhập của cơ chế mới đã làm phát sinh các cơ hội để một bộ

phận không nhỏ những người trong và ngoài bộ máy nhà nước tận dụng. Đó là tâm
lí vị kỉ tham lam, vô tổ chức, coi thường pháp luật, vốn rất dễ phát sinh trong môi
trường kinh tế thị trường, với biểu hiện thông qua tư tưởng làm giàu bằng mọi
phương thức, bất kể đó là hành động đúng pháp luật hay VPPL. Khi gặp điều kiện
thuận lợi như có cương vị công tác hoặc do sự lỏng lẻo của pháp luật, sự thiếu đồng
bộ và chồng chéo của cơ chế quản lý kinh tế hay sự yếu kém trong công tác thanh
tra, kiểm soát thì đó là cơ hội thuận lợi để các cá nhân tư lợi cho mình. Điều này
cho phép giải thích tại sao VPPL dưới các dạng tham nhũng, buôn lậu, buôn bán
hàng quốc cấm, kinh doanh trái phép, trốn thuế hay các loại tội phạm kinh tế và
nhiều loại tội phạm khác phát triển mạnh trong thời kì chuyển đổi hiện nay của Việt
Nam.
Ví dụ: các nhà đầu tư vì quan tâm đến lợi nhuận, lãi suất nên bằng mọi khả
năng chủ đầu tư phải thu hồi và phát triển vốn bằng nhiều cách như: tăng khấu hao

3


cơ bản, bất chấp sự thiệt hại về môi trường sinh thái để tăng lợi nhuận, và một hệ
quả tất yếu là các chủ đầu tư VPPL.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường còn gây ra sự phân hóa xã hội mạnh mẽ,
một bộ phận người dân trong điều kiện kinh tế thị trường đã và đang thực sự trở
thành nạn nhân của nền kinh tế mới,không có vốn, trình độ văn hóa thấp kém, lạc
hậu, thất nghiệp và bị bần cùng hóa, những đối tượng này rất dễ bước vào con
đường VPPL. Thực tế chỉ ra rằng đây luôn là nguyên nhân tiềm ẩn của tình hình
VPPL đang hoàn hành ở nước ta hiện nay. Nền kinh tế thị trường cũng tạo ra một
thực tế nguy hại khác đó là tình trạng đạo đức xã hội của một bộ phận cán bộ công
chức nhà nước hoặc các tầng lớp khác bị xuống cấp nghiêm trọng, do bị ảnh hưởng
của lối sống thực dụng, tiền tệ hóa các quan hệ xã hội nên dẫn đến một hệ quả là rất
dễ VPPL.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế còn kéo theo cả sự lạc hậu của pháp

luật, khó thích ứng kịp và dễ tạo ra kẻ hở, khiếm khuyết để nhiều kẻ lợi dụng; rồi
hàng loạt các vấn đề khác như công ăn việc làm, sự thất nghiệp tràn lan bởi sức ép
của cơ chế thị trường, sự chạy đua về nhu cầu…là những nhân tố thúc đẩy sự VPPL
gia tăng.
b.Nhóm nguyên nhân về xã hội.
Đây là một nguyên nhân khó thống kê trên thực tế, các nguyên nhân về xã hội
thì rất đa dạng. Nó có thể là trình độ dân trí, có thể là sự lan truyền dư luận…tuy
nhiên ta có thể đề cập đến một số nguyên nhân dễ nhận biết hiện nay như sau:
Trước hết là vấn đề gia tăng dân số nhanh đang làm trầm trọng hơn tình trạng
thất nghiệp, thất học, sự phân hóa giàu nghèo hiện nay ở nước ta. Nhu cầu của con
người ngày càng cao, khi thất nghiệp, nhu cầu không có hoặc thấp dễ dẫn người ta
tới việc làm liều lĩnh, để rồi VPPL.
Một bộ phận không nhỏ những thanh thiếu niên không hoặc ít được học hành
dẫn đến ý thức về pháp luật, nhận thức về hành vi kém do đó rất dễ VPPL. Bên
cạnh đó nhiều bậc phụ huynh do mãi làm ăn kinh tế không chú ý đến nuôi dạy con
cái, thậm chí có thói quen dùng tiền để giải quyết mọi việc dẫn dến sự xuống cấp
đạo đức nghiêm trọng ở một bộ phận thanh thiếu niên.
Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn giữa các tầng lớp dân cư, vùng miền…
cũng dẫn đến nguy cơ xung đột mạnh mẽ hơn trong cộng đồng dân cư. Sự mâu
thuẫn giữa các thế hệ về quan điểm sống nên dẫn đến mối liên hệ và chịu sự tác
4


động của các thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng kém tác dụng, dẫn đến việc
hành động nông nỗi theo ý chí chủ quan của thế hệ trẻ.
c.Nhóm nguyên nhân khách quan của điều kiện quan hệ quốc tế và xu thế
toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vấn đề xuất khẩu tội phạm từ bên ngoài biên
giới quốc gia vào có ảnh hưởng rất tai hại đến tình hình an ninh trật tự xã hội nước
ta.Thông qua các kênh thông tin, các phương tiện khoa học-kĩ thuật hiện đại, hệ

thống luồng, tuyến giao thông đa dạng của quốc gia và quốc tế các loại hình tội
phạm đã tìm đường xâm nhập vào Việt Nam. Cùng với bối cảnh hội nhập quốc tế
đã không ít những tư tưởng thù địch, phản động với mục đích xấu, động cơ không
trong sáng của các thế lực bên ngoài tìm tới Việt Nam; chẳng hạn như chúng lợi
dụng các chiêu bài dân chủ, dân quyền, tự do tôn giáo,tín ngưỡng…để hạn chế khả
năng xử lí của nhà nước đối với những phần tử phản động, ngầm khuyến khích cho
những phần tử này chống đối chính quyền, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Hệ
thống internet rộng rãi, tiện lợi cũng là một môi trường, phương tiện để các luồng
văn hóa xấu du nhập; những thông tin qua băng đĩa hình, sách báo, tạp chí…có thể
kích thích sự ham muốn,những nhu cầu của con người mà lại không được đáp ứng,
do đó có thể gây ra những phản ứng tiêu cực hoặc ức chế không đáng có của con
người, nhất là lớp trẻ.
Sự phát triển của king tế, đòi hỏi của cuộc sống tạo ra sự dịch chuyển dân cư,
vấn đề hộ tịch, cư trú, tạm trú…trở nên phức tạp, khó kiểm soát làm cho nguy cơ
của VPPL sẽ nảy sinh, các tệ nạn xã hội có nguy cơ gia tăng. Một số cá nhân hay tổ
chức nước ngoài lợi dụng chính sách khuyến khích đầu tư đã hợp pháp hóa thu nhập
bất minh qua hoạt động đầu tư vào Việt Nam để rửa tiền; hay lợi dụng chính sách tự
do đi lại để vận chuyển, buôn bán ma túy trái phép…Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế
của Việt Nam về mặt pháp lý trong đấu tranh phòng chống tội phạm mang tính quốc
tế còn hạn chế, nên dẫn đến việc người ta có thể phạm tội rồi bỏ trốn ra nước ngoài
mà không bị dẫn độ trở lại Việt Nam, gây khó khăn cho việc bắt giữ và xử lí.
Nói đến nguyên nhân VPPL ta còn cần chỉ ra một yếu tố nữa, đó là sự đổ vở
của Chủ nghĩa Xã hội ở Đông Âu và Liên Xô cho đến nay vẫn còn có tác động đến
tâm lí của một số bộ phận dân cư ít hiểu biết, lập trường chính trị dễ bị lung lay, đôi
lúc giảm lòng tin vào chế độ mà chúng ta đã lựa chọn; do đó vẫn còn đâu đó những
suy nghĩ, hành vi tiêu cực của một số người dân, dẫn đến VPPL.

5



2. Nguyên nhân chủ quan.
a. Nguyên nhân liên quan đến trách nhiệm của nhà nước.
Bộ máy nhà nước chưa được hoàn thiện ngang tầm với những chức năng và
nhiệm vụ mà xã hội mới đặt ra cho nó. Xã hội việt Nam ta hiện nay phức tạp, đa
dạng và năng động hơn nhiều so với trước đây do thực hiện một loạt chính sách,
trong đó có chính sách phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ 1986 đến nay. Trong
khi đó bộ máy nhà nước của ta mặc dù đã cố gắng nhưng vẫn chậm được hoàn thiện
và cũng cố kịp thời, do đó khó có thể ghánh vác hết được những nhiệm vụ mà cuộc
sống đặt ra cho nó.
Ví dụ: Trong lĩnh vực kinh tế, việc áp dụng nguyên tắc tự do kinh doanh, kinh
doanh không hạn chế quy mô đã dẫn đến đa dạng hóa các chủ thể tham gia hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh các doanh nghiệp truyền
thống đã xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp tư nhân, các loại hình công
ty. Vì vậy sự quản lí của nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh đã phải mở
rộng đến các loại hình doanh nghiệp mới này. Các tranh chấp giữa các doanh
nghiệp tư nhân cũng khác, không còn là các tranh chấp giữa các “đồng chí” mà là
tranh chấp giữa các chủ thể sở hữu với những quyền và lợi ích khác nhau. Cán bộ
làm công tác tranh chấp hợp đồng đã ít về số lượng lại thiếu về năng lực chuyên
môn, nên ở mọi cấp việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh khó có thể kịp
thời và đúng đắn...
Tóm lại tự thân pháp luật ít đi vào cuộc sống, trong nhiều trường hợp pháp
luật chỉ được thực thi thông qua hoạt động của cơ quan nhà nước. Với một bộ máy
nhà nước thiếu về cơ cấu, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, lại bị nhiễm nặng các
bệnh quan liêu và tham nhũng như hiện nay thì pháp luật dù có hoàn thiện đến mấy
cũng khó phát huy hiệu lực trong cuộc sống.
Hiện nay vẫn còn sự buông lỏng quản lý của nhà nước đối với một số mặt của
đời sống xã hội. Thời gian qua do có quan niệm không đúng về mở rộng dân chủ,
về việc phải tôn trọng nhân quyền, trong đó có cả quyền tự do kinh doanh nên đã
xem nhẹ và nhiều nơi nhiều lúc buông lỏng sự quản lý của nhà nước. Nhiều người,

nhiều cơ quan khi có dấu hiệu VPPL vẫn không dám kiểm tra, kiểm soát vì sợ làm
như vậy là can thiệp vào hoạt động kinh doanh, là cản trở sản xuất. Đó là một quan
niệm hết sức sai lầm và hậu quả của nó rất nặng nề; sự lộn xộn vô tổ chức đang diễn
6


ra khắp nơi, là con đẻ của khái niệm tự do theo nghĩa muốn làm gì thì làm bất luận
có được phép hay không. Trong điều kiện ý thức chấp hành luật của một bộ phận
nhân dân còn thấp như hiện nay thì tính chất cưỡng chế lại càng phải được thể hiện
rõ và tăng cường. Đó là một điều kiện không thiếu được để đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện nghiêm minh.
Ví dụ: như chúng ta đã biết một trong những nghĩa vụ cơ bản của chủ doanh
nghiệp tư nhân là chỉ được kinh doanh sau khi đã làm xong thủ tục đăng kí kinh
doanh, tuy nhiên qua các cuộc điều tra thì hiện nay trong cả nước còn rất nhiều
doanh nghiệp tư nhân và công ty hoạt động mà không thực hiện nghĩa vụ này. Vấn
đề đặt ra là tại sao lại có chuyện như vậy, trong khi chúng ta có không ít các cơ
quan được nhà nước giao trách nhiệm phạt hành chính và nếu cần có thể thu hồi
giấy phép hoạt động của doanh nghiệp. Vậy nên có thể thấy nguyên nhân cơ bản
của tình trang này chính là sự hữu khuynh của các cơ quan nhà nước.
Thời gian qua nhà nước vẫn có một số chính sách chưa phản ánh đúng thực tế
khách quan, do đó khi được thể chế hóa thành pháp luật thì pháp luật đó không thực
thi được. Chính sách của Đảng là linh hồn của pháp luật, chính sách đúng thì pháp
luật mới đúng, và do đó mới được thực hiện. Thời gian qua không ít quy định của
pháp luật không thi hành được là do được thể chế từ một chính sách không được lập
luận kĩ càng và khoa học.
Ví dụ: chúng ta đã có văn bản cấm lưu thông thuốc lá ngoại, nhưng thuốc lá
ngoại vẫn được mua bán công khai trên thị trường, do đâu mà điều luật này bị vi
phạm. Bởi lẽ vẫn có nhiều người hút thuốc lá ngoại. Đúng là phải có chính sách để
bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng không thể chỉ dùng biện pháp hành chính mà
nên dùng các biện pháp hữu hiệu hơn nữa( đánh thuế thật nặng chẳng hạn...).

Trong một nền kinh tế mới đa dạng, và năng động như hiện nay thì việc đưa ra
một vài quyết định không đúng là khó tránh khỏi, vấn đề ở chỗ là khi phát hiện ra
sai lầm thì phải kiên quyết sửa sai, và như vậy mới ngăn ngừa được khả năng chính
sách đó gây ra hậu quả xấu.
b. Nguyên nhân từ cơ chế pháp luật.
Trong điều kiện kinh tế-xã hội biến đổi một cách nhanh chóng như hiện nay,
pháp luật tất yếu sẽ gặp khó khăn trong vấn đề thích ứng. Vì pháp luật phản ánh
cuộc sống mà cuộc sống thì vận động liên tục nên việc ban hành và hủy bỏ các văn
bản pháp luật cũng là chuyện thường tình. Chính vì thế mới có việc rà soát và thanh
7


lí các văn bản pháp luật. Phải nói rằng, trong những năm qua, việc này ta cũng chưa
làm được một cách nghiêm túc. Khi ban hành văn bản pháp luật nào cũng có một
điều: “những quy định đươc ban hành trước đây trái với văn bản này đều bị bãi bỏ”.
Nhưng trong vô số các văn bản được ban hành trong nhiều thời kì khác nhau thì
mấy ai, nhất là người dân biết được văn bản nào còn, văn bản nào mất hiệu lực để
chấp hành hay không chấp hành. Hậu quả là có khi ta đang vận dụng, thi hành một
quy định pháp luật đã cũ, đã lạc hậu, đã bị hủy bỏ mà vẫn nhầm tưởng rằng đang thi
hành đúng pháp luật. Xét cho cùng thì đó cũng là một hình thức VPPL. Không chỉ
thế, nhiều khi luật chưa kịp sửa đổi để thích ứng với yêu cầu của cuộc sống nên
buộc các cơ quan ban hành pháp luật phải ban hành các văn bản hướng dẫn hoặc
quy định trái với luật.Do đó sự không phù hợp của luật là một nguyên nhân dẫn đến
tình trạng bắt buộc phải VPPL bởi chính các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, chúng
ta còn có thể thấy một số quy định trong các điều luật trở nên vô hiệu, thể hiện sự
không phù hợp của chính các quy định đó mà ví dụ rõ nhất là các quy định về thời
hạn trong bộ luật tố tụng hình sự. Các quy định này gần như không bao giờ được
tôn trọng trong quá trình tố tụng.
Một trong những nguyên nhân làm cho pháp luật của nước ta khó đi vào cuộc
sống là do những quy định của nó được xây dựng trên mong muốn chủ quan, duy ý

chí, tuy là với mục đích tốt đẹp nhưng không có tiền đề vật chất để thực hiện, nói
cách khác là tính khả thi của pháp luật yếu. Nghiên cứu những đạo luật về bảo vệ
sức khỏe,về vấn đề phổ cập giáo dục thì thấy rất rõ điều đó. Thái độ qua loa, không
nghiêm túc với pháp luật trong quá trình thanh lí các văn bản đã ban hành trước đây
cũng là một nguyên nhân quan trọng làm triệt tiêu giá trị của pháp luật trong cuộc
sống.
Vấn đề kĩ thuật pháp lí cũng cần được đề cập như là một nguyên nhân của sự
VPPL. Việc trình bày các quy phạm đôi khi còn quá phức tạp hoặc mập mờ, làm
cho việc áp dụng trở nên không đúng hoặc không thống nhất, đặc biệt là việc soạn
thảo các văn bản hướng dẫn được thực hiện bởi các cơ quan chuyên môn nhưng hạn
chế về trình độ pháp luật ( như việc bộ giáo dục và đào tạo ra quy chế tuyển sinh...).
Kĩ thuật pháp lí khi xây dựng luật là đòi hỏi một lượng văn bản hướng dẫn quá lớn
nên vừa có nguy cơ mâu thuẫn lại vừa có nguy cơ không ban hành kịp để hướng
dẫn, tạo ra kẽ hở trong hoạt động áp dụng pháp luật.
Chính bản thân pháp luật cũng có nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng vi phạm, như
thiếu sự quản lý của pháp luật về một số lĩnh vực, nên trong các lĩnh vực này chủ
8


thể muốn hoạt động như thế nào thì tùy, dẫn đến lộn xộn, nhà nước không quản lý
nổi ( vấn đề phá sản của các hợp tác xã tín dụng hoặc các doanh nghiệp tư nhân
những năm về trước được các nơi giải quyết rất tùy tiện, không theo một trình tự
pháp lí nào), Mà đã lộn xộn khó quản lý thì khó tránh khỏi những hoạt động vi
phạm pháp luật...
c. Nguyên nhân từ công tác đấu tranh phòng, chống và kiểm soát tình hình vi
phạm pháp luật.
Công tác đấu tranh và hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam
trong những năm qua còn nhiều bất cập, như hệ thống pháp luật liên quan đến
phòng chống tội phạm chưa được hoàn thiện hoặc chưa được sửa đổi bổ sung để
đáp ứng với tình hình; còn thiếu chương trình quốc gia về phòng chống vi phạm

pháp luật, nhất là tội phạm. Bên cạnh đó pháp luật còn để ngỏ nhiều lĩnh vực không
kiểm soát làm cho các hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng nhiều khi bị bó
tay.
Vấn đề con người cũng đang có nhiều vướng mắc. Các lực lượng tham gia
phòng chống VPPL thiếu về năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt trong công
tác hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế; vấn đề này thực sự ảnh hưởng
nhiều đến hiệu quả hoạt động hợp tác với nước ngoài trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, thậm chí có những vụ việc do tham mưu đề xuất của cơ sở
chưa chuẩn làm ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Không chỉ thế, sự kém hiệu quả của các hoạt động tư pháp nói chung và các
hoạt động tố tụng nói riêng vẫn chưa đươc khắc phục triệt để. Điều này thể hiện ở
những hiện trạng như chất lượng xét xử thấp, số vụ việc giải quyết gây oan, sai cho
công dân vẫn xảy ra trong tất cả các trình tự tố tụng, thi hành án chưa đạt chất
lượng, yêu cầu...Tất cả những thực tế đó dẫn đến hậu quả người dân hoài nghi về
tính nghiêm minh của pháp luật xã hội chủ nghĩa, không tin tưởng vào cơ quan nhà
nước, cơ quan bảo vệ pháp luật, không tố giác vi phạm pháp luật, không giúp đỡ cơ
quan thi hành pháp luật...
d. Nguyên nhân do ý thức pháp luật của các chủ thể vi phạm còn hạn chế.
Một thực tế khá phổ biến hiện nay của tình hình VPPL là nhiều trường hợp
VPPL xảy ra không hoàn toàn do ý thức chống đối xã hội của người vi phạm mà
nguyên nhân lại từ sự không hiểu biết pháp luật của chủ thể vi phạm. Mặt khác, sự
9


không hiểu biết pháp luật dễ dẫn đến tâm lí coi thường pháp luật, hoặc lợi dụng tình
hình kém hiểu biết pháp luật để thực hiện, che dấu hành vi phạm tội. Những thực
trạng này là nhân tố ảnh hưởng và là điều kiện thuận lợi cho các VPPL có cơ hội
phát triển.
e. Công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa được chú trọng
đúng mức khi ý thức pháp luật trong dân chúng còn nhiều hạn chế.

Xét cho cùng thì sự hạn chế về mặt ý thức pháp luật của chủ thể cũng là do sự
hạn chế trong công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật. Hiện nay, công tác giáo
dục pháp luật đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều bậc học, tuy nhiên
giáo viên dạy luật chủ yếu là kiêm nhiệm không được đào tạo cơ bản nên chất
lượng giáo dục pháp luật không thể đáp ứng được yêu cầu, trong khi đó các văn bản
pháp luật thì thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhưng không cập nhật trong
chương trình giảng dạy, sự bất cập này làm trầm trọng thêm tình trạng “mù luật”
hoặc hiểu biết một cách mơ hồ về luật, đặc biệt là một bộ phận không nhỏ thanh
thiếu niên. Việc xác định không đúng đối tượng tuyên truyền và phổ biến pháp luật
nên đã đưa vào chương trình những vấn đề không phù hợp, quá tải lại thiếu tính
thiết thực, cụ thể nên đã không hấp dẫn, lôi cuốn đối tượng được tuyên
truyền...Kinh phí dành cho công tác này còn hạn hẹp gây khó khăn cho người triển
khai nhất là khi cần phối hợp hoạt động..v.v..
Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến VPPL và làm phát sinh tội phạm.
Trên đây là một số nguyên nhân mà chúng ta có thể nhận biết và rút ra từ thực tiễn,
chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau mang tính hệ thống nên
mỗi nguyên nhân ấy lại phát huy sự tác động mạnh hơn đến các hành vi xã hội của
con người, làm biến dạng các xử sự bình thường của con người thành các xử sự lệch
chuẩn so với yêu cầu của xã hội và của pháp luật. Vì vậy, công tác đấu tranh phòng
chống VPPL không chỉ là chức năng dành riêng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật,
mà đó là công việc đòi hỏi sự nổ lực lớn của toàn xã hội.
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG VPPL.

10


Xuất phát từ những thống kê về thực trạng của tình hình vi phạm pháp luật, đặc
biệt là các nguyên nhân cơ bản của vi phạm pháp luật, chúng ta có một số giải pháp
cho công tác đấu tranh phòng và chống VPPL ở nước ta hiện nay như sau:
1. Đối với nhà nước: phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý

các mặt của đời sống xã hội. Bởi vì trong cuộc sống, nhiều trường hợp pháp luật chỉ
được thực thi thông qua hoạt động của cơ quan nhà nước, do đó pháp luật có phát
huy tốt hiệu lực hay không trong cuộc sống phụ thuộc rất nhiều vào năng lực lãnh
đạo, quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, sự trong sạch của bộ máy nhà nước...và cũng
phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện đến đâu của bộ máy nhà nước để đáp ứng những
chức năng và nhiệm vụ mà xã hội mới đặt ra cho nó.
2. Hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho sự thực
thi tuân thủ pháp luật.
Xây dựng một hệ thống các quy phạm pháp luật có tính toàn diện, đồng bộ,
phù hợp, ổn định với trình độ pháp lý cao là điều kiện tiên quyết cho việc phát triển
các hành vi hợp pháp,tích cực; là cơ sở pháp lý để tuyên truyền, giáo dục nâng cao
ý thức tôn trọng pháp luật, thói quen xử sự hợp pháp của các chủ thể pháp luật và
tiến hành đấu tranh phòng chống các hiện tượng tiêu cực, VPPL trong xã hội.
3. Nâng cao ý thức pháp luật và trình độ văn hóa pháp lý.
Nâng cao ý thức pháp luật và trình độ văn hóa pháp lý của các chủ thể là một
nội dung cơ bản của việc phát triển các hành vi hợp pháp, tích cực và hạn chế các
hành vi bất hợp pháp, tiêu cực. Các biện pháp cụ thể là: đẩy mạnh và nâng cao công
tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của công tác
đào tạo; bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật, thông qua
hoạt động của đội ngũ này pháp chế được cũng cố, ý thức pháp luật và trình độ
pháp lý của nhân dân được nâng cao; tạo điều kiện để thu hút đông đảo nhân dân
tham gia vào các quá trình xây dựng pháp luật, thông qua đó mọi người dân chủ
động nâng cao ý thức pháp luật và trình độ pháp lý.
4. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống VPPL, đảm bảo xử lý
nghiêm minh, kịp thời, chính xác các trường hợp vi phạm pháp luật.
Cụ thể, một số giải pháp trong thời gian tới có thể được thực hiện như: gắn
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội với nhiệm vụ cũng cố an ninh, trật tự xã hội, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà
nước nhằm loại bỏ các điều kiện làm nảy sinh, phát triển các hiện tượng tiêu cực và
VPPL; tăng ường xã hội hóa công tác đấu tranh phòng chống VPPL nhằm động

11


viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng chống các VPPL;
cũng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm
đảm bảo xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác các trường hợp VPPL theo nguyên
tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; tăng cường hợp tác quốc tế trong công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các VPPL.
5. Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào công tác
đấu tranh phòng chống VPPL cần được chú trọng hơn nữa.
Những nghiên cứu của các khoa học xã hội có ý nghĩa trong việc tổng kết thực
tiễn, đúc rút về mặt lý luận. Các kết quả của ứng dụng khoa học kỹ thuật sẽ làm cho
các chứng cứ cũng “ biết nói”, đảm bảo tính khách quan và có cơ sở khoa học, buộc
các chủ thể VPPL phải “ tâm phục khẩu phục”...
6. Không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện biện pháp này một cách nghiêm ngặt và hiệu quả sẽ khắc phục được
tình trạng văn bản hướng dẫn tràn lan, mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau, nguồn làm
căn cứ áp dụng sẽ tập trung, công tác hệ thống hóa pháp luật được giảm bớt và việc
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản được tiến hành cũng có nhiều
thuận lợi. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tức là còn xử lí nghiêm, triệt để,
kịp thời, công bằng nhằm phát hiện ra những sai sót trong hoạt động thực hiện, tuân
thủ và áp dụng pháp luật, làm cho các hoạt đông này đi đúng quỹ đạo...
7. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xã hội
nói chung và trong các hoạt động pháp luật nói riêng. Đây là yếu tố có ý nghĩa
quyết định nâng cao hiệu quả pháp luật nước ta trong điều kiện hiện nay.
V. KẾT LUẬN
Ngày nay, xã hội Việt Nam đã khoác trên mình những diện mạo mới, cùng
với một nền kinh tế đang chuyển biến mạnh mẽ, chất lượng cuộc sống người dân
không ngừng được nâng cao... Tuy nhiên, đằng sau những thành tựu mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta phấn đấu không ngừng để đạt được thì vẫn còn vô vàn vấn đề

tiêu cực phát sinh mà cả đất nước phải đối mặt. Trong đó, vấn đề VPPL xảy ra phức
tạp, đang là một trong những nguyên nhân lớn nhất cản trở sự tiến bộ của xã hội. Vì
vậy, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống VPPL không phải là của riêng một cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào mà đang cần sự chung tay góp sức của mỗi thành viên trong
toàn xã hội. Việc nhận thức được mức độ nghiêm trọng của tình hình VPPL, rút ra

12


được nguyên nhân và tìm ra được những giải pháp cơ bản để giải quyết thực trạng
đó cũng đang là yêu cầu cấp bách đối với nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền.
Đề tài mà em đã lựa chọn trên đây, dù mới chỉ là đề tài nghiên cứu, tìm hiểu
qua tài liệu, sách vở là phần lớn; nhưng ở góc độ cá nhân, bản thân đang là sinh
viên và với tư cách là một thành viên trong xã hội, cũng xin được phần nào chung
sức, góp phần nhỏ bé vào công tác đấu tranh phòng, chống VPPL; vì theo em, đối
với thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên-tầng lớp được trang bị nhiều tri thức thì dành sự
quan tâm cho vấn đề VPPL, dù đó là nhận thức về mặt lý luận hay thực tiễn thì
cũng đã phần nào chung sức mình vào công tác đấu tranh phòng và chống VPPL, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

13



×