Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thựchiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.36 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………..1
NỘI DUNG……………………………………………………...1
1. Người bào chữa……………………………………………....1
1.1 khái niệm về người bào chữa……………………………....1
1.2 những người có quyền tham gia bào chữa………………..2
2. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa……………………2
2.1 quyền của người bào chữa…………………………………2
2.2 nghĩa vụ của người bào chữa………………………………7
3. Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực
hiện quyều và nghĩa vụ của người bào chữa………………….9
KẾT LẬN………………………………………………………15

1


LỜI MỞ ĐẦU
Khi một người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam về một hành vi vi phạm
pháp luật hình sự nào đó bản thân họ thường muốn được giúp đỡ, giúp họ
về mặt pháp lý để họ được vô tội, để được giảm nhẹ hình phạt…và pháp
luật cũng có quy định cho họ có quyền mời người bào chữa hoặc trong một
số trường hợp, bắt buộc phải có người bào chữa. Đó là những quyền họ
được hưởng nhưng người bào chữa cũng chỉ được quyền bào chữa trong
phạm vi thẩm quyền đồng thời, người bào chữa cũng phải thực hiện những
nghĩa vụ đối với việc bào chữa đó.

NỘI DUNG
1. Người bào chữa
1.1 khái niệm về người bào chữa
“Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng


nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
về mặt pháp lý nhằm bào về quyền và lợi ích hợp pháp của họ.” (1) Theo như
khái niệm trên thì người bào chữa ở đây có thể là nhiều người khác nhau và
mục đích của việc bào chữa là làm sao cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có lợi nhất trong suốt quá trình đưa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đó ra
điều tra, truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật như là
bào chữa cho bị cáo vô tội, bào chữa cho bị cáo được giảm nhẹ hình
phạt trên cơ sở quy định của pháp luật.
(1): Trang 135, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam; trường Đại học Luật Hà Nộ

2


1.2 những người có quyền tham gia bào chữa
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS quy định “ người bào chữa có thể là: a.
Luật sư; b. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c. Bào chữa viện nhân dân.”
Luật sư là người có khả năng chuyên môn về pháp luật, được cấp
giấy chứng nhận hành nghề theo quy định của pháp luật, Bào chữa theo yêu
cầu của cá nhân, tổ chức nhặm bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có
quyền bào chữa. người đại diện hợp pháp ở đây là cha mẹ của người bị tạm
giữ, bị can, bị cao kể cả đối với người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần, thể chất hoặc người đại diện hợp pháp cũng có thể là
người giám hộ đối với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thân, thể chất có quyền bào
chữa bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

Bào chữa viên nhân dân là người bảo vệ quyện và lợi ích chính đáng
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cao là thành viên của tổ chức mình.
Khi tiến hành các hoạt động bào chữa, Bào chữa viên nhân dân, Luật
sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều có các
quyền và nghĩa vụ chung theo quy định của pháp luật về người bào chữa.
2. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
2.1 quyền của người bào chữa
Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì người bào chữa có
các quyền sau:
+ Người bào chữa được quyền có mặt trong các giai đoạn điều tra, có
mặt khi cơ quan điều tra hỏi cung người bị tạm giam, bị can, được hỏi
người bị tạm giữ, bị can ngay trong quá trình hỏi cung nếu có sự đồng ý của
điều tra viên; được xem các biên bản về hoạt động tố tụng mà khi hoạt

3


động tố tụng đó diền ra có sự tham gia của người bào chữa và được xem
các quyết định về tố tụng liên quan đến người mà mình nhận bào chữa.
Việc pháp luật quy định cho người bào chữa có quyền có mặt trong
quá trình hỏi cung và các giai đoạn điều tra khác là để ngươi bị tạm giữ, bị
can có sự giúp đỡ, ổn định về tinh thần, cùng với đó là việc người bào chữa
bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người bị tạm giữa, bị can khỏi sự xâm hại
của những điều tra viên đến thân thể hoặc tinh thần của người bị tạm giữ, bị
can. Bởi trong quá trình hỏi cung, lấy lời khai, các điều tra viên có thể trong
một số trường hợp nào đó sử dụng các biện pháp “mạnh” trái pháp luật như
ép cung, đánh đập, lăng mạ… người bị tạm giữ, bị can, với mục đích lấy
được lời khai. Nên việc người bào chữa có quyền có mặt khi cơ quan điều
tra lấy hỏi cung lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can là cần thiết để kịp
thời bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thân chủ.

Người bào chữa cũng có quyền được hỏi người bị tạm giữ, bị can
ngay trong quá trình cơ quan điều tra đang hỏi cung nếu Điều tra viên đồng
ý vì mục đích của quy định này là người bào chữa đặt ra các câu hỏi để làm
rõ hơn các tình tiết giảm nhẹ cho bị can, người bị tạm giữ. Việc người bào
chữa được quyện xem lại các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra đối
với thân chủ của mình và được xem lại các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của người bào chữa là để người bào chữa biết được cơ quan
điều tra có làm đúng, trong biên bản có gi đúng những gì mà quá trình điều
tra diễn ra hay không đển kịp thời lên tiếng bảo vệ quyện lợi chính đáng
cho thân chủ, nếu phát hiện có những sai phạm thì người bào chữa có
quyền khiếu nại đến cơ quan chức năng có thểm quyền xem xét và xử lý vi
phạm đó.
+ Người bao chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về
thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động hỏi cung để người bào chữa kịp thời
có mặt khi hoạt động hỏi cung diễn ra. Đây là một quyền cần thiết của
người bào chữa vì khi hoạt động hỏi cung được diễn ra, nguy cơ các quyền
4


lợi chính đáng của người bị tạm giữ, của bị can dễ bị xâm hại bởi hoạt động
hỏi cung của các điều tra viên. Để lấy được lời khai của người bị tạm giữ,
của bị can Điều tra viên nhiều khi không tuân thủ pháp luật, có thể họ sử
dụng các thủ đoạn nghiệp vụ như đánh đập, xúc phạm đến danh dự, nhân
phẩm của người bị tạm giữ, bị can nhằm có được lời khai từ họ. Người bào
chữa có mặt để kịp thời ngăn chặn các hành vi xâm hại của điều tra viên
nếu các hành vi đó diễn ra.
+ Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
thay đổi người giám định hoặc thay đổi người phiên dịch theo quy định của
BLTTHS năm 2003. Bởi khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng,
người giám định, hoặc người phiên dịch không khách qua trong quá trình tố

tụng, hay họ là người thân ruột thịt của người có quyền và lợi ích đối lập
với người bị tạm giữ, bị can…thì người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi
những người đó để bảo vệ quyền lợi cho bị can, người bị tạm giữ.
+ Khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đưa ra yêu cầu thu thập tài
liệu, đồ vật, thu thập các tình tiết liên quan đến việc bào chữa cho họ thì
người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, thu thập các tình tiết từ
chính người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc thu thập tài liệu, đồ vật và các
tình tiết liên quan từ những người thân thích, từ các cơ quan, tổ chức để đưa
ra các luận chứng, tài liệu, đồ vật…chứng minh người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo vô tội hoặc làm giảm nhẹ hình phạt cho họ. kể cả khi người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo không đưa ra yêu cầu nhưng bản thân người bào chữa thấy
cần thiết thì người bào chữa cũng có quyền “đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu” (Điểm đ Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003) để làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án, làm giảm nhẹ tội hoặc chứng minh người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo vô tội. Trong quá trình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị tạm
giam người bào chữa cũng có quyện gặp gỡ, trao đổi bàn bạc với họ về các
tình tiết của vụ án, xác minh quá trình diễn ra vụ việc, đữa ra các chứng cứ

5


chứng minh họ vô tội hoặc các chứng cứ làm giảm nhẹ tội cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cao…
+ Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cao sau khi quá trình điều tra kết thúc theo quy định của pháp luật.
Cùng với việc tiếp xúc, gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì
việc đọc, nghi chép và sao chụp các tài liệu liên qun trong hồ sơ vụ án, từ
đó người bào chữa nắm được rõ hơn nội dung của vụ án, nắm được các
chứng cứ buộc tội, những chứng cứ gỡ tội đối với người họ bào chữa vì nội

dung của hồ sơ vụ án luôn phải ghi rõ tất cả các vấn đề như tình tiết của vụ
án, quá trình diễn ra vụ án, thời gian, địa điểm, các chứng cứ của vụ án…để
qua đó người bào chữa biết và đưa ra hướng giải quyết vụ việc, chuẩn bị để
đưa ra các tranh luận trong phần tranh luận tại phiên tòa…sao cho làm giảm
nhẹ được tội, giảm nhẹ được hình phạt một cách tối đa cho người được bào
chữa.
Việc sao chụp, đọc và nghiên cứu hồ sơ, những tài liệu liên quan đến
vụ án cũng là điều hết sức cần thiết để qua đó người bào chữa có cơ hội
xem xét tìm ra các sai lầm, vi phạm, các thiếu sót trong quá trình điều tra
của cơ quan điều tra trên cơ sở những vi phạm, sai sót đó người bào chữa
có thể đưa ra các yêu cầu, các kiến nghị, khiếu nại cần thiết đến cơ quan có
thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được bào chữa.
+ Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa.
Trong giai đoạn này vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nhất, đây
là giai đoạn người bào chữa thể hiện ra được tất cả những gì mà họ đã
chuẩn bị trước đó kể từ khi người bào chữa nhận được lời mời bào chữa
hoặc nhận được yêu cầu bào chữa cho đến khi mở phiên tòa xét xử. Giai
đoạn này người bào chữa có quyền đặt ra những câu hỏi cho bị cáo và
những người khác có liên quan đến vụ án như nguyên đơn, người bị hại,
người làm chứng…sao cho câu trả lời của những người được hỏi làm lợi
6


cho bị cáo. Khi tranh luận người bào chữa đưa ra các lập luận, các phân
tích, đánh giá và đưa ra các tình tiết, các chứng cứ gỡ tội mà trước đó người
bào chữa đã thu thập được nhằm bảo vệ bị cáo và đồng thời bác bác bỏ
những lời cáo buộc của người bào chữa phía bên kia hay của chính viện
kiểm sát.
+ Người bào chữa có quyền khiếu nại các quyết định, các hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong suốt quá

trình từ khi có quyết định điều tra cho đến khi kết thúc phiên tòa nếu người
bào chữa có căn cứ cho rằng cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có
những sai sót,có những hành vi vi phạm pháp luật có tính chất làm tăng
năng trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, kết tội cho
người vô tội…thì người bào chữa có quyền khiếu nại các quyết định, khiếu
nại các hành vi vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng để bảo vệ những
quyền lợi chính đáng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà đối với họ
những quyền đó là những quyền họ đáng được hưởng.
+ Người bào chữa cũng có quyền kháng cáo bản án, quyết định của
tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc bị cáo là người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất. Trong trường hợp này người bào chữa
hoàn toán có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án sao cho có lợi
nhất cho bị cáo mà không cần phải hỏi ý kiến của người đại diện hoặc thậm
chí cũng không cần hỏi ý kiến của bị cáo, đây là môt quyền độc lập mà
pháp luật chao cho người bào chữa khi người bào chữa xét thấy bản bán,
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật tuyên cho bị cáo nặng hơn so với
hành vi, so với tội mà bị cáo đã thực hiện. Đây cũng có thể coi là một chính
sách nhân đạo của nhà nước đối với người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần, thể chất, pháp luật cho họ thêm cơ hội có quyền khánh
bản án quyết định của tòa án thông qua người bàn chữa bởi thông thường
người bào chữa là người có kiến thức, có hiểu biết về pháp luật và đối với
những trường hợp người bào chữa là luật sư thì những người này họ có
7


trình độ chuyên môn cao, là chuyên gia về pháp luật nên hộ là những người
đủ khả năng, nhiều kinh nghiệm để bào chữa cho bị cáo, và họ cũng đủ
khảng năng để đoán biết, dự đoán tội của bị cáo là nặng nhẹ đến mức nào
để có thể đưa ra quyết định có kháng cáo bản án, quyết định của tòa án hay
không.

2.2 nghĩa vụ của người bào chữa
Người bào chữa có các nghĩa vụ theo quy định tại khỏa 3 Điều 58
BLTTHS năm 2003 như sau:
+ Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp theo quy đinh
của pháp luật để làm sáng tỏ các tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội hoặc
được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của
người bào chữa bởi mục đích của chế định người bào chữa là để bảo vệ bị
can, bị cáo bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị
cáo khỏi sự xâm hại của các cơ quan nhà nước tiến hành các hoạt động tố
tụng như hỏi cung, xét xử…
+ Người bào chữa có nghĩa vụ giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án. Đây cũng là một nghĩa
vụ của người bào chữa bởi trong quá trình tham gia vào vụ án để bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì người bào chữa có thể thực hiện các
hoạt động thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án. Pháp luật quy định
người bào chữa có nghĩa vụ đó với mục đích là để các cơ quan tiên hành tố
tụng có thêm các tài liệu, có thêm các căn cứ làm sáng tỏ được các tình tiết
của vụ án.
+ Người bào chữa có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đây là
nghĩa vụ cơ bản và quan trọng nhất của người bào chữa bởi thông thường
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người ít hiểu biết về pháp luật,
nhiều trường hợp họ không thể tự bào chữa cho mình được và nếu họ tự
bào chữa cho mình thì nhiều khi sự bào chữa đó của họ có nhiều sai sot vì
8


bản thân họ không biết chính xác quyền, nghĩa vụ của họ đến đâu để có thể
đưa ra lời bào chữa chính xác cho mình, chính vì thế mà yêu cầu cần thiết
phải có người bào chữa đủ khả năng về chuyên môn, có đủ lý lẽ để có thể

bào chữa cho những người là bị can, bị cáo, người bị tạm giữ.
Cũng cần nói thêm. Khi một người bị các cơ quan tiến hành tố tụng
bắt, đưa ra truy tố, bản thân họ rất hoang mang, tinh thần luôn trong tình
trạng căng thẳng, lo sợ, khi đó bản thân họ không đủ tỉnh táo để có thể tự
bào chữa cho mình được, chính vì thế mà yêu cầu được đặt ra là cần phải
có người khác bào chữa cho họ đề bào vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
họ.
+ Người bào chữa có nghĩa vụ có mặt theo giấy triều tập của tòa án;
tôn trọng sự thật và pháp luật; không được có các hành vi mua chuộc,
cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gián dối, cung cấp các tài liệu,
đồ vật sai sự thật. Khi nhận được giất triệu tập của tòa án, người bào chữa
phải có mặt theo đúng thời gian, địa điểm và có mặt kịp thời để có thể đưa
ra lời bào chữa cho người bị cáo và khi bào chữa người bào chữa cũng phải
thực hiện bào chữa theo đúng sự thật khách quan của vụ án, bào chữa theo
đúng các tình tiết của vụ án, không được thêm bớt các chứng cứ, các tình
tiết sai sự thật, mua chuộc người khác… hòng gỡ tội cho bị can, bị cáo.
+ Người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng các cơ quan tiến hành tố
tụng, phải giữ bí mật điều tra của cơ quan điều tra khi thực hiện hoạt động
bào chữa; không được sử dụng các tài liệu, đã ghi chép, sao chụp trong hồ
sơ vụ án vào mục đích xâm hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích của
người khác. Khi người bào chữa thực hiện các hành vi ghi chép, sao chụp
các tài liệu của cơ quan điều tra thì khi đó bàn thân người bào chữa đã biết
được các thủ pháp, nghiệp vụ điều tra của cơ quan điều tra, biết được các
tình tiết mới của vụ án, biết được về chứ cứ buộc tội cũng như chứng cứ có
thể ghỡ tội cho ngươi mà mình bào chữa…hoặc biết các bí mật để có thể
gây thiệt hại lợi ích cho một ai đó…nên đây là một nghĩa vụ bắt buộc, cần
9


thết mà người bào chữa phải thực hiện đúng để đảm bảo lợi ích chính đáng

cho những người khác trong đó có cả lợi ích của nhà nước.
+ Người bào chữa cũng không được từ chối bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không có lý do
chính đáng. Bởi khi người bào chữa nhận bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo rồi nhưng vì một lý do nào đó như bất bình với chính người mà
mình bào chữa hoặc bào chữa cho người khác được nhiều tiền công hơn…
nên không tiếp tục bào chữa nữa thì khi đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
sẽ bị thiệt thòi và các quyền, lợi ích hợp pháp của họ sẽ không được đảm
bảo. Ví dụ như: còn một ngày nữa là mởi phiên tòa xét sử bị can nhưng đột
nhiên người bào chữa đưa ra tuyên bố không bào chữa cho bị can đó nữa
với lý do người bào chữa bận đi nghỉ mát với gia đình, nếu như vật thì
trong một khoảng thời gian ngắt là một ngày nữa bị can kia khó có thể tìm
được một người khác thay thế bào chữa cho mình và nếu có tìm được thì
quyền của bị can đó cũng không được đảm bảo vì người bào chữa mới kia
chưa nắm được nội dung, các tình tiết gỡ tội cho bị can…như vậy thì quyền
và lợi ích của bị can sẽ không được bảo đảm và rất dễ bị xâm hại, gây thiệt
thòi cho bị can.
3. Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyều và nghĩa
vụ của người bào chữa
Mặc dù pháp luật quy định chế định về người bào chữa, cho phép
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền mời người khác bào chữa cho
mình và mục đích của chế định về người bào chữa là để bảo vệ quyền và
lợi ích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cao nhưng khi áp dụng chế định này
vào thực tiễn nó đã bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế từ đó dẫn đến các
quyền và lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không
được bảo đảm và nhiều khi là các quyền và lợi ích chính đáng của họ bị
chính các cơ quan tiến hành tố tụng xâm hại.
Chế định về người bào chữa có một số nhược điểm, hạn chế sau:
10



Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là Luật
sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và bào
chữa viên nhân dân. Như vậy, về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể
tư pháp có tư cách của người bào chữa trong TTHS. Tuy nhiên, trong thực
tiễn TTHS ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách bào chữa,
các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy
định cụ thể, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn
khi xem xét và cấp giấy chứng nhận bào chữa cho các đối tượng này, việc
cấp hay không cấp giấy chứng nhận bào chữa cũng gây rất nhiều tranh cãi.
Mặt khác, tuy có một số người tham gia với tư cách bào chữa viên nhân dân
và có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận tổ quốc, nhưng nhìn
chung chất lượng hành nghề của phần đông những người này không cao,
gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp
luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kĩ năng hành nghề trong
tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong các tổ chức hành nghề
luật sư chuyên nghiệp nên việc những người này tham gia tố tụng trong các
vụ án hình sự trên thực tế là rất ít, hãn hữu mới có người được tòa án chấp
nhận tư cách bào chữa. Như vậy trong thời gian tới pháp luật cần hoàn
thiện các quy định của Luật TTHS về người bào chữa theo hướng:
+ Thứ nhất: cần xây dựng các quy định pháp luật cụ thể để hướng
dẫn việc thi hành điểm b khoản 1 điều 56 BLTTHS theo hướng quy định
các trường hợp nào thì người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, nguyên tắc
và trình tự thủ tục thực hiện quyền bào chữa của đối tượng này.
+ Thứ hai: nên bỏ quy định tại điểm c khoản 1 điều 56 BLTTHS
bởi hiện nay, cùng với việc thực thi Luật Luật sư năm 2006, Liên đoàn luật


11


sư Việt Nam ra đời đã khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của đội ngũ Luật
sư Việt Nam, hướng tới việc xây dựng một đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp
thực hiện các phạm vi hành nghề tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ
pháp lý phủ kín các mặt của đời sống xã hội. Trong khi đó đội ngũ bào
chữa viên nhân dân thì yếu kém, thiếu sự chuyên nghiệp và thiếu hiểu biết
pháp luật và ít được công nhận khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự,
do vậy nên bỏ quy định về bào chữa viên nhân dân để việc tham gia tố tụng
của người bào chữa trở nên chuyên nghiệp hơn. Cụ thể sửa chữa khoản 1
điều 56 thành: “1. Người bào chữa là: a. Luật sư; b. Người bào chữa có thể
không phải là luật sư nhưng có khẳ năng chuyên môn trong bào chữa và
những người đó được các cơ quan tiến hành tố tụng công nhận là người
bào chữa.”
+ Thứ ba: Vấn đề từ chối người bào chữa được quy định tại đoạn 2
khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 cần hoàn thiện thêm vì quy định như
vậy còn có bất cập, không hợp lý. Việc không phân biệt quyền từ chối
người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và điểm b
khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng
được quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b.
Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và
đầy đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng
và hậu quả có thể xảy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho
họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người bào chữa là hợp lý. Còn
những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ trình
độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm
khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ có nhận thức
được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay
không? Với những ý kiến nói trên, cần phải sửa đổi, bổ sung đoạn 2 khoản

2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 như sau: “Những trường hợp được quy định

12


tại điểm a khoản 2 điều này sau khi người bào chữa tham gia bào chữa bị
can, bị cáo vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa;
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 điều này thì bị can, bị cáo và
người đại diện hợp pháp của họ sau khi người bào chữa tham gia bào chữa
vẫn có quyền yêu cầu thay đổi người bào chữa và nếu họ từ chối người bào
chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản ghi rõ lý do từ chối
trước khi quyết định”. Bên cạnh đó cần mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc
đối với bị can, bị cáo bị xử lý về tội có khung hình phạt lên đến 20 năm tù.
+ Thứ tư: Điều 58 BLTTHS quy định người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi khởi tố bị can, trong trường hợp bắt người theo quy định tại
điều 81 và điều 82 BLTTHS thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ. Tuy nhiên quy định này lại chưa đề cập tới thời điểm
kết thúc vai trò của người bào chữa trong vụ án hình sự, do vậy nên bổ sung
khoản 1 điều 58 BLTTHS thành: “1.Người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi khởi tố bị can và kết thúc khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không còn
yêu cầu người bào chữa cho họ. Trong trường hợp bắt người theo quy định
tại điều 81 và điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng
từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết
định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
+ Thứ năm: Các quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Các điều
48,49, 50 BLTTHS), cần quy định cụ thể về quyền của họ được giải thích
quyền được yêu cầu có người bào chữa ngay khi bị bắt và có quyền im lặng
khi không có sự tham gia của người bào chữa. Hiện nay Bị cáo phản cung
với lý do bị bức cung, ép cung, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các

phiên tòa ở Việt Nam, làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ
tọa không cho họ nói thì là thiếu dân chủ, không khách quan… Sở dĩ có
tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng hình sự chưa có quy định “cơ
13


chế cứng” tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia từ giai đoạn điều tra,
có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra người bào
chữa chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác
không có mặt người bào chữa. Về nguyên tắc, khi người bào chữa tham gia
vụ án được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị
được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì
những hoạt động này bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa mới
có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất
mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải
được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật
sư bào chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy,
nhưng bản cung buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật
sư (mặc dù Điều 305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ
định luật sư) nhưng họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn
từ chối luật sư trong khi họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định luật sư
thì bản cung lại được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản
cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Thiết nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà
lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải
quyết thấu đáo.
+ Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra,
truy tố mà không có sự tham gia của người bào chữa thì không được công
nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện
nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị
cáo có quyền từ chối công khai nếu vắng mặt người bào chữa. Sự có mặt

của người bào chữa trong các buổi lấy cung có 2 ý nghĩa: giám sát, không
để xảy ra việc ép cung, bức cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng
phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung
đã có người thứ ba chứng kiến.

14


+ Thứ sáu: Bộ luật TTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập
chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho phép luật
sư chỉ thu thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
những người thân thích của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật
quốc gia, bí mật công tác. Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở
những người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người
khác có lưu giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi cho họ. Mặt
khác theo quy định của BLTTHS thì người bòa chữa có quyền thu thập, sử
dụng và đánh giá tài liệu, chứng cứ nhưng BLTTHS lại quy định người bào
chữa phải có trách nhiệm “giao các tài liệu, chứng cứ này cho cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, tòa án”. Nhưng trong nhiều trường hợp các cơ quan tiến
hành tố tụng đã bỏ qua các tài liệu, chứng cứ đó, khiến cho quyền này của
luật sư bị vô hiệu. Do đó nên sửa đổi bổ xung về quyền thu thập, sử dụng,
đánh giá tài liệu chứng cứ của luật sư theo hướng luật sư có thể lựa chọn
thời điểm đưa ra các tài liệu, chứng cứ mà mình thu thập được để phục vụ
cho việc tiến hành tố tụng và yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng thẩm
định tính chân thực của các tài liệu chứng cứ đó.
+ Thứ bẩy: Để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa hoàn chỉnh
hơn, nên bổ sung vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều
tra và” vào sau cụm từ “người bào chữa làm trái pháp luật…” nhằm đảm
bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia
tố tụng. Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham

gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc
biệt nghiêm trọng. Nếu vẫn quy định chung chung là không được tiết lộ bí
mật điều tra mà không kèm theo quy định khả năng áp dụng chế tài nếu có
sự vi phạm thì cơ quan điều tra e ngại và cho việc giữ bí mật điều tra là cái
cớ để không tạo điều kiện để người bào chữa tham gia khiến cho quy định
đó thiếu tính khả thi.

15


BLTTHS cũng cần quy định các chế tài cụ thể đối với các hành vi
cản trở của các điều tra viên cũng như của cơ quan điều tra đối với sự tham
gia của người bào chữa…

KẾT LẬN
Hiện nay pháp luật quy định cho người bào chữa có nhiều quyền hạn
hơn nhưng khi áp dụng vào thực tế thì tính khả thi của chế định người bào
chữa vẫn chưa có sức thuyết phục, chưa sát với thực tế, nhiều quyền hạn
của người bào chữa chỉ mang tính hình thức, mang tính thủ tục khiến quyền
lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được bảo đảm và cũng chính
vì thế mà xảy ra nhiều trường hợp bản án, quyết định của tòa án bị kháng
cáo, kháng nghị gây tốn kém, mất thời gian và quan trọng là làm giảm uy
tín của các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là của tòa án.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Nxb. Tư pháp; Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
Nxb. Lao Động

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự:

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:

BLTTHS 2003

Tố tụng hình sự:

TTHS

Nhà xuất bản:

Nxb

17



×