Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lý của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.01 KB, 12 trang )

Nội dung
Trang

Lời mở đầu
Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, nó thể hiện ý
chí của quyền lực nhà nước.1 Quyết định hành chính được ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ pháp luật hành chính phát sinh trong lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 2008, thì văn bản văn bản quy phạm pháp luật nói riêng và văn bản
pháp luật nói chung khi được ban hành cần phải bảo đảm hai yếu tố đó là bảo
đảm tính hợp pháp và hợp lý.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một dạng của quyết định hành
chính, vì vậy mà khi nó được ban hành cũng cần phải đảm bảo tính hợp pháp
và hợp lý. Tính hợp pháp của quyết định hành chính được thể hiện là phải
được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền, không trái với Hiến pháp và
luật, không trái với văn bản của các cơ quan hành chính cấp trên, phải được
ban hành đúng trình tự thủ tục luật định.
Tính hợp lý các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Sau đây sẽ là phần trình
bày của em về Đánh giá tính hợp lý của các quy định hiện hành về thẩm
quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
1 Tr.170, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008

1


1.Những vấn đề lý luận chung
Quyết định hành chính nói chung được ban hành bởi các chủ thể quản lý
hành chính với mục địch là mong muốn trật tự quản lý hành chính sẽ được
như mong muốn, ý định của các chủ thể này. Tuy nhiên không phải lúc nào
một quyết định hành chính được ban hành, dù đúng pháp luật nhưng cũng đã


hợp lý. Một quyết định hành chính được coi là hợp lý khi nó được ban hành
phù hợp và có khả năng điều chỉnh các quan hệ hành chính nảy sinh.
1.1.Tính hợp lý của quyết định hành chính
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì một quyết định hành chính
được coi là hợp lý thì nó thỏa mãn các điều kiện sau:
Một là, phải tính đến yêu cầu tổng thể bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà
nước, tập thể và cá nhân. Yêu cầu này đòi hỏi sự cân đối hợp lý giữa lợi ích
Nhà nước và xã hội, coi lợi ích Nhà nước và lợi ích chung của công dân là tiêu
chí để đánh giá sự hợp lý của quyết định hành chính.
Hai là, phải có tính cụ thể và phù hợp với từng vấn đề và với các đối tượng
thực hiện. Quyết định cần xác định cụ thể các nhiệm vụ, thời hạn, chủ thể,
phương tiện để thực hiện.
Ba là, phải xem xét hiệu quả không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị - xã
hội, cả mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa hậu quả trực tiếp và gián tiếp, kết
quả trước mắt và kết quả cuối cùng. Các biện pháp được đề ra trong quyết
định phải phù hợp đồng bộ với biện pháp trong quyết định có liên quan.
Bốn là, bảo đảm kỹ thuật lập quy, tức là ngôn ngữ, văn phong, cách trình
bày phải rõ ràng, dể hiểu, ngắn ngọn, chính xác, không đa nghĩa.
Hơn nữa giữa tính hợp pháp và hợp lý phải đảm bảo hài hòa với nhau.
Trong thực tiễn quản lý hành chính đã có nhiều quyết định được ban hành tuy
đã hợp lý nhưng lại chưa hợp pháp vì thực tế pháp luật thay đổi quá chậm
2


chạp với thực tiễn. Tuy nhiên đây trường hợp này cần phải được nghiên cứu
thật kỹ càng vì nếu hợp lý mà không hợp pháp sẽ dẫn đến tình trạng lạm
quyền và không đạt được mục đích quản lý hành chính
1.2.Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, vì mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi chưa không lớn bằng tội phạm. Như vậy có thể hiểu rằng: “Vi phạm
hành chính là hành vi do tổ chức hoặc cá nhân, được thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý xâm phạm đến trật tự quản lý hành hành chính nhà nước và bị xử
phạt vi phạm hành chính (Điều 1 – Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính
1989).
Mặc dù các pháp lệnh 1995, pháp lệnh 2002 và pháp lệnh sửa đổi bổ sung
năm 2007 và 2008 đều không đưa ra khái niệm thế nào là vi phạm hành
chính như nhìn chung lại có thể đưa ra một nhận xét rằng, vi phạm hành
chính được thực hiện bởi các tổ chức (khác với tội phạm thì chủ thể chỉ có thể
là cá nhân), cá nhân thực hiện cố ý hoặc vô ý xâm phạm pháp luật về trật tự
quản lý hành chính nhà nước thì bị xử phạt vi phạm hành chính.
1.3.Xử phạt vi phạm hành chính
Là chế tài của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền về ra quyết định xử
phạt đối với đối tượng vi phạm hành chính. Căn cứ vào Pháp lệnh xử phạt vi
phạm hành chính năm 2002, sửa đổi 2008 và các văn bản pháp luật khác thì
các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định xử phạt và kèm theo đó là các biện
pháp cưỡng chế thi hành.
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải đảm bảo các nguyên tắc là phải
được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền, theo những nguyên tắc và
trình tự nhất định. Việc áp dụng việc xử phạt đúng các nguyên tắc này sẽ bảo
đảm cho trật tự quản lý hành chính được hiệu quả.
3


Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định của Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính 2002, sửa đổi 2008 thì có hai hình thức xử phạt
chính là: phạt cảnh cáo và phạt tiền 2. Tuy nhiên hình phạt trục xuất có thể
được coi là hình phạt chính nhưng lại được áp dụng tùy trường hợp, có thể
cũng là hình phạt bổ sung. Hình phạt bổ sung bao gồm các quy định tại khoản
2, Điều 12 Pháp lệnh: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm.
1.4.Về thẩm quyền
Theo quy định của Pháp lệnh thì có rất nhiều chủ thể có thẩm quyền ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính. Bao gồm các chủ thể là; Ủy ban nhân dan
các cấp, Cơ quan Công an, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, cơ quan hải quan,
cơ quan kiểm lâm, cơ quan thuế, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thanh
tra chuyên ngành, Giám đốc cảng vụ hàng hải, Giám đốc cảng vụ hàng không,
giám đốc cảng vụ thủy nội địa, tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án dân
sự, Ủy ban chứng khoán, Hội đồng cạnh tranh, Cơ quan đại diện ngoại giao và
lãnh sự, Cục quản lý lao động ngoài nước3. Ngoài ra còn có các chủ thể được
ủy quyền4. Tương ứng với thẩm quyền của các cơ quan trên là mỗi cán bộ
công chức của cơ quan đó có thẩm quyền phạt như thế nào. Ví dụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã chỉ được phạt tối đa là 2 triệu đồng 5, hay như chiến sĩ
cảnh sát chỉ được phạt vi phạm tối đa là 200 nghìn đồng 6…
Theo quy định hiện hành thì các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định xử
phạt phải căn cứ vào thẩm quyền của mình, như Chủ tịch Ủy ban nhân dân

2 Khoản 1, Điều 12 Pháp lệnh
3 Từ Điều 28 đến Điều 40 của Pháp lệnh
4 Điều 41, Pháp lệnh
5 Khoản 2, Điều 28 Pháp lệnh
6 Điểm b, khoản 1 Điều 31

4


cấp xã chỉ có quyền xử phạt trong phạm vi địa phương hoặc cán bộ thuế chỉ
được xử phạt trong phạm vi ngành.
1.5.Về thủ tục
Hiện nay các quy định về thủ tục xử phạt VPHC được quy định chủ yếu tại

Chương VI Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2002 (Pháp
lệnh năm 2002) được sửa đổi, bổ sung năm 2008. Để cụ thể hóa một số quy
định của pháp luật hiện hành, Chính phủ ban hành Nghị định số
128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục xử phạt bao gồm
các nội dung chủ yếu sau: đình chỉ hành vi vi phạm; lập biên bản vi phạm (trừ
trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản, tức là thủ tục không phải lập biên
bản); ban hành quyết định xử phạt; thi hành quyết định xử phạt; tổ chức
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp đối tượng bị xử
phạt không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt.
2.Thực tiễn áp dụng
2.1.Kết quả đạt được
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Trong thời gian vừa qua việc
xử phạt vi phạm hành chính đã cơ bản đảm bảo đúng thẩm quyền. Ví dụ như
Quyết định xử phạt số 131/QĐ-XPVP của Thanh tra Bộ tài nguyên và môi
trường đối với hành vi xả chất thải ra môi trường của công ty Vê-đan Việt
Nam là 267, 5 triệu đồng7, đây là điều hoàn toàn phù hợp với quy định của
Pháp lệnh8. Hay như Quyết định xử phạt số 0104316/QĐ-XPVP của Chi cục
quản lý thị trường thành phố Hà Nội đã phạt công ty Đông Nam dược Bảo
Long với số tiền là 30 triệu đồng9…
7 />8 Mức phạt tại điểm đ khoản 2, Điều 14 thì tối đa là 500 triệu đồng trong lĩnh vực môi trường
9 />
5


Hơn nữa, chủ thể có thẩm quyền xử phạt đã được thực hiện khá đầy đủ,
theo như quy định trong Pháp lệnh và Nghị định 34/2010 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Ví dụ; chiễn
sĩ cảnh sát giao thông chỉ có thể được phép xử phạt tối đa là 200 nghìn đồng,
nếu vượt quá mức này thì chỉ có thể được lập biên bản, còn quyết định xử

phạt phải do người có thẩm quyền quyết định.
Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: Đối với những vi phạm nhỏ cơ bản
các chủ thể có thẩm quyền thường ra quyết định xử phạt không cần lập biên
bản mà mức phạt tối đa 200 nghìn đồng, đây là một mức phạt không quá cao,
căn bản đáp ứng được các yêu cầu quản lý, việc áp dụng thủ tục đơn giản tạo
điều kiện cho các chủ thể có thể dễ dàng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình.
Việc xử phạt có lập biên bản đã cơ bản góp phần giúp cho quyết định hành
chính được bảo đảm thực thi, tránh việc các chủ thể có thể lạm quyền. Ví dụ
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông, thì sau khi lập
biên bản vi phạm thì được chuyển đến chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
xử phạt. Số tiền nộp phạt được nộp tại kho bạc nhà nước và do người vi phạm
nộp.
2.2.Một số tồn tại và nguyên nhân.
*Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Người có thẩm quyền, Pháp lệnh đã liệt kê quá nhiều chủ thể có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính (từ Điều 28 đến 40). Việc liệt kê như vậy
đã làm mất ổn định của văn bản quy phạm. Việc liệt kê này thực sự là chưa
đầy đủ và cũng không cần thiết phải liệt kê quá nhiều như vậy. Như theo quy
định của pháp luật hành chính thì người chỉ huy tàu bay, tàu biển mang quốc
tịch Việt Nam là chủ thể quản lý hành chính nhưng lại không thấy là chủ thể
có được quy định trong Pháp lệnh này. Hơn nữa việc ủy quyền xử phạt vi
6


phạm hành chính thực sự không khả thi, vì việc ủy quyền này chỉ trong ngắn
hạn, hết thời hạn đó thì liệu việc xử phạt vi phạm có thể được tiến hành nữa
được không. Việc một chủ thể ra quyết định xử phạt vi phạm phải nhân danh
nhà nước, quyền lực được nhà nước trao, còn một khi ủy quyền tức là quyền
lực được trao lại, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc xử phạt.

Thẩm quyền ra quyết định xử phạt, Pháp lệnh chỉ quy định hành vi vi
phạm nào được thực hiện ở địa phương, hoặc ngành lĩnh vực nào đó thì địa
phương hoặc ngành đó được phép xử phạt. Một sự chưa hợp lý ở đây là chưa
tính đến việc vi phạm ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo quy định tại
Điều 28, Pháp lệnh thì Chủ tịch Ủy ban Nhân dân có thể xử phạt tối đa là 2
triệu đồng, đây là một sự giới hạn thẩm quyền, vì thẩm quyền xử phạt đi đơi
với việc ra các biện pháp ngăn chặn, nếu như phải chờ đợi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định xử phạt thì sẽ không bảo đảm được tính hiệu quả của
việc xử phạt vi phạm hành chính. Ngoài ra việc tước giấy phép và chứng chỉ
hành nghề cũng chưa hợp lý, về chủ thể có thẩm quyền tước. Có quan điểm
cho rằng cần phải quy định việc ai cấp giấy phép hay chứng chỉ hành nghề thì
có thẩm quyền tước, tuy nhiên những chủ thể này lại không được quy định
trong Pháp lệnh.
Thẩm quyền về từng trường hợp vi phạm, Theo quy định của Pháp lệnh
thì trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm khác nhau thì sẽ
áp dụng theo khoản 3, Điều 42. Tuy nhiên có một quy định chưa hợp lý đó là
nếu thuộc thẩm quyền của các ngành khác nhau thì thuộc Ủy ban nhân dân,
nhưng nếu ở trên phạm vi nhiều tỉnh thành thì sẽ do ai ra quyết định xử phạt?
Đây là một điểm thiếu của Pháp lệnh.
* Thủ tục xử phạt vi phạm
Về thủ tục đơn giản, mức tiền được xử phạt theo thủ tục đơn giản là
200.000 đồng vẫn còn thấp, nhiều vụ vi phạm chưa thể xử phạt theo thủ tục
7


này vì quá nhẹ. Hơn nữa, xu hướng chung là các nghị định quy định xử phạt
đều nâng mức phạt tiền, mức 200.000 đồng thực sự không có ý nghĩa.
Về thủ tục lập biên bản, theo quy định hiện hành nếu người vi phạm không
kí tên vào biên bản thì phải ghi rõ lí do vào biên bản. Thông thường việc vi
phạm hành chính diễn ra thông thường là khá nhanh, chẳng hạn như hành vi

vượt đèn đỏ trong lĩnh vực giao thông thì việc xác minh được sự việc khi có
khiếu nại quả thực không dễ dàng, nếu có người làm chứng thì thông thường
cũng là một người mà sự việc họ cũng không biết, ví dụ như người tham gia
giao thông thì chưa chắc họ đã biết có hành vi vi phạm trên thực tế hay
không, điều này dẫn đến hiệu quả của việc xử phạt không đạt hiệu quả cao.
Về thủ tục thi hành, Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cũng chưa thật
sự hợp lý đối với việc áp dụng phạt vi phạm có lập biên bản: Điều 62 quy định
trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc thi hành quyết định cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt VPHC. Theo đó, nếu ngân hàng, tổ chức tín dụng
không trích chuyển số tiền theo quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt VPHC thì sẽ bị phạt số tiền tương ứng với số tiền không trích chuyển vào
ngân sách nhà nước, nhưng tối đa không quá 500 triệu đồng. Như vậy, nếu
tổng hợp các vi phạm mà quá 500 triệu thì sẽ ra sao, đây cũng là một thiếu
sót của Pháp lệnh. Hơn nữa việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm không phải là việc dễ dàng, việc cưỡng chế thi hành trong thực tế gặp
rất nhiều khó khăn như từ sự không hợp tác của người vi phạm, trách nhiệm
của chính quyền các cấp chưa cụ thể…
3.Một số kiến nghị
3.1.Về thẩm quyền
Việc Pháp lệnh liệt kê các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm vô hình
chung đã giới hạn việc xử phạt vi phạm. Vì vậy, trong thời gian tới với việc
8


ban hành Luật xử phạt vi phạm hành chính cần phải sửa đổi theo hướng
không nên liệt kê chính xác các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm mà đi
theo hướng là các chủ thể này được quy định tại các văn bản dưới luật như
các Nghị định, thông tư liên tịch. Luật chỉ cần quy định chung về thẩm quyền
của ngành, lĩnh vực, thẩm quyền của địa phương. Hơn nữa việc quy định
thẩm quyền về vi phạm ở nhiều địa phương khác nhau cần phải có một quy

định thống nhất và cụ thể hơn nữa.
Vấn đề áp dụng hình thức xử phạt là trục xuất lại bộc lộ một vấn đề, Bộ
trưởng Bộ Công an áp dụng hình phạt vi phạm là trục xuất nhưng lại không
có quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Vì vậy cần phải có quy
định về thẩm quyền của Bộ trưởng ràng hơn, trách nhiệm của công an cấp
tỉnh, cục quản lý xuất nhập cảnh trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Bổ sung thêm chủ thể có thẩm quyền cấp giấy phép và chứng chỉ hành
nghề cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Đây là một yêu cầu
cần thiết , tạo điều kiện tốt hơn cho việc quản lý cấp giấy phép và chứng chỉ
hành nghề.
3.2.Về thủ tục
Cần nâng mức tiền phạt tối thiểu không cần lập biên bản – thủ tục không
lập biên bản lên cao hơn, vì đa phần các văn bản dưới Pháp lệnh hiện hành thì
mức xử phạt cũng trên 200 nghìn đồng, thì việc áp dụng vào sẽ không đem lại
hiệu quả.
Vấn đề chứng minh trong việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản
cũng phải được quy định cụ thể. Trách nhiệm chứng minh thuộc về chủ thể ra
quyết định xử phạt, các tình tiết, chứng cư cũng cần phải được quy định cụ
thể.

9


Đối với xử phạt vi phạm có lập biên bản thì mức phạt tối đa hiện hành là
500 triệu đồng, chính điều này đã tạo ra sự chưa hiệu quả trong xử phạt vi
phạm. Cần quy định mức tối đa có thể cao hơn, theo như Dự thảo Luật xử lý vi
phạm hành chính thì mức phạt tối đa là 2 tỷ đồng thì đã cơ bản phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội. Đủ sức răn đe các chủ thể vi phạm.
Thủ tục thi hành các quyết định xử phạt cũng cần được quy định rõ ràng,
việc miễn với đối tượng là hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn là cần thiết. Quy

định chế tài thêm với các chủ thể cố tình không thi hành quyết định xử phạt vi
phạm. Biện pháp cưỡng chế thi hành cũng phải được quy định rõ ràng, trách
nhiệm của chính quyền các cấp, các bộ ngành trong việc bảo đảm hiệu quả
của việc cướng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Kết luận chung
Xử phạt vi phạm hành chính với mục đích đảm bảo cho trật tự quản lý
hành chính được hiệu quả. Để bảo đảo cho việc xử phạt vi phạm hành chính
được phù hợp thì đó phải là quyết định được ban hành một cách hợp lý, “hợp
tình”. Sự hợp lý của một quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thước đo
cho hiệu quả của quản lý hành chính. Mục đích của việc xử phạt vi phạm hành
chính là việc “nhắc nhở” các chủ thể khác và răn đe chủ thể vi phạm.

Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công

2.

an nhân dân, Hà Nội, 2008
Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.

3.
4.

Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005;
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008);
10



5.

Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung

6.

năm 2007, 2008
Nghị địn số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 02/04/2010 về xử phạt vi

7.

phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Bài viết của Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, tác giả Trương Khánh Toàn,
( />
8.

Bài viết Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, của
ThS. Nguyễn Mạnh Hùng ( />
9.

pham-hanh-chinh)
Bài viết Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Dự án Luật Xử lý vi
phạm hành chính, tác giả Nguyễn Thanh Hà
( .

11




×