Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.63 KB, 19 trang )

A. Cơ sở pháp lý:
I. Khái niệm thừa kế theo di chúc:
- Định nghĩa: Là việc những người còn sống được hưởng di sản của người
chết dựa vào ý chí của người để lại di sản thông qua di chúc.
- Đặc điểm:
+ Về ý chí của người để lại di sản: Trong thừa kế theo di chúc thì việc dịch
chuyển di sản phụ thuộc vào ý chí của người để lại thừa kế được thể hiện
thông qua di chúc mà họ để lại.
+ Về chủ thể được hưởng di sản: Chủ thể được hưởng thừa kế theo di chúc
có thể là bất kỳ ai, bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, không bị hàn chế trong
phạm vi quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng và hôn nhân.
+ Về kỷ phần di sản được hưởng: Do pháp luật tôn trọng ý chí của người để
lại di sản nên kỷ phần di sản được hưởng theo di chúc phụ thuộc ý chí người
lập chúc (Trừ Điều 669 BLDS năm 2005 quy định những người được hưởng
di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc)
Tóm lại, có thể hiểu thừa kế theo di chúc là sự quy định của pháp luật
để xác định khi nào việc dich chuyển di sản của người đã chết cho người còn
sống được thực hiện theo di chúc. Và việc thực hiện thừa kế theo di chúc
phải tuân thủ theo ý chí định đoat của người để lại di sản khi ý chí ấy phù
hợp với các quy định của pháp luật.
II. Điều kiện phát sinh thừa kế theo di chúc:
Quan hệ thừa kế theo di chúc cũng là một loại quan hệ thừa kế nên nó
có đầy đủ các điều kiện phát sinh của một quan hệ thừa kế. Ngoại những
điều kiên để làm phát sinh quan hệ thừa kế nói chung thì để phát sinh quan

1


hệ thừa kế theo di chúc cần có các điều kiện riêng của nó. Cụ thể tổng hợp
các điều kiện làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc như sau:
- Phải có người để lại di sản: Tức là người có tài sản sau khi chết để lại cho


người còn sống theo ý chí của họ được thể hiện thông qua di chúc.
- Quan hệ thừa kế phát sinh khi có sự kiện một người chết đi, sự kiện này
đóng vai trò là một sự biến pháp lý làm phát sinh một hay nhiều quan hệ
pháp luật trong đó có quan hệ thừa kế.
- Phải có một khối tài sản nhất định của người chết để lại cho những người
còn sống gọi là di sản.
- Phải có người thừa kế, tức là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật.
- đặc thù đó là phải có di chúc được thể hiện dưới dang văn bản học băng
miệng.
B. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc:
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thừ VI năm 1986, đánh dấu mốc quan
trọng chuyển sang thời kỳ đổi mới đến nay đã trải quà hơn 25 năm đất nước
ta có nhiều biến chuyển tính cực về mọi mặt, từng bước tiến hành công
nghiệp hóa hiện đại hóa, đây mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế
giới.Tuy vậy, chúng ta cũng gặp không ít những vấn đề về kinh tế, xã hội
ảnh hưởng đến đới sống xã hội nói chung và đến đời sống dân sự nói riêng
trong đó có thừa kế - một lĩnh vực rất nhạy cảm vốn chụi tác động chủ yếu
của lối sống, đạo đức, phong tục tập quán. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát
sinh của xã hội, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà cụ thể là BLDS năm 1995 và tiếp đến là BLDS
năm 2005 cùng với một hệ thống các văn bản có liên quan. Đồng thời cũng
2


chú trọng tới yếu tố con người, tăng cường đào tạo nâng cao về mặt chuyên
môn, nghiệp vụ bồi dưỡng phẩm chất, tư cách, đạo đức cho đội ngũ cán bộ
tư pháp. Như vậy, đã tạo điều kiên thuận lợi cho công tác xét xử nói chung
và công tác giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc nói riêng làm tiền
đề cho những kết quả tích cực đạt được trong công tác xét xử.

Bên cạch những kết quả tích cực đạt được thì cũng còn không ít những
tồn tại, sai lầm dẫn tới tình trạnh tranh chấp, khiếu kiến kéo dài vừa gây tốn
kém tiền bạc, thơi gian của những người có lien quan, gấy quá tải cho các
Tòa án dân sự, tạo ra nhiều tiêu cực.
Sau đây là những phân tích về những nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động giải quyết tranh
chấp về thừa kế theo di chúc cùng với những trường hợp tranh chấp cụ thể
để thấy rõ được thực trạng hiện nay.
I. Nguyên nhân của những tồn tại:
1. Nguyên nhân chủ quan:
Một trong những đặc điểm cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật nói
chung và hoạt động giải quyết tranh chấp về thừa kế nói riêng là phụ thuộc
vào ý trí đơn phương của người áp dụng pháp luật. Do vậy trong hoạt động
giải quyết tranh chấp về thưa kế thì vị trí, vai trò của đội ngũ thẩm phán rất
quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động xét xử.
Tuy nhiên một số ít thẩm phán chưa tích cực nghiên cứu, học hỏi
những quy định mới của pháp luật, các nghị quyết, hướng dẫn áp dụng pháp
luật của Tòa án nhân dân tối cáo và lien ngành pháp luật trung ương để vận
dụng trong công tác xét xử. Tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện
nhiệm vụ được phân công của số ít thẩm phán chưa cao, chưa thận trọng khi

3


thực hiện nhiệm vụ được giao. Trình độ, kỹ năng của một số vị thẩm phán
chưa tưỡng xứng với vị trí, trức trách mình đảm nhiệm. Ngoài ra vẫn còn tồn
tại những tiêu cực như hối lộ và nhận hối lộ dẫn tới việc những tranh chấp
về thừa kế kéo dài qua nhiều cấp xét xử gây tốn kém cả về vất chất và thời
gian. Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao ngày 9/8/2010:
Năm 2009, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy do nguyên nhân chủ quan là

1,42%, bị sửa do nguyên nhân chủ quan là 1,91%. So với năm trước, tỷ lệ
bản án, quyết định bị hủy do nguyên nhân chủ quan tăng 0,14%, bị sửa ra
nguyên nhân chủ quan giảm 0,39%. Để làm rõ cho thực trạng này chúng ta
cùng xét trường hợp thực tiễn sau đây.
Ông Lương Văn Kim và bà Ninh Thị Ngát kết hôn năm 1973. Năm
1975, ông Kim bị bệnh thần kinh nên thường xuyên đánh đập, vất đồ ra
đường và hành hạ bà Ngát. Quá khổ cực, nghe lời khuyên của người dì
chồng là bà Lê Thị Việt, bà Ngát tạm thời “lánh nạn” về Đồng Nai và
thường xuyên đi về chăm sóc ông Kim. Ngày 12/10/1975, bà Ngát sinh con
gái là Lương Thị Kim Ngọc tại Đồng Nai được UBND xã Bùi Tiếng (nay là
phường Tân Mai) lập Giấy khai sinh ghi rõ Ngọc là con của ông Kim và bà
Ngát. Vì không chịu nổi sự ngược đãi của người chồng bị bệnh thần kinh,
năm 1976 bà Ngát mới chuyển hẳn xuống Đồng Nai sinh sống. Theo lời kể
của hàng xóm nhà ông Kim thì sau khi bà Ngát đi, ông vẫn đi bán kem và vé
số. Chỉ khoảng 2-3 năm trước ngày mất, ông Kim mới phát bệnh nặng,
không đi lại được, phải nhờ chị ruột là bà Lương Thị Thính và các cháu giúp
đỡ. Bà Ngát có gửi tiền về cho ông Kim qua bà Ngoan, bà Ngoan đưa cho
ông Nguyễn Kim Động Tổ trưởng tổ dân phố để đưa cho ông Kim. Sau một
đêm ông Kim đã gặp ông Động và đưa lại tiển để trả lại cho bà Ngát nuôi
con. Ngày 26/01/2010, ông Kim qua đời, mẹ con bà Ngát về chịu tang hơn 2

4


tháng. Trong quá trình chung sống ông Kim, bà Ngát tạo lập được một khối
tài sản là căn nhà cấp 4 trên diện tích đất 180,5 m2 tọa lạc xóm Cam Ly,
phường 5, Đà Lạt đã được cấp GCNQSHN đứng tên ông Kim và 211m2 đất
nông nghiệp chưa được cấp GCNQSDĐ.
Sau khi ông Kim mất, bà Thính đã đến Phòng Công chứng số 1 Lâm
Đồng khai nhận thừa kế nhà đất của ông Kim, Phòng Công chứng đã ra

Thông báo số 24 ngày 23/02/2010 nếu sau 30 ngày không có ai tranh chấp
thì mới giải quyết cho bà Thính theo pháp luật. Tuy nhiên, cũng trong ngày
này, bà Thính đã lập di chúc để lại toàn bộ tài sản nhà đất của ông Kim cho
các con của bà là: Đinh Thị Bích Huệ, Đinh Thúy Hồng, Đinh Thị Bích Đào,
Đinh Hùng Cường, Đinh Thị Thúy Hoa, Đinh Đức Hiệp, Đinh Thị Tuyết
Nhung và được Phòng Công chứng chứng thực. Sau khi bà Thính mất, bà
Huệ đã dùng 2 văn bản nói trên đến UBND phường 5 yêu cầu sang tên toàn
bộ nhà đất của ông Kim cho bà Huệ và các đồng thừa kế. Mẹ con bà Ngát
phát hiện được đã yêu cầu chính quyền địa phương tạm dừng và kiện ra
TAND TP Đà Lạt để nhờ phân xử.
Ngày 24/9/2012, tại Bản án sơ thẩm số 63 TAND TP Đà Lạt tuyên bác
yêu cầu khởi kiện của mẹ con bà Ngát, xác định người thừa kế của ông Kim
là bà Thính. Do bà Thính chết, nên các đồng thừa kế của bà Thính được
nhận tài sản do bà Thính để lại.
Thẩm phán Trần Thị Lệ N dẫn Điều 15 Luật Hôn nhân & Gia đình năm
1959: “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau
đối với tài sản có trước và sau khi cưới” có nghĩa là không có phần nhiều
hơn và phần ít hơn, nhưng lại kết luận: “…Do quan hệ vợ chồng giữa ông
Kim và bà Ngát chỉ được gần 2 năm thì bà Ngát bỏ đi, việc tôn tạo, bảo
quản, giữ gìn do ông Kim nên phần của ông Kim nhiều hơn là phù hợp. Cụ
5


thể, bà Ngát được sở hữu, sử dụng ¼ tài sản trị giá 247.213.175 đ và ông
Kim được sở hữu, sử dụng ¾ tài sản trị giá 741.639.527 đ là phù hợp” tuy
nhiên thẩm phán không xác đã bỏ qua chi tiết khối di sản có giá trị lớn ở đây
là đất không phát sinh giá trị quá chênh lệch do công tu tạo, bảo quản.
Tiếp đó, lại cho rằng: “Qua xác minh tại Công an TP Đà Lạt và qua
xem xét các bản khai nhân khẩu, sơ yếu lý lịch do ông Kim khai có xác nhận
của chính quyền địa phương vào năm 1976 đều thể hiện ông Kim đã ly dị bà

Ngát”. Như vậy rõ ràng Thẩm phán đã tự mâu thuẫn khi xác định ông Kim
bị bệnh tầm thần, bởi vì người mắc bệnh tâm thần không thể viết đơn xác lập
tình trạng về đời sống riêng tư của mình được.
Mặt khác, Thẩm phán xác định vợ chồng ông Kim đã ly dị mà chỉ căn
cứ vào những giấy tờ nói trên là trái với quy định của pháp luật về ly hôn.
Nghiêm trọng hơn, trong hồ sơ vụ án bà Ngọc đã cung cấp cho Tòa giấy
khai sinh do UBND xã Bùi Tiếng cấp ngày 12/5/1976. Đây là căn cứ pháp lý
chứng minh bà Ngọc là con ruột của ông Kim.
2. Nguyên nhân khách quan:
2.1. Do những quy định của pháp luât còn thiếu và tồn tại nhiều bất cập.
2.1.1. Trong vấn đề xác định di sản:
Tại Điều 643 BLDS quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”
Theo như điều luật trên thì di sản của người chết là phần tài sản của
người để lại di sản tính tới thời điểm người để lại chết, như vậy những tài
sản phát sinh khi người để lại thừa kế chết chưa được quy định như tiền
phúng viếng, tiền bảo hiểm tính mạng người chết, hoa lợi tức phát sinh từ di
sản…Điều 643 quy định thiếu tính khái quát do vậy khi áp dụng còn gặp

6


nhiều vướng mắc dẫn tới sai lầm trong hoạt động xét xử. Như trường hợp
sau: cụ Nguyên Văn A có hai người con là ông Nguyễn Đỗ K và ông
Nguyên Đô H, cụ Nguyễn Văn A có mua một tấm vé số
2.1.2. Trong vấn đề người thừa kế:
Theo Điều 635 : “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết…” như vậy chỉ
những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống

sau thời điểm mở thừa kế nhưng thành thai trước khi người để lại di sản chết
thì mới có quyền hưởng di sản từ người kể lại thừa kế. Điều luật này có ý
nghĩ trong việc xác định quan hệ giữa người để lại di sản và người được
hưởng thừa kế. Việc xác định mối quan hệ này chỉ có ý nghĩa khi phân chia
di sản theo pháp luật còn nếu phân chia di sản theo di chúc thì hoàn toàn
không cần thiết vì như đã nói ở trên việc để phân chia thừa kế phải tôn trọng
ý nguyện của người để lại di sản (Trừ Điều 669), tuy nhiên Điều 635 lại là
những quy định chung (Chương XXII phần thứ tư BLDS) như vậy điều luật
này quy định cho cả phân chia di sản theo pháp luật và phân chia di sản theo
di chúc. Chính sự bất cập này đã làm hạn chế rất nhiều tới quyền để lại di
sản của người chết và quyền được hưởng di sản của người thừa kế.
Tại khoản 1 Điều 642 quy định: “Người thừa kế có quyền từ chối nhận
di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
tài sản của mình đối với người khác….”. Nếu người thừa kế có nghĩa vụ đối
với người khác mà họ tuyên bố từ chối nhận di sản để trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ đó, thì chủ nợ bằng cách nào có thể thu hồi nợ từ phần di sản mà
người thừa kế đã từ chối nhận di sản. Theo quy định của pháp luật thì chỉ
những người thừa kế mới có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, chủ nợ

7


không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế. Như vậy, khoản 1 Điều 642
BLDS mới chỉ quy định rất chung, thức chất không đảm bảo được quyền của
chủ nợ đối với người thừa kế.
Ngoài ra tại khoản 3 Điều 642 BLDS quy định thời hạn từ chối nhận di
sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế. Pháp luật quy định một người có
quyền từ chối nhận di sản nhưng nếu từ chối rồi sao đó muốn nhận lại thì có
được không? Theo Điều 642 BLDS, người thừa kế đã từ chối nhận di sản thì
không có quyền nhận lại di sản, quy định này chưa dự liệu được trường hợp

người thừa kế bị ép buộc, lừa dối…
2.1.3. Di sản dùng vào việc thờ cúng:
Tại Điều 670: “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần
di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế
và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực
hiện việc thờ cúng…” Trong trường hợp người để lại di sản dành một phần
di sản dùng vào việc thờ cúng thì khái niệm “một phần” có nghĩa là bao
nhiêu? Là một phần hai (50%) hay là chỉ cần nhỏ hơn một…thì trong điều
luật chưa có quy định cụ thể. Ngoài ra pháp luật chỉ quy định rất chung
nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng chứ không quy
định ró nghĩa vụ “Thờ cúng” là nghĩa vụ gì? Và thực hiện như thế nào là
“Đầy đủ”. Và khi người nhận di sản thờ cúng không thực hiện “Đầy đủ”
nghĩa vụ thờ cúng thì họ có phải chịu trách nhiệm gì không? Quyền lợi của
những người quản lý di sản đối với khối di sản đó là gì? Tất cả những điều
này pháp luật cũng chưa quy định rõ dẫn đến một sô tranh chấp phát sinh.
Cụ thể như trường hợp của cụ Nguyễn Văn C. Cụ Nguyễn Văn C có hai
vợ là cụ Nguyễn Thị S và cụ Nguyễn Thị B. Cụ Nguyễn Văn C và cụ
Nguyễn Thị S có bốn người con là: Ông Hiếu, ông Nghĩa, ông Lễ. Cụ
8


Nguyễn Văn C và cụ Nguyễn Thị B có một người con là ông Cẩm. Cụ C
chết năm 1947, cụ Nguyễn Thị S chết năm 1975 và cụ Nguyễn Thị B chết
năm 1968. Tài sản mà ba cụ để lại có nhà và đất với tổng diện tích là
1355m2. Năm 1942, cụ Nguyễn Văn C lập di chúc để lại tài sản hương hỏa,
giao cho con trai cụ Nguyễn Văn C là ông Hiếu toàn bộ tài sản trên để ở và
thờ cúng tổ tiên. Nhưng sau khi cụ Nguyễn Văn C mất, ông Hiếu đã đem
bán một phần nhà đất cho người khác, nhà thờ cũng phá bỏ. Khi ông Hiếu
mất, con trai ông Hiếu phá bỏ nhà cũ đi, tự phân chia đất cho các anh em
mình và tiếp tục bán một phần nhà đất cho người khác và không thực hiện

đấy đủ nghĩa vụ thờ cúng. Ông Cẩm làm đơn kiện đòi chia thừa kế nhưng bị
đơn không đồng ý chia thừa kế với ý do nhag đất để ở và bị đơn hàng ngày
vẫn thực hiện nghĩa vụ thờ hương hỏa, thờ cúng tổ tiên.
Như vậy trong trường hợp thực tế trên, ta thấy rõ được những thiếu sót
trong hệ thống pháp luật. Tại Điều…BLDS chỉ quy định: “” còn nghĩa vụ
thờ cũng đó là gì và khi người quản lý di sản dung vào việc thờ cùng thực
hiện không đúng với ý nguyện của người lập di chúc thì có phải chụi tránh
nhiêm gi không thì các quy định của pháp luật chưa hề đề cập tới. Cụ thể tại
trường hợp nay ông Hiếu và con trai đã không thực hiện đúng theo di chúc
của cụ Nguyễn Văn C: phá bỏ nhà thờ, không thực hiện nghĩa vụ thờ cúng,
tự ý chia di sản dùng váo việc thờ cúng cho người khác, thực hiện các giáo
dịch khác lien quan đến di sản dùng vào việc thờ cúng vào mục đich của bản
thân. Nhưng việc làm này làm mất đi hết ý nghĩa pháp lý của di chúc (Tôn
trọng quyền định đoạt của người để lại di sản) cũng như làm mất đi nhưng
giá trị đức. Mục đính của loại tài sản này là dùng để thờ cúng người đã
khuất, thực hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc, khi người nhận di sản
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ này thì nên giao cho người khác thực hiện,

9


nhưng người khác là ai? Và khi không có nhận nghĩa vụ này thì nên định
đoạt khối di san này như thế nào? Thì pháp luật chưa quy định rõ.
Tuy nhiên nếu tiếp cận vấn đề ở một góc độ khác thì ta hoàn thấy có
một cái nhìn khác về vấn đề này. Theo di chúc Nguyễn Văn C để toàn bộ
khối di sản cho ông Hiếu ở và dùng vào việc thờ cúng, như vậy theo quy
định của pháp luật … ông Hiếu hoàn toàn không có quyền sở hữu với khôi
di sản này mà chỉ có quyền quản lý và quyền sử dụng (bị hạn chế trong việc
chỉ được dùng vào việc thờ cúng). Nếu vậy đứng vào vị trí của ông Hiếu sẽ
thấy rất rõ ông Hiếu phải thực hiện rất nhiều nghĩa vụ nhưng lại không có

quyền nào được pháp luật công nhận. Chính sự bất cập này đã dẫn đến thực
trạng những người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà đặc biệt người
quản lý đó lại là người thân của người để lại di sản thì cũng đương nhiên chở
thành chủ sở hữu với khối di sản. Rồi từ đó mới phát sinh các vụ tranh chấp
lien quan đến di sản dung vào việc thờ cúng như đã nêu trên.
2.1.4. Về hình thức di chúc:
Pháp luật nước ta quy định khá rò ràng và chi tiết về vấn đề này, tuy
nhiên cùng còn tồn tại nhiều điểm hạn chế. Để thấy rõ được những hạn chế
đó chung ta xem xét trường hợp cụ thể sau đây: Ông Nguyễn Văn K và bà
Lê Thị M có ba người con là anh Nguyễn Anh T, chị Nguyễn Thị N và chị
Nguyễn Thị H. Ngày 2/4/2004, bà Lê Thị M chết không để lại di chúc, ngày
5/8/2006 và có để lại di chúc miệng với nội dung như sau: Tôi là Nguyên
Văn K có để lại cho con trai tôi là Nguyễn Anh T căn nhà và đất ở trị giá
200.000.000 đồng còn lại hai người con gái của tôi là Nguyễn Thị N và
Nguyễn Thị H đã đi lấy chồng cho mỗi người một cây vàng. Di chúc miệng
được anh Nguyễn Anh T thu bằng băng ghi âm lại. Sauk hi ông Nguyễn Văn
K chết, chị Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị H yêu cầu Tòa án chia di sản
10


của ông Nguyễn Văn K theo pháp luật, hai chị không thưa nhận cuốn băng
ghi âm anh Nguyễn Anh T xuất trình là di chúc miệng của ông K là có hiệu
lực pháp luật.
Trong quá trình điều tra Tòa án thấy ông Nguyên Văn K hoàn toàn
minh mẫn và tự nguyện khi lập di chúc miệng, có hai người hàng xóm làm
chứng là bà Hoàng Thị L và ông Nguyên Xuân D. Tại kết luận giám định
của Bộ công an đã kết luận cuốn băng anh Nguyễn Anh T xuất trình là cuốn
băng gốc và chị Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị H cũng xác nhận đó là
dọng nói của ông Nguyên Văn K.
Từ những nhận định trên Hội động xét xử đã chấp nhận di chúc miệng

của ông Nguyên Văn K là có hiệu lực pháp luật và chia thừa kế di sản của
ông theo di chúc miệng.
Pháp luật nước ta hiện nay thừa nhận hai hình thức di chúc là di chúc
miệng và di chúc bằng văn bản. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội,
ngày nay có nhiều trường hợp thể hiện di chúc như ghi âm, ghi hình…mà
trong trường hợp trên di chúc miệng của ông Nguyễn Văn K được thu bằng
băng ghi âm. Nếu chỉ căn cứ theo pháp luật hiện tại thì hoàn toàn không thể
chấp nhận di chúc miệng của ông Nguyên Văn K được, nhưng Tòa án đã
biết vận dụng linh hoạt quy định của pháp luật khi xác định được tình đúng
đắn của cuốn băng ghi âm với sự làm chứng của hai người hàng xóm và xác
nhận của hai người con gái ông Nguyễn Văn K. Ngoài trường hợp trên nếu
di chúc được ghi hình hoặc được viết trên các loại vất liệu khác không phải
dấy như đá, ghỗ… thì chúng cũng nên đưa ra các quy định cụ thể thừa nhận
những loại di chúc này nếu xác định được tính xác thực của nó. Đây là một
trường hợp hi hữu ở nước ta, do không phổ biến nên ngay cả khi không có
các quy định rõ ràng về vấn đề này cũng không xảy ra nhiều tranh chấp,
11


nhưng tại các nước phát triển với nền khoa học kỹ thuật phát triển đây đã
không còn là một vấn đề xa lạ nữa. Để đảm bảo pháp luật có tính khả thi
cao, tính ổn định thì không những cẫn căn cứ vào các tình hình thực tiến đã
xảy ra để đưa ra các quy định điều chỉnh mà còn cần phải nắm bắt những
tình huống có thể cần điều chỉnh trong tương lai để đưa ra cac quy định kịp
thời, chánh sự bị động.
2.2. Do trình độ nhận thức pháp luật của người dân còn thấp còn thấp:
Do vấn đề thừa kế lâu nay được điều chỉnh chủ yếu thông qua lối sống,
phong tục tập quán, đạo đức vậy nên đa phần mọi người ít khi tiếp cận tới
các quy định của pháp luật về vấn đề nay đặc biệt là các quy định về hình
thức và thủ tục, trình tự lập di chúc. Thủ tục lập di chúc lập di chúc là các

bước tiến hành lập di chúc tại công chức hoặc UBND nhằn đảm bào tính
khách quan, xác thực của nội dung chúc. Tuy nhiên rất nhiều trường hợp do
người lập di chúc không biết đến những quy định đó cho nên đã dẫn đến di
chúc không được thừa nhân. Sau đây là một vụ án tranh chấp về thừa kế theo
di chúc trên thực tế.
Nội dung của vụ án như sau: Bà Trần Thị G có bốn người con là ông
Nguyễn Quang T, ông Nguyễn Quang M, bà Nguyễn Thị H và bà Phan Thị
L bốn người con là của bốn người bố khác nhau đều đã mất trước bà Trần
Thị G. Ngày 5/7/2007, bà Trần Thị G chết có để lại số di sản là thửa đất số 2
Phạm Hồng Thái – Phướng Bà Triệu - TP Nam Định, trên ô đất có hai tòa
nhà hai tầng. Sau khi bà Trần Thị G chết một thời gian bà Nguyễn Thi H có
đưa ra một bản di chúc đánh máy lập ngày 3/10/2006 nói là bà Trần Thị G
để lại. Theo nội dung di chúc bà Trần Thị G có xác nhận khối tài sản chết và
quyết định chia đều cả nhà và đất cho 3 người còn là ông Nguyễn Quang T,
Nguyễn Quang M, Nguyễn Thị H. Cuối bản di chúc có chữ ký và điểm chỉ
12


của bà Trần Thị G, ngoài ra còn chữ ký của bà ông Nguyễn Quang T, ba
Nguyễn Thị H và chữ ký của cán bộ phường Bà Triệu. Sau khi xem bản di
chúc, thấy có nhiều điểm khuất tất nên bà Phan Thị L khởi kiện đề khị Tòa
án hủy bản di chúc ngày 3/10/2006 và chia thừa kế theo pháp luật để đảm
bảo quyền lợi của bà.
Theo như lời khai của các bên và bản di chúc đánh máy có thể tóm tắt
lại như sau: Ông Nguyễn Quang T và bà Nguyễn Thị H cùng bà Trần Thi G
mang bản di chúc đánh máy sẵn đến xin xác nhận của cán bộ tư pháp xã, cán
bộ địa chính và mặt sau có xác nhận của Chủ tịch UBND xã ký xác nhận vào
ngày 6/10/2006, ngoài ra còn có chữ ký của ông Nguyễn Quang T, bà
Nguyễn Thị H và chữ ký, điểm chỉ của bà Trần Thị G. Sau khi nghiên cứu
tài liệu Hội đồng xét xử hủy bản di chúc ngày 3/6/2006 và chia di sản theo

pháp luật.
Sở dĩ Tòa không thừa nhận bản di chúc trên là vì thủ tục lập không
đúng với quy định của pháp luật…. Bà Trần Thị G lập di chúc với hình thức
là văn bản nhưng lại được đánh máy, bên dưới có chữ ký và điểm chỉ của mà
Trần Thị G, chữ ký của ông Nguyễn Quang T, bà Nguyễn Thị H và có xác
nhận của UBND xã nhưng xác nhận đó là sau ba ngày chứ không phải ngay
sau khi bà Trần Thị G lập di chúc ngoài ra chứ ký hai con bà là ông Nguyễn
Quang T, bà Nguyễn Thị H với vai trò là người làm chứng là không đúng
vói quy định của pháp luật do hai người nay có được hưởng di sản của bà
Trần Thị G nên không thể làm chứng cho di chúc của bà…
2.3. Do các yếu tố kinh tế - xã hội đặc thù khác:
Do ảnh hưởng của thời ký chiến tranh, trải qua thời kỳ đổi mới với
nhiều hình thức quản lý nhà nước khác nhau nên điều kiên lưu dữ các tài liệu
nhân thân không đảm bảo, dẫn tới bị thất lạc; các giấy tờ lien quan bị chồng
13


chéo; gia đình lý tán dẫn tới việc quản lý nhân thân, xác định di sản thừa kế
gặp rất nhiều khó khăn.
Cụ thể như trưởng hợp của bà H ở thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996
bà lập gia đình với ông L, có đăng ký kết hôn tại phường 13. Đến năng
2000, ông L mất để lại di chúc truất quyền thừa kế của bà H. Bà nộp đơn
đơn đến TAND Quận 11 thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Tòa xác định
phần thừa kế của bà trong khối di sản của ông L để có điều kiện tạo lập cuộc
sống mới. Vụ kiện trở nên phức tạp hơn khi TAND quân 11 bất ngờ nhận
được đơn của ông K cho rằng việc kết hôn của bà H và ông L là trái pháp
luật và yêu cầu Tòa hủy. Theo ông K, ông và bà H đã đăng ký kết hôn với bà
H từ năm năm 1974 tại xã Ka Đô, Đơn Dương (Lâm Đồng). Năm 1975, hai
người có một người con chung. Khi con trai được ba tháng tuổi, do mâu
thuẫn với gia đình chồng bà H đã bế con bỏ đi. Sự việc này được sự xác

nhận của các bên có lien quan. Cho đến nay ông K và bà H chưa hề ra tòa ly
hôn nên về mặt pháp lý hai ông bà vẫn còn là vợ chồng.
Như vậy, do điều kiện của chiến tranh và sự chuyển giao chế đố, bà H
có tư cách là vợ của cả ông L và ông K. Như vậy thì liệu bà H có được
hưởng 2/3 một xuất thừa kế theo pháp luật với tư cách là vợ của ông L hay
không?
III. Phương hướng giải quyết:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật:
Từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan nêu trên đã làm hạn
chế đi rất nhiều chất lượng công tác giải quyết các tranh chấp dân sự nói
chung và tranh chấp về thừa kế theo di chúc nói riêng. Để nâng cao chất
lương xét xử thì đi cùng các công tác nâng cao năng lực, đạo đức của đội

14


ngũ thẩm phán thì về mặt vĩ mô, pháp luật cần có sự điều chỉnh, hoàn thiền
cho phù hợp. Sau đây là một số kiến nghị, đề xuất chỉnh sửa để nâng cao
công tác giải quyết tranh chấp.
1.1. Hoàn thiện, bổ xung các quy định chung về thừa kế:
Từ những phân tích thực trạng trên ta nên có các điều chỉnh các quy
định cụ thể như:
- Xây dựng khái niệm rõ ràng về di sản thừa kế: Để phân chia di sản thừa kế
thì việc đâu tiên là việc xác định được khối di sản thừa kế. Nếu việc xác định
di sản thừa kế sai sẽ dẫn đến toàn bộ việc phân chia sau này cũng se sai theo.
Vấn đề này ngoài giá trị thực tiễn nó còn có cả giá trị lý luận, khi xác định
được khái niêm di sản thi ta cúng có thể xác định khái niệm di sản dùng vào
việc thờ cúng, di sản dung để di tặng…
- Để đảm bào quyền tự định đoạt của người để lại di sản ta nên chuyển ý:
“…sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước

khi người để lại di sản chết…” của Điều 635 quy định về người được hưởng
di sản ở Chương XXII (quy định những quy định chung) sang chương XXIV
(quy đinh trong thừa kế theo pháp luật).
1.2. Hoàn thiện một số quy định về thừa kế theo di chúc:
- Ta nên bô xung thêm vào Điều 670, đó là xác định khái niệm “một phấn”
là bào nhiều hay nằm trong khoản nào. Theo ý kiến của riêng em, em đồng ý
với quan điểm nên đề “một phần” di sản dung vào việc thờ cúng phải nhỏ
hơn ½ (50%) tổng di sản, yêu tiên nhưng phần di sản đang được dùng làm
nơi thờ cúng. Như vậy vừa có thể đáp ứng được yêu cầu về tư liệu sản xuất,
thuc đẩy kinh tế phát triển vừa đảm bảo có thể lưu dữ những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta.

15


- Về việc trả thù lao cho người quản lý di sản dung vào việc thờ cúng một
cách cụ thể, ro ràng hơn như: Họ được hưởng bao nhiêu từ khối di sản quản
lý.
- Xem xét lại nên hay không thừa nhận di chúc chung của vợ chống. Nếu
vẫn thừa nhận hình thức di chúc này thì nên có các quy định cụ thể hơn để
xác lập quyền sở hữu đối của những đồng sở hữu khi một trong hai vợ chồng
chết trước.
- Cần bổ xung thêm các quy định về hình thức di chúc: Như chất liệu của di
chúc, phương thức thể hiện di chúc... Mà cụ thể theo quan điểm của riêng
em thì ta nên công nhận một hình thức di chúc mới đó là di chúc được thể
hiện qua các băng thu âm, các băng ghi hình. Tuy nhiên cũng cần có các
điều kiên để đảm bảo tính xác thực của di chúc.
2. Nâng cao trình độ, ý thức, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ:
Trình độ của đội ngũ cán bộ xát xử pháp luật nước ta hiện nay chưa đáp
ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra. Việc áp dụng các quy định của pháp luật

vào thực tiễn đòi hỏi tòa án các cấp phải linh hoạt, mêm dẻo để có thể giải
quyết tranh chấp một cách hợp lý hợp tình nhất. Tuy nhiên cơ quan xét xử
các cấp chưa bắt kịp được thực tế do vậy cần tăng cương các công tác bồi
dường cán bộ, sang lọng thường xuyên bộ máy cán bộ xét xử, tiến hành mở
rộng tuyển dụng đầu vào đặc biệt là đối với các sinh viên mới ra trường
nhằm tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ tư pháp lâu dại. Trên đây là những đề
xuất của em nhằm làm nên việc áp dụng các văn bản pháp luật còn thiếu
chính xác, giải quyết vụ cho việc áp dụng pháp luật nói chung và công tác
xét xử nói riêng hạn chế tối đa thiếu xót, có tính thuyết phục hơn, làm hài
long niềm tin của nhân dân, dần chấm dứt tình trạng khiếu kiện long vòng
gây tôn kém.
16


3. Nâng cao trình độ dân chí, ý thức pháp luật của người dân:
Muốn nhân dân biết đến và chấp hành các quy định của pháp luật thì
việc đâu tiên là phải xây dựng một nền tảng pháp lý vững chắc có tính ổn
định, gồm các quy định của pháp luật về vấn đề phấn chia di sản nói chung
và phân chia di sản theo di chúc nói riêng. Đây là một vấn đề hết sức nhạy
cảm vì vấn đề thừa kế vốn dĩ lâu này bị ảnh hưởng và được điều chỉnh chủ
yếu bằng phong tục tập quán, các giá trị đạo đức và tình cảm gia đinh. Khi
xây dựng những quy định pháp luật trong vấn đề này cần cân nhắc đến đặc
điểm của phong tục tập quán từng vùng miên, phải đưa ra các quy định chặt
chẽ nhưng cũng không được quá cứng nhắc mà phải linh động mềm dẻo vận
dụng tối đa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Sauk hi đã có được một
nền tảng pháp lý vững chắc rồi thì cần tuyên truyền, thực hiện các buổi nói
truyện giữa nhưng người có tránh nhiệm giải thích pháp luật, những người
hiểu biết pháp luật với nhân dân, trong công tác này thì nên vận dụng các cá
nhân có tiếng nói và uy tín tại cơ sở như vậy sẽ giúp các quy định của pháp
luật gần gũi và phù hợp hơn với nhân dân. Cuối cùng và cũng không thể

thiếu là hoạt động áp dụng pháp luật, hoạt động này phải được tiến hành một
cách nghiêm minh bởi đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn, có đạo
đức nghề nghiêp. Có như vậy mới tạo được niềm tin vào pháp luật nơi quần
chúng nhân dân. Đây là một giải pháp mang tính lấu dài và phải đi cúng các
biện phát phát triển kinh tế - xã hội khác mới phát huy được tối đa hiều quả
của nó.
C. Kết luận:
Thừa kế theo di chúc là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự
Việt Nam. Trong khoa học pháp lý thì những quy định về thừa kế theo di
chúc là một trong những phương thức thực hiện quyền định đoạt tài sản của
17


chủ thể được nhà nước thừa nhận, bảo vệ và đảm bảo thực hiện. Về mặt xã
hội những quy định này còn thể hiện tình cảm tốt đẹp, sự tộn trọng truyền
thống của con người Việt Nam qua các quy định về di sản thờ cúng, di tặng,
quyền lập di chúc chung của vợ, chồng.
Trong sự vận động và phát trển của nền kinh tế - xã hội, một số quy
định về thừa kế theo di chúc trong bộ luật Dân sự năm 2005 dường như
không còn chặt chẽ, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nặng nề về mặt
thủ tục.Và có những vấn đề mới phát sinh mà các nhà làm luật chưa dự liệu
tới dẫn tới một thực trạng “vừa thừa vừa thiếu” cùng với những khó khăn do
điều kiện đặc thù của đất nước đã dẫn tới thực trạng công tác giải quyết
tranh chấp về thừa kế theo di chúc còn nhiều bất cấp, gây ảnh hưởng tiêu
cực tới quyền lợi hợp pháp của người dân, tuy nhiên cũng không thể không
xem xét tới sự tắc trách của đội ngũ cán bộ nói chung và của đội ngũ Thẩm
phán nói riêng trong công tác xét xử đã dần làm mất đi lòng tin của người
dân. Do vậy để đảm bảo chất lượng hoạt động giải quyết tranh chấp về thừa
kế theo di chúc thì phải tiến hành hàng loạt các hoạt động mang tinh vĩ mô
như nâng cao dân chí, đào tạo đội ngũ cán bộ cho tới các biện pháp mạng

tính cấp bách như bổ sung thêm các quy định của pháp luật về vấn đề này.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I,
Nxb.CAND, Hà nội, 2007.
2. Bộ Luật dân sự Việt Nam 2005
3. Th.s Lương Thị Hợp - Luận văn thạc sỹ luật học.

19



×