Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.47 KB, 18 trang )

Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

LỜI NÓI ĐẦU
Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế ra đời và tồn tại là khách quan, là điều
kiện vật chất quan trọng để nhà nước tồn tại và phát triển . Để tạo lập cơ sở pháp lí
ổn định vững chắc cho nguồn thu thuế, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, đòi
hỏi nhà nước cần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng bộ. Bằng quyền lực
chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó.
Quan hệ thu nộp những nguồn vật chất này chính là thuế. Thuế là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách nhà nước, trong quá trình thu thuế thì các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải tiến hành thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm nếu có những
trường hợp vi phạm. Do vậy, vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
về thuế là vấn đề hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
I) Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế.
1) Khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế:
1.1) Thanh tra về thuế:
Thanh tra “là một chức năng thiết yếu của quản lý xã hội, là hoạt động kiểm
tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thường được thực
hiện bởi một cơ quan chuyên trách, theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định, nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích
cực, phòng ngừa xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.
Từ cách hiểu đó, thanh tra thuế có thể hiểu là “một chức năng thiết yếu của
quản lý thuế, là hoạt động kinh tế của cơ quan quản lý thuế nhà nước đối với các
đối tượng nộp thuế và chủ thể khác có liên quan nhằm phát hiện, chấn chỉnh
những sai lầm, xử lý vi phạm trong hoạt đông chấp hành chính sách, pháp luật của
nhà nước”.


1.2. Kiểm tra thuế:
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên. Do tính chất này mà chúng ta không
thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những người lãnh đạo tổ
chức và những bộ phận tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra công
việc. Điều quan trọng là phải thành lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp
kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức và giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan
trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
Vậy, kiểm tra thuế được hiểu là việc xem xét các chủ thể chấp hành các chính
sách pháp luật về thuế đúng hay không, kiểm tra việc thực hiện các chính sách về
thuế do nhà nước ban hành ra.
Theo luật quản lý thuế hiện hành ở nước ta:


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

- Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, mang tính chất nhiệm vụ của cơ
quan quản lý thuế được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai
thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở của người
nộp thuế, chỉ thực hiện khi họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những nội dung sai
sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu. Nội dung kiểm tra thuế là
việc kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế
nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
- Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn diện
hơn. Thanh tra thuế được thực hiện theo định kỳ đối với người nộp thuế lớn, ngành
nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn và phức tạp hoặc với người nộp thuế có dấu
hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế
hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc bộ trưởng Bộ
tài chính.

1.3. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế:
Trước hết, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ. Còn, xử lý vi phạm pháp luật là sự bắt buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lý
bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy ra do những nguyên
nhân khác được pháp luật quy định.
Vậy, xử lý vi phạm pháp luật về thuế có thể được hiểu là hoạt động của các chủ
thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính hay hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi
phạm pháp luật về thuế.
2) Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm
trong lĩnh vực thuế
2.1) Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế:
a) Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
* Khái niệm pháp luật thanh tra, kiểm tra: Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là
tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thanh tra, kiểm
tra trong lĩnh vực thuế của nhà nước.
* Đặc điểm của pháp luật thanh tra, kiểm tra: Pháp luật thanh tra, kiểm tra
thuế là một bộ phận trong hệ thống pháp luật thuế nói riêng và pháp luật thanh tra,
kiểm tra thuế nói chung. Vì vậy, ngoài những đặc điểm chung của pháp luật thanh
tra, kiểm tra thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn có những đặc điểm đặc thù
như sau:
Thứ nhất, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế chứa đựng những quy định mang
tính chất chuyên ngành. Tức là nó thực hiện một mảng riêng biệt đó là thanh tra,


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì


kiểm tra thuế. Theo quy định của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế thì thanh tra
thuế có chức năng giúp Bộ tài chính, ngành thuế thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế. Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế chủ yếu là các quy
định về quy trình, quy phạm liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật trong quá trình
quản lý thuế.
Thứ hai, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là bộ phận của pháp luật thanh tra,
kiểm tra vì vậy nó được quy định trong luật thanh tra. Tuy nhiên do là pháp luật
chuyên ngành nên chủ yếu nó được quy định trong Luật quản lý thuế, ngoài ra nó
còn được quy định trong các luật khác có liên quan.
Thứ ba, Ngoài vai trò chức năng, quyền hạn được quy định trong Pháp luật
thanh tra nói chung thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn được quy định về việc
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đặc điểm này cũng xuất phát từ thực tiễn
công tác thanh tra, kiểm tra thuế vì trong nhiều trường hợp cần thiết việc áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ giúp cho việc thực hiện công tác thanh tra,
kiểm tra thuế đạt được hiệu quả cao.
b) Những nội dung chủ yếu của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế.
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế có những nội sung cơ bản sau:
Những quy định về nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế: Đây là tư tưởng, quan
điểm chủ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật
về thanh tra, kiểm tra thuế và nó có tính bắt buộc các chủ thể có liên quan phải
tuân theo trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.
Những quy định về kiểm tra thuế: Đây là bộ phận pháp luật quy định về các
hình thức kiểm tra thuế, nội dung, mục đích, quy trình kiểm tra thuế và cách thức
xử lý trong và sau hoạt động kiểm tra thuế.
Những quy định về thanh tra thuế: Bộ phận pháp luật này quy định về các
trường hợp thanh tra thuế, thủ tục, trình tự tiến hành, quy định cơ cấu thành phần
đoàn thanh tra, điều kiện đối với trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên…
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm,
quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.

Những quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong
quá trình thanh tra kiểm tra thuế.
2.2) Những vấn đề chung của pháp luật và xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế.
a) Khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật về thuế.
* Khái niệm: Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp
luật về thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại
đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình
* Đặc điểm: Có thể nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật về thuế qua những
dấu hiệu sau:


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

Về phương diện chủ thể: Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi được thực hiện
bởi các chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động hành thu thuế
như người nộp thuế, cơ quan thuế hoặc công chức ngành thuế.
Về phương diện khách quan: vi phạm pháp luật thuế là hành vi trái pháp luật.
Về phương diện chủ quan: vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh mức
độ lỗi (cố ý hoặc vô ý) của người thực hiện.
Về phương diện khách thể: hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại đến
những lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ.
b) Phân loại vi phạm pháp luật thuế.
Hành vi vi phạm pháp luật thuế thuộc về một trong các hành vi chủ yếu sau:
*Vi phạm hành chính về thuế: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là hành
vi làm trái các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá
nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật
hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm
hành chính.

* Vi phạm hình sự về thuế: là hành vi trái pháp luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh
từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ.
* Ngoài ra còn có các vi phạm khác về thuế: Nhìn từ góc độ pháp lý thì còn có
các vi phạm khác về thuế như: quy định về hình thức tờ khai đăng ký thuế, hình
thức của văn bản đăng ký kê khai thuế và văn bản thông báo thuế, hình thức văn
bản quyết định giải quyết khiếu nại về thuế…
c) Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế.
* Chế tài hành chính: Theo quy định của pháp luật hiện hành, các biện pháp
chế tài hành chính bao gồm: biện pháp cảnh cáo, phạt tiền… đối với các hành vi vi
phạm khác nhau sẽ có các hình thức và mức xử phạt khác nhau. Hình thức xử phạt
và mức xử phạt vi phạm pháp luật hành chính về thuế được quy định trong Luật
quản lý thuế và Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 về xử lý vi phạm
pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và các văn bản
khác có liên quan
* Chế tài hình sự: Về phương diện lý luận thì chế tài hình sự là trách nhiệm
pháp lý mà nhà nước áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự
nhưng hành vi này có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực thuế. Chế tài hình sự được
quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 và các văn bản khác có liên quan.
3) Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
trong quản lý thuế:
Công tác thanh tra, kiểm trra, xử lý vi phạm trong quản lý thuế là hoạt động
không thể thiếu được trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

quản lý thuế nói riêng. Trong hoạt động quản lý thuế thì công tác thanh tra, kiểm

tra và xử lý vi phạm càng trở nên hết sức cần thiết. Thuế là nguồn thu chủ yếu của
ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, là công cụ bảo vệ
kinh tế trong nước và ngăn ngừa, răn đe các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế,
chống thất thu ngân sách nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác quản lý thuế theo cơ
chế tự khai, tự nộp thuế thì công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm thuế càng
cần được coi trọng để có thể mang lại hiệu quả thực hiện cao nhất.
4) Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về
thuế:
- Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đây là
mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Công tác
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản
lý thuế nhằm đảm bảo cho các quy định về nộp thuế được chấp hành một cách đầy
đủ. Chính tính chất thường xuyên của hoạt động này đã có tính chất phòng ngừa
các vi phạm pháp luật thuế. Các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế sẽ chỉ rõ các sai
phạm của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra và có tính chất răn đe với những người
có ý định vi phạm pháp luật thuế.
- Bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành.
Bảo đảm không bị thất thoát từ các khoản thu thuế của ngân sách nhà nước.
- Bảo đảm pháp luật thuế được thi hành nghiêm trên thực tế; bảo đảm sự cân
bằng trong nghĩa vụ nộp thuế; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp cuat công dân thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế.
- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý thuế mà cụ thể là cán bộ thực
hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân
thủ các quy định của pháp luật thuế.
II) Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở
Việt Nam hiện nay
1) Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về thuế ở Việt
Nam hiện nay
1.1) Những kết quả đạt được.

Trên thực tế trong mấy năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Luật quản lý thuế
được ban hành ngày 29/11/2006 thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã đạt được
những bước phát triển nhất định. Cụ thể là: Cơ quan thuế các cấp đã tiến hành áp
dụng rộng rãi kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế với việc tăng
cường thu thập thông tin về người nộp thuế, tiến hành phân tích, đánh giá các
thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau về người nộp thuế để tiến hành lựa
chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra. Việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra có


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

trọng điểm tránh mất thời gian, tiết kiệm được chi phí của cơ quan thuế và người
nộp thuế đem lại số truy thu lớn.
Trong giai đoạn 2006-2010, ngành thuế đã tập trung nguồn lực cho việc xây
dựng, triển khai phương pháp thanh tra theo kỹ thuật quản lý rủi ro, tập trung vào
trọng tâm, trọng điểm, rút ngắn thời gian thanh tra, kiểm tra, tăng số lượng đơn vị
được thanh tra và mở rộng phạm vi chấn chỉnh trong công tác quản lý thuế. Ký kết
quy chế phối hợp với cơ quan Công an điều tra nhiều vụ tội phạm trốn thuế, chiếm
đoạt tiền thuế, thu hồi cho NSNN và xử lý hình sự. Tính đến tháng 11-2010, toàn
ngành đã thanh tra, kiểm tra 18.141 đơn vị, bằng hơn 95% so cùng kỳ. Tổng số
thuế truy thu, tiền phạt là 4.014 tỷ đồng. Năm 2010, quán triệt tinh thần Nghị định
số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ, toàn ngành đã tập trung thanh tra, kiểm tra giá,
kiểm soát chi phí, giá thành sản phẩm, nhất là những mặt hàng thiết yếu như:
lương thực, thực phẩm, thép, viễn thông... góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế
lạm phát. Chú trọng thanh tra chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài như: thanh tra, kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp sản xuất, lắp
ráp ô-tô, sản xuất, kinh doanh chè tại Lâm Đồng..., truy thu thuế 133,4 tỷ đồng,
điều chỉnh giảm lỗ hơn 1.400 tỷ đồng.

Theo trang số liệu thống kê thì năm 2007 ngành thuế đã kiểm tra được 32.304
cơ sở kinh doanh, phát hiện và truy thu 3.7776,5 tỷ đồng trong đó số thuế trốn lậu
được phát hiện truy thu qua kiểm tra là 3096 tỷ đồng, số thuế nợ đọng là 680,4 tỷ
đồng. Ngoài ra trong năm 2007 đã kiểm tra trước hoàn thuế tại 2869 đơn vị với số
thuế mà doanh nghiệp đề nghị hoàn là 1.909,5 tỷ đồng. Qua kiểm tra đã phát hiện
số thuế không đủ điều kiện hoàn thuế, loại trừ 77,3 tỷ đồng, kiểm tra sau hoàn thuế
tại 4.114 đơn vị thu hồi về cho ngân sách nhà nước 17,7 tỷ đồng. Qua những số
liệu trên ta có thể thấy cong tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thu thuế đã giảm
bớt, nâng cao được hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra. Phát hiện và xử lý
các vi phạm góp phần tránh thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước cũng như
nhằm chấn chỉnh thái độ chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, đảm bảo
thực thi pháp luật thuế một cách nghiêm túc hơn.
Công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra các đối tượng
nộp thuế mà còn được tổ chức ngay trong nội bộ cơ quan thu thuế với những nội
dung kiểm tra chủ yếu như: thực hiện nghiệp vụ phát hành, quản lý sử dụng biên
lai, hóa đơn; quy trình thanh tra, kiểm tra, quyết toán thuế tại cơ sở kinh doanh;
công tác giải quyết đơn thư khiếu tố về thuế… Kết quả mà thanh tra, kiểm tra thuế
đạt được còn thể hiện cụ thể qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở nhiều địa
phương trong cả nước cụ thể:
Theo website Cục thuế Thái Bình thì năm 2010, Ngành thuế Thái Bình đã thu
548.707 triệu đồng tiền thuế nợ nộp vào NSNN, trong đó thu nợ của năm 2009 về
trước là 215.920 triệu đồng, thu nợ mới phát sinh là 332.787 triệu đồng. Đơn vị có


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

số thu nợ lớn là: Văn phòng Cục: 485.038 triệu; Chi cục Thuế Thành phố: 19.508
triệu; Chi cục Thuế Thái Thuỵ: 15.592 triệu và Chi cục Thuế Tiền Hải 11.844 triệu

đồng, đã làm số nợ thuế ngày 31/12/2010 giảm 40,7% so với số dư nợ ngày
31/12/2009, với số tuyệt đối là 219.915 triệu đồng .
Theo website của Cục thuế Thanh Hóa: Tổng thu nội địa tính cân đối ngân
sách (không bao gồm phí cầu đường bộ, thu Xổ số kiến thiết, các khoản thu phí, lệ
phí và thu khác không tính cân đối) năm 2009 đạt 2.777 tỷ đồng, đạt 128% dự
toán Bộ Tài chính giao, đạt 125,1% dự toán Tỉnh giao và tăng 23,6% so với thực
hiện năm 2008. Trừ tiền sử dụng đất ước đạt 1.997 tỷ đồng, đạt 115,1% dự toán
Bộ Tài chính giao, đạt 112,8% dự toán Tỉnh giao và tăng 19,1% so với thực hiện
năm 2008.
Còn tại thành phố Hồ Chí Minh: Theo báo cáo của Cục thuế Thành phố Hồ
Chí Minh sáng ngày 10-1-2010, ngành thuế Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai
6.800 lượt thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp. Kết quả thanh tra, kiểm tra đã
giảm lỗ 3.221 tỷ đồng (tương ứng số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là 805
tỷ đồng), bước đầu tạo chuyển biển giảm dần số doanh nghiệp kê khai lỗ.Cụ thể,
năm 2008 số doanh nghiệp thuộc Cụ thuế TP khai lỗ chiếm gần 40%, năm 2009
giảm còn 35,5%. Trong đó có một doanh nghiệp khai lỗ nhiều năm liền, lỗ đến
“âm” vốn như: Công ty Philip Morio lỗ từ năm 1994-2009 là 285 tỷ đồng ( trong
khi vốn chủ sở hữu chỉ 10 tỷ đồng), tức lỗ âm gấp 28 lần vốn; Công ty JTI khai lỗ
từ năm 2001-2007 là 305 tỷ đồng (vốn sở hữu chỉ 2,9 tỷ đồng – lỗ âm gấp 32 lần
vốn); Công ty Metro Cáh khai lỗ từ năm 2001-2009 là 1.580 tỷ đồng (vốn chủ sở
hữu chỉ 467 tỷ đồng)….
Tại Đà Nẵng: Theo thống kê sơ bộ năm 2008 ngành thuế Đà Nẵng đã tiến hành
kiểm tra hơn 1200 đối tượng nộp thuế trong đó doanh nghiệp nhà nước có 58 đơn
vị, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 331 đơn vị, hộ kinh doạnh 206 lượt hộ và phát
hiện 415 đơn vị, hộ kinh doanh vi phạm, thu được hơn 30 tỷ đồng với số thuế nợ
đọng là hơn 14 tỷ đồng, số thuế ẩn lậu là hơn 15 tỷ đồng (theo website của Cục
thuế Đà Nẵng).
Việc kiểm tra, thanh tra thuế được tiến hành một cách triệt để và đồng bộ trong
cả nước. Ngày 01/3/2011, Tổng cục thuế đã ban hành Quyết định số 217/QĐ-TCT
giao chỉ tiêu cụ thể đối với các cụ thuế về nhiệm vụ công tác thanh tra, kiểm tra

thuế tại doanh nghiệp năm 2011. Căn cứ đối tượng thanh tra, kiểm tra Tổng cục
thuế đã quy định, cục thuế quyết định kế hoạch và danh sách doanh nghiệp thuộc
đối tượng thanh tra, kiểm tra và phân bố giao nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra thuế cho
từng phòng, chi cục thuế thực hiện.
1.2) Những hạn chế bất cập.
Bên cạnh những kết quả đã nêu ở trên thì trong thực tế khi thi hành hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế còn gặp khá nhiều khó khăn.


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

Thứ nhất, Vẫn còn tính trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của cơ
quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao
(36,6%) và sự trùng lặp vẫn xảy ra nhiều nhất trong lĩnh vực thuế. Qua thống kê
827 doanh nghiệp cho thấy 303 doanh nghiệp có từ 2 đoàn thanh tra trở lên “thăm”
trong vòng 1 năm với nội dung gần giống nhau: 231 trong số doanh nghiệp bị kiểm
tra 2 lần 1 năm trong lĩnh vực thuế. Hiện nay còn có quá nhiều cơ quan, các cấp
thanh tra dưới nhiều hình thức như: thanh tra, kiểm tra, phúc tra, kiểm soát… Có
những cán bộ thanh tra không được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ làn cho công
tác thanh tra, kiểm tra không đạt được hiệu quả cao thậm chí một trong những cán
bộ này còn đưa ra các quyết định sai sau đó phát hiện ra thì không chịu trách nhiệm
về kết luận trước đó của mình.
Luật quản lý thuế có quy định: Việc thanh tra được thực hiện căn cứ vào kế
hoạch thanh tra hàng năm trừ các trường hợp thanh tra đột xuất theo quy định.
Việc lập kế hoạch thanh tra phải dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp
thuế từ đó phát hiện, lập danh sách những người nộp thuế có dấu hiệu bất thường
trong việc thực hiện nghã vụ nộp thuế để lựa chọn đối tượng lập kế hoạch thanh
tra. Kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế cấp dưới phải được gửi đến cơ quan thuế

cấp trên. Trường hợp có sự trùng lặp về đối tượng thanh tra thì cơ quan thuế cấp
trên sẽ thực hiện thanh tra với đối tượng thanh tra đó. Trường hợp thanh tra nhà
nước có kế hoạch thanh tra thuế trùng lặp với kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế
thì ưu tiên kế hoạch thanh tra thuế của cơ quan thanh tra nhà nước. Tuy nhiên, do
cơ quan khác nhau của nhà nước không có sự trao đổi , thống nhất với nhau về
chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra nên xảy ra tình trạng thanh tra doanh
nghiệp bị trùng.
Thứ hai, Công tác thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp mới dựa trên cơ
sở dữ liệu thông tin tổng hợp và kỹ thuật quản lý rủi ro còn hạn chế.
Phương pháp này có rất nhiều ưu điểm tuy nhiên nó cũng có thể gặp nhiều rủi
ro đó là khả năng để sót các trường hợp gian lận mà không bị phát hiện và ngăn
chặn kịp thời do người nộp thuế lợi dụng sự thông thoảng của cơ chế “tự khai tự
nộp thuế”. Hơn nữa, để đảm bảo thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp mới đạt
hiệu quả cao thì phải có cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ về người nộp thuế và khả
năng ứng dụng tốt những thành tựu về công nghệ thông tin trong thu thu thập, quản
lý và sử dụng các nguồn thông tin về người nộp thuế. Tuy nhiên, nhiều khi hệ
thống thông tin về người nộp thuế không được đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, kịp
thời; hoặc bộ máy quản lý thu thuế không đủ độ tinh nhuệ, lực lượng, phương tiện
để phục vụ cho công tác quản lý không đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời các đối
tượng cố tình khai man, trốn lậu thuế (hiện nay ở nước ta lực lương thanh tra rất
mỏng so với yêu cầu công việc trong khi đó ở các nước khác số lượng công tác
thanh tra thường chiếm từ 25 – 30 % tổng số cán bộ ngành thuế còn ở Việt Nam


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

con số này là 12%); hoặc do đội ngũ cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được các tiêu
chuẩn về kiến thức; bộ máy quản lý giám sát bị tha hóa, biến chất, tham nhũng, cố

tình làm ngơ. Chính những lý do trên đã làm cho phương pháp mới có nhiều rủi do.
Thứ ba, Trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh về
thuế của đại bộ phận nhân dân còn hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án mạnh
mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Đặc biệt là hiện nay khi nền kinh tế đang
phát triển hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng thường xuyên và
liên tục thì hành vi trốn thuế và gian lận thuế xảy ra ngày càng nhiều.
Thứ tư, Từ thực tiễn chó ta thấy, sự phối hợp giữa các cơ quan, đặc biệt là kho
bạc nhà nước, ngân hàng, cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan quản lý đất đai,
tổng cục thống kê và các cơ quan khác cơ liên quan còn hạn chế.
2) Thực trạng vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay
2.1) Những kết quả đạt được.
Trong những năm qua, lực lượng công an các cấp đã tiến hành rà soát, kiểm
tra, xử lý và truy tố hình sự nhiều vụ án trốn thuế của hàng trăm doanh nghiệp, đơn
vị, truy thu cho ngân sách Nhà nước hàng trăm tỷ đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã
ban hành nhiều văn bản để tổ chức, thực hiện việc xử lý vi phạm pháp luật thuế
như: Nghị định số 98/2007/NĐ – CP ngày 7/6/2007 về xử lý vi phạm pháp luật
thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, quy chế phối hợp số
1527/QCPH/TCT-TCCS ngày 31/10/2007 giữa Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính và
Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an trong đấu tranh phòng, chống các hành vi tội
phạm trong lĩnh vực Thuế…
Ngày 7/9/2007, Tổng Cục thuế, Tổng cục hải quan và Tổng cục Cảnh Sát đã
tổ chức Hội nghị Tổng kết 4 năm thực hiện quy chế phối hợp giữa 3 ngành trong
đấu tranh phòng chống tội phạm về thuế. Chỉ trong 2 năm gần đây, cơ quan công
an và thuế đã phối hợp điều tra, khám phá 1259 vụ với 1338 đối tượng vi phạm,
trong đó đã kết thúc điều tra 1013 vụ với 1338 đối tượng; xử lý hình sự 133 vụ với
149 đối tượng; xử lý hành chính 947 vụ với 1141 đối tượng với tổng số thuế truy
thu là 11034 tỷ đồng. Cơ chế phối hợp giữa Tổng cục Thuế - Bộ tài chính và Tổng
cục cảnh sát – Bộ Công an trong đấu tranh phòng, chống các hành vi tội phạm
trong lĩnh vực thuế đã phát huy hiệu quả bước đầu đã thu được nhiều kết quả ở các
địa phương trong cả nước như:

Theo Cục thuế tỉnh Yên Bái: Sau 4 năm thực hiện quy chế phối hợp số
2122/QCPH/TCCS – TCT ngày 26/8/2003 giữa tổng cục cảnh sát (Bộ Công An)
và Tổng cục thuế (Bộ Tài Chính) về công tác phòng chống các hành vi vi phạm và
tội phạm trong lĩnh vực thuế, trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ. Trên cơ sở Quy chế phối hợp này, ngày 29/10/2003, 2 ngành đã xây
dựng kế hoạch số 409KH/CT – CAT để tổ chức thực hiện, phù hợp với điều kiện
thực tế tại địa phương. Chính vì có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ từ tỉnh đến


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

các huyện, thị xã, thành phố nên từ tháng 8/2003 đến hết năm 2007, cơ quan công
an và cơ quan thuế đã phối hợp xử lý 599 đối tượng vi phạm chính sách thuế, xử lý
thu nộp NSNN hơn 4,9 tỷ đồng. Các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều nhành
vi vi phạm về việc lập hồ sơ, chứng từ quyết toàn vật liệu, nhân công, mày thi công
khống và cao hơn giá thực tế làm tăng chi phí để làm giảm thu nhập chịu thuế và
làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Điển hình như việc xử lý vi phạm
hành chính đối với 5 doanh nghiệp: Công ty Công trình giao thông 208, Công ty
Quản lý và sửa chữa đường bộ 242, Công ty Xây lắp 386 Bộ Quốc Phòng, Công
Ty cổ phần công trình giao thông Thăng Long và Công ty sửa chữa đường bộ 236,
với tổng số tiến xử phạt và truy thu lên tới 967,1 triệu đồng. Xử lý vi phạm hành
chính về việc viết hóa đơn bán hàng với số lượng, đơn giá, giá trị hàng hóa cao hơn
số lượng giao dịch thực tế của DNTN Trấn Công (huyện Văn Chấn) 78,2 triệu
đồng. Hoặc xử phạt và truy thu thuế về hành vi mua bán hàng hóa, phương tiện vận
tải bỏ ngoài số kế toán, không kê khai nộp thuế của Công ty Cổ phần Lương thực
Hoàng Liên Sơn 276,8 triệu đồng; Công ty TNHH Thẩm hường (huyện Trần Yên)
216,2 triệu đồng về hành vi kinh doanh mua bán hàng hóa không có đăng ký kinh
doanh, bỏ ngoài số kế toán, không kê khai nộp thuế.

Theo Cục thuế và Công an tỉnh Kiên Giang: Trong 4 năm, ngành thuế và công
an đã phối hợp xử lý 24 vụ đối tượng kinh doanh vi phạm nghiêm trọng pháp luật
thuế, ngăn chặn kịp thời 4 doanh nghiệp “ma” nên không gây ra hậu quả. Một số
trường hợp điển hình là vụ công ty TNHH Nghĩa Anh ở thành phố Rạch giá,
DNTN Võ Văn Phép ở huyện Vĩnh Thuận, DNTN Tiến Lợi ở huyện Gò Giao,
DNTN Tân Kiên ở huyện An Biên, DNTN Vĩnh Xương…
Cục thuế và Công an tỉnh Cao Bằng: ngày 13/01/211, Cục thuế và Công an
tỉnh Cao Bằng đã tổ chức Hội nghị sơ kết công tác phối hợp trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm và các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế giai đoạn 2007 – 2010.
Kết quả sau 3 năm phối hợp đã truy thu tổng số tiền nợ đọng thuế tại các công ty,
doanh nghiệp được trên 1,5 tỷ đồng; xử lý các vụ vi phạm thuế trong lĩnh vực lưu
thông thương mại được trên 24,4 triệu đồng tiền thuế.
Theo Cục thuế Đăklăk: Sau 4 năm thực hiện quy chế phối hợp, hai lực lượng
công an và thuế thực hiện cung cấp hơn 384 lượt công văn, tài liệu và vụ việc liên
quan đến lĩnh vực thuế, qua đó đã phát hiện, điều tra, xác minh và xử lý 263 vụ
việc với 277 đối tượng vi phạm. Trong tổng số vụ việc được phát hiện, cơ quan
chức năng đã xử lý 5 vụ hình sự; xử lý hành chính 216 vụ; đang điều tra 43 vụ, xử
phạt hành chính hơn 4 tỷ đồng; phối hợp truy thu thuế trên 14 tỷ đồng. Tổng giá trị
thiệt hiej do các hành vi vi phạm gây ra hơn 5 tỷ đồng.
2.2) Những hạn chế bất cập.
Hiện nay, ở nước ta hiện tượng vi phạm hành chính hay vi phạm hình sự trong
lĩnh vực thuế, diễn ra ở tất cả các tỉnh, thành phố với những tính chất và mức độ vi


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

phạm khác nhau. Song những vi phạm đó đã gây thất thu lớn cho ngân sách nhà
nước. Những hành vi vi phạm được thực hiện bằng các hành vi như gian lận nội

dung kinh tế của hóa đơn, chứng từ, trốn thuế... việc vi phạm chế độ hóa đơn còn
là một trong những thủ đoạn để thực hiện hành vi trốn thuế. Trốn thuế là hành vi
chủ yêu trong lĩnh vực thuế. Hình thức vi phạm của hành vi này rất đa dạng như để
ngaoif sổ sách số liệu kế toán hoặc ghi chênh lệch nội dung giữa các liên hóa đơn.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn có nhiều địa phương thất thu thuế một số lĩnh vực như:
nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tìm cách kê khai lỗ để không phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thất thu từ hợp đồng mua bán, lắp ráp xe máy.
Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có thủ đoạn chuyển giá tinh vi,
nâng cao chi phí sản xuất, khai giảm mức thu nhập… để trốn thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Trong những năm gần đây, tổng số thu thuế cho NSNN đề đạt năm sao cao hơn
năm trước, vượt dự toán Quốc hội giao nên không những đảm bảo chi theo dự toán
được giao mà còn tăng bổ sung cho ngân sách hàng chục tỷ đồng. Nhờ đó đất nước
có điều kiện giải quyết các vấn đề rất cấp bách về đầu tư, kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, góp phần giúp nền tài chính quốc gia phát triển. Tuy nhiện, hiện
nay tình trạng thất thu thuế còn khá phố biển ở nhiều khoản thu sắc thuế tại các địa
phương trên toàn quốc. Theo đánh giá tình hình của Tổng Cục thuế (Bộ Tài
Chính), thu NSNN nhìn chung còn chưa tương xứng với tiềm năng của nền kinh tế,
tình trạng nợ đọng thuế tuy đã giảm so với các năm trước nhưng vẫn còn khác
nhau, nhất là đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất
nhập khẩu, thuế nhà đất với khoảng 30000 đơn vi và hàng trăm nghìn cá nhân bị
phát hiện mỗi năm, truy thu NSNN nhiều tỷ đồng, trong đó nợ đọng thuế khoảng
gần 4000 tỷ đồng, ân lậu hơn 2000 tỷ đồng.
Hiện nay số thất thu thuế so với tổng thu thuế là rất lớn, bên cạnh số thất thu
tiềm năng do ngành thuế chưa bao quát hết các nguồn thu thì số thu thực tế do bản
thân các đối tượng cố tình trốn lậu thuế là không nhỏ. Thất thu thuế càng nhiều,
bội chi ngân sách càng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thực hiện các chức năng
điều hành kinh tế, xã hội của Nhà nước như thay đổi kế hoạch phân phối lại thu
nhập từ thuế, giảm đầu tư phát triển, vay nợ nước ngoài để bù đắp… và nhiều hậu
quả kinh tế xã hội khác.

Trốn lậu thuế, tránh thuế diễn ra ở các mức độ khác nhau, ở mọi loại hình
doanh nghiệp: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh văn phòng nước ngoài. Cùng ở
trình độ sản xuất kinh doanh như nhau, doanh nghiệp trốn được thuế thì thu nhập
cao, đời sống người lao động cao, công sở khang trang… doanh nghiệp chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, không trốn thuế thì ngược lại, tạo nên sự bất công bằng,
tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển, không kích thích sản xuất kinh doanh.


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

Nhiều đơn vị, doanh nghiệp trốn thuế trong một thời gian dài, trốn nhiều lần,
trốn nhiều sắc thuế… thì chủ đơn vị, doanh nghiệp thường có sự móc ngoặc với
cán bộ thuế, cán bộ hải quan, quản lý thị trường. Không ít trường hợp cán bộ trong
các cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý doanh nghiệp lại làm tư vấn cho
doanh nghiệp luồn lách trốn thuế. Thậm chí ở một số địa phương còn có hiện
tượng cán bộ thuế tính toán tiền thuế phải nộp hàng tháng, hàng quý cho doanh
nghiệp ở mức thấp nhất để sau đó cán bộ thuế cũng được nhận một số tiền “bồi
dưỡng” đáng kể như kiểu mãi lộ.
Xảy ra tình trạng trên là do một số nguyên nhân sau:
- Do trình độ dân trí ở một số nơi còn thấp, trách nhiệm pháp luật chưa cao,
nhiều người chưa chấp hành đúng luật thuế và coi trốn thuế là việc bình thường,
thậm chí có những hành vi phản ứng lại việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào
ngân sách Nhà nước.
- Một số văn bản pháp luật về thuế chưa chặt chẽ hoặc thiếu rõ ràng, đôi khi
điều luật còn khó hiểu, thậm chí còn thiếu công bằng giữa các đối tượng nộp
thuế… do đó đã bị người nộp thuế lợi dụng để trốn thuế. Những hình phạt trong
luật đối với hành vi trốn thuế chưa đủ nặng, những vụ việc trốn thuế ít bị xử phạt ở

mức tối đa, kể cả xử lý hành chính cũng như hình sự thiếu tính răn đe, ngăn chặn,
hơn nữa việc điều tra, xét xử vi phạm về thuế còn chậm, số lượng ít.
- Sự phối hợp giữa các ngành chức năng quản lý nhà nước như Thuế, Hải quan
với các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng như trong phạm vi các cơ quan bảo vệ pháp
luật với nhau về phòng ngừa, đấu tranh chống vi phạm, tội phạm trốn thuế đôi lúc
còn chưa đồng bộ; công tác thanh tra, kiểm tra của ngành thuế, hải quan nhằm phát
hiện, ngăn chặn vi phạm, tội phạm còn chậm, sự vụ, tồn tại nhiều vấn đề thậm chí
có không ít cán bộ tiêu cực, tiếp tay hoặc tham gia tư vấn cho doanh nghiệp trốn
thuế, chiếm đoạt tiền Nhà nước.
- Các biện pháp xử lý vi phạm về thuế còn ít được thực hiện hay thực hiện
nhưng kết quả không cao. Cụ thể:
+ Với biện pháp trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, kho bạc,
các tổ chức tín dụng thì khi tài khoản của đối tượng nộp thuế có số dư bằng 0 thì
cơ quan nộp thuế không thể áp dụng biện pháp này.
+ Biện pháp tạm giữ hàng hóa để thu đủ số tiền thuế, tiền phạt: biện pháp này
chỉ được áp dụng khi không tạm giữ hàng hóa, tang vật thì không thu đủ số thuế,
tiền phạt. Trong thực tế việc áp dụng biện pháp này không đơn giảm vì còn liên
quan tới việc bảo quản, chi phí lưu kho, lưu bãi. Mặt khác, chi phí lưu kho, lưu bãi
do đối tượng nộp thuế chịu cho nên trong trường hợp số tiền thuê, tiền phạt và chi
phí lưu kho, lưu bãi lớn hơn giá trị hàng hóa thì chủ hàng hóa có thể sẵn sàng từ bỏ
hàng hóa và nhà nước trở thành người bị thiệt hại.


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

+ Biện pháp kê biên đấu giá tài sản: Đây là một công việc đòi hỏi một thủ tục
chặt chẽ, mặt khác theo quy định của pháp luật thì chỉ kê biên tài sản tương ứng
với số tiền thuế, tiền phạt phải nộp, do đó còn nhiều bất cập. Mặc dù theo quy định,

chi phí bán đấu giá do bên nộp thuế chịu nhưng nếu không kê biên phần tài sản
tương ứng với chi phí dự tính cho việc tổ chức bán đấu giá thì liệu cơ quan thi
hành án có phải kê biên tài sản của đối tượng nộp thuế một lần nữa để thu số tiền
đã bỏ ra để bán đấu giá không? Trường hợp số tiền thu được từ bán đấu giá mà nhỏ
hơn số tiền thuế phải nộp cũng chưa có quy định cụ thể để giải quyết trường hợp
này.
III) Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay
1) Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề thanh
tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Bổ sung quy định về thanh tra, kiểm tra thuế trong Luật quản lý thuế
năm 2006.
Bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế, công
chức thuế gây ra. Quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cần phải đảm bỏa các
nội dung: Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải dựa trên các căn cứ
là có hành vi trái pháp luật do lỗi của người thi hành công vụ gây ra, có thiệt hại
trên thực tế do người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại, có quan hệ
nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại; quy định rõ ràng về trình tự thủ tục
yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu như xác định có đủ căn cứ xác định trách nhiệm
bồi thường nhà nước thì cơ quan giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại phải tiến
hành xác minh thiệt hại, thương lượng với người bị thiệt hại để có phương thức bồi
thường thiệt hại, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán
bộ, công chức thuế gây ra khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với đối
tượng nộp thuế.
Bổ sung thêm quy định về phối hợp điều tra thuế giữa các cơ quan nhằm nâng
cao hiệu quả hơn nũa công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm kịp thời phát hiện ra
những vi phạm pháp luật thuế. Ngoài ra còn tránh sự chống chéo trong công tác
thanh tra, kiểm tra. Quy định về điều tra thuế nên quy định theo hướng xác định
điều tra thuế chỉ là điều tra hành chính đồng thời với quy định về điều tra thuế phải
bổ sung các quy định rõ về trách nhiệm cảu cơ quan thuế, công chức thuế trước các

quyết định của mình. Nếu trong quá trình thanh tra, kiểm tra, điều tra thuế mà nảy
sinh những tiêu cực, lạm dụng quyền thì cán bộ thanh tra, điều tra phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật.
Bổ sung quy định về quyết toán thuế: quy định rõ thời gian nào được thực hiện
quyết toán thuế, trách nhiện của cơ quan thuế trong việc quyết toán thuế, phân biệt
rõ ranh giới của quyết toán thuế và thanh tra, kiểm tra thuế.


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

Bổ sung quy định về thanh tra đột xuất: tiến hành thanh tra đột xuất khi có dấu
hiệu vi phạm pháp luật thuế, quy định rõ vi phạm pháp luật đến đâu thì cơ quan
thuế mới có quyền tiến hành thanh tra đột xuất; hoặc giải quyết khiếu nại tố cáo,
quy định rõ việc giải quyết khiếu nại tố cáo phải được xác minh và xác định chính
xác như thế nào thò cơ quan thuế mới tiến hành thanh tra đột xuất.
Thứ hai: Các ban hành quy chế thanh tra, kiểm tra mới cho phù hợp với quy
định của Luật quản lý thuế thay thế cho quy trình thanh tra, kiểm tra đã được ban
hành theo QĐ 1166/2005. Quy trình mới ban hành theo hướng phân biệt rõ thanh
tra, kiểm tra; trình tự, thủ tục tiến hành kiểm tra tại cơ quan thuế, tại trụ sở người
nộp thuế; các trình tự thủ tụ công bố quyết định thanh tra, kiểm tra; việc xử lý kết
quả thanh tra, kiểm tra, việc theo dõi việc thực hiện các quyết định xử lý…Theo
đó, quy trình thanh tra, kiểm tra mới nên tiến hành theo các bước: chuẩn bị cuộc
thanh tra, trực tiếp tiến hành cuộc thanh tra, kết thúc việc thanh tra.
Thứ ba: Cần ban hành các quy định hướng dẫn một cách cụ thể về vấn đề kiểm
tra tính đầy đủ, chính xác trong các hồ sơ nộp thuế của người nộp thuế. Khi thực
hiện theo cơ chế quản lý thuế là “tự khai, tự nộp thuế” thì người nộp thuế phải chịu
trách nhiệm trước những thông tin, tài liệu ghi trong hồ sơ theo đó việc kiểm tra
của cơ quan thuế và việc chấp nhận tờ khai của cơ quan thuế mới chỉ là thủ tục

mang tính chất hành chính mà thôi.
Cần quy định tiêu chí cụ thể trong việc phân loại đối tượng nộp thuế theo tiêu
chí rủi ro. Để xây dựng các tiêu chí trong việc phân loại đối tượng nộp thuế có thể
có nhiều cách thức tiếp cận khác nhau: có thể phân theo hình thức rủi ro (có loại
rủi ro từ chính sách thuế, từ thủ tục hành chính thuế, từ đối tượng nộp thuế, từ cán
bộ thuế; hoặc rủi ro từ cấp mã thuế, miễm giảm thuế…); theo mức độ rủi ro có rủi
ro cao, rủi ro thấp; theo mức độ tuân thủ có đối tượng tuân thủ thấp thì rủi ro cao,
tuân thủ cao thì rủi ro thấp…Theo cách thức tiếp cận hiện đại thì rủi ro trong công
tác thanh tra thuế được phân loại theo 4 tiêu thức chuẩn tắc sau: rủi ro tiềm tàng
(rủi ro cố hữu – IR), rủi ro kiểm soát (CR), rủi ro phát hiện (DR), rủi ro thanh tra
(AR). Tuy nhiên, việc xây dựng các tiêu chí phân loại đối tượng nộp thuế cần
phảiđảm bảo các chuẩn tắc trên như vậy mới có thể đưa ra được những tiêu thức để
đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế. Đồng thời khi có các
thông tin về mức độ rủi ro thì các cơ quan thu thuế dựa trên các nguồn thong tin
khác nhau để xây dựng hệ thống thông tin về người nộp thuế.
Thứ tư: Hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức thanh tra, kiểm trá của các cơ
quan tạo ra sự đồng bộ thống nhất trong quá trình thực hiện chức năng thanh tra,
kiểm tra thuế, tạo điều kiện cho các cơ quan thanh tra, kiểm tra hoạt động có hiệu
quả cao, theo đúng khuôn khổ pháp luật.
2) Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

Do vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật thuế và chính sách thuế, có
biện pháp đấu tranh hiệu quả đối với các hành vi vi phạm, tội phạm trốn thuế, chủ
động phát hiện vi phạm, tội phạm trốn thuế, đánh trúng các vụ trốn thuế, thu hồi

tiền cho ngân sách, xử lý nghiêm minh các đối tượng phạm tội nhằm bảo vệ kỷ
cương pháp luật, tạo môi trường lành mạnh trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ
nguồn thu cho NSNN.
Trong công tác phối hợp giữa lực lượng công an, thuế, và hải quan cần thực
hiện tốt 6 giải pháp sau:
-Thứ nhất: Tiếp tục làm tốt công tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, phối hợp với các ngành, doanh nghiệp thực hiện tốt các văn bản về
phòng chống tội phạm, gian lận thương mại.
- Thứ ha: Ba ngành thuế, hải quan, công an cần tăng cường kiểm tra thực hiện
các biện pháp phòng ngừa các đối tượng sản xuất buôn bán hàng giả; củng cố, xây
dựng lực lượng trong sạch vững mạnh, kiên quyết đấu tranh, ngăn ngừa có hiệu
quả các hành vi móc nối thông đồng với doanh nghiệp; thường xuyên phối hợp mở
các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm.
-Thứ ba: Chú trọng tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc phối
hợp cung cấp thông tin giữa ba ngành đảm bảo thực hiện thống nhất cơ chế, chính
sách thuế, hải quan trong phạm vi toàn quốc.
- Thứ tư: Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
phù hợp với tình hình mới. Trong đó, nên sớm quy định trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân. Vì ở Việt Nam trong những năm gần đây với các tội phạm kinh tế
có không ít các tội phạm do pháp nhân thực hiện. Trong lĩnh vực thuế, theo báo
cáo của ngành thuế thì mỗi năm nhà nước thất thu hàng chục tỷ đồng tiền thuế mà
các pháp nhân lại không phải chịu hình thức xử lý nghiêm khắc nhất là biện pháp
hình sự nên không ít trường hợp lợi dụng sơ hở của pháp luật để gây những thiệt
hại nghiêm trọng cho xã hội và nhà nước.
- Thứ năm: Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức xã
hội tuyên truyền, giáo dục, vận động toàn dân tích cực tham gia phong trào phòng
chống tội phạm, bảo vệ an ninh.
- Thứ sáu: Lãnh đạo các đơn vị thường xuyên trang bị kiến thức về hội nhập
kinh tế quốc tế cho tất ca cán bộ trong đơn vị để có tư duy và cách làm đúng, nhằm
ngăn chặn có hiệu quả tội phạm.

KẾT LUẬN
Tóm lại, nhận thấy được tầm quan trọng trong công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

lý vi phạm pháp luật thuế. Đồng thời đã đưa ra nhiều giải pháp để việc thực hiện
mang lại hiệu qua cao và đồng bộ trên pham vi cả nước. Tuy nhiên do nhiều
nguyên nhân khác nhau công tác trên vẫn gặp phải những khó khăn nhất định cần
phải đưa ra hướng giải quyết để việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm pháp luật thuế được tiến hành một cách dễ dàng chống thất thu cho
NSNN.
Trên đây là phần tiểu luận của em, do sự thiếu sót về thời gian và những hạn chế
về nhận thức, bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cô và
các bạn góp ý để em được hoàn thành bài tập của mình, em xin chân thành cảm ơn.!


Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trìng luật thuế Việt Nam, Nxb.Công an
nhân dân, Hà Nội, 2011.
2) Bộ Luật Hình sự năm 1999.
3) Luật quản lí thuế năm 2006.

4) “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp
luật thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài khoa học cấp
trường năm 2008.
5) Vũ Văn Cương và Vũ Ngọc Hà, “Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở
Việt Nam”, Tạp chí luật học, số 5/2009.
6) Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 về xử lý vi phạm pháp luật về
thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và các văn bản khác có liên
quan.
7) Một số website:
http://www/mof.gov.vn





Bộ Môn Luật Tài Chính

Bài tập lớn học kì

Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
I) Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
thuế.
1) Khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế.
2) Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý
vi phạm trong lĩnh vực thuế.
3) Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật trong quản lý thuế.
4) Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

về thuế.
II) Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

thuế ở Việt Nam hiện nay.
1) Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về thuế ở
Việt Nam hiện nay.
2) Thực trạng vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện
nay.
III) Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn

Trang 1
Trang 2
Trang 4
Trang 5

Trang 5

Trang 9

đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện
nay.
1)Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề
thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện nay.
2) Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về xử lý
vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay.
KẾT LUẬN

Trang 13
Trang 15
Trang 16




×