MỞ ĐẦU
Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định hình thành nên tính
cách của mỗi con người.Việc nuôi dạy con trẻ gần nhất là gia đình, sau đó là xã hội.
Giáo dục cho mọi người và tiến tới xây dựng xã hội học tập còn là mục tiêu căn bản,
chiến lược của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tình
trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm ở Việt Nam hiện nay vẫn còn là vấn đề đáng
quan tâm mà trách nhiệm trên hết là của cha mẹ và những người thân trong gia đình.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích đối với sự
hình thành và phát triển của trẻ em.
Trong mỗi gia đình vai trò của bố mẹ có vị trí quan trọng. Theo truyền thống
Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu hiện của
nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo. Còn người mẹ là chỗ
dựa, là nguồn lửa sưởi ấm tình yêu thương trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận
cho các con. Cho nên gia đình là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành nhân cách cho
trẻ em.
Văn hóa trong gia đình nói chung, quan hệ vợ chồng nói riêng đều có sự ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các thành viên trong
gia đình. Bầu không khí tâm lý – đạo đức của gia đình tác động trực tiếp đến nếp
nghĩ, lối sống của trẻ. Mọi xung khắc của các cá nhân trong gia đình, nhất là giữa bố
và mẹ, đều ảnh hưởng đến con cái.
Trong gia đình, ngoài các mối quan hệ nói trên còn có mối quan hệ giữa ông
bà và các cháu, anh chị và các em. Mối quan hệ này càng bền chặt thì càng làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của các cá nhân trong gia đình. Những người lớn
tuổi phải làm gương cho con cháu, tự điều chỉnh hành vi của mình thì mới đáp ứng
được vấn đề đạo đức, văn hóa và các mối quan hệ đặt ra trong phạm vi gia đình.
Giáo dục con cái không thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những công việc,
hành động cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có có tác động trực
tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em sẽ không tôn trọng
người lớn nếu nó như chúng thấy cha mẹ mình thể hiện sự thiếu tôn trọng lẫn nhau.
Những bậc cha mẹ luôn quan tâm đến con cái sẽ chú trọng đến việc giáo dục
hình thành nhân cách cho trẻ. Nhưng cũng có nhiều gia đình thiếu quan tâm đến
việc giáo dục con cái, người lớn đối xử với nhau bằng lời nói, cử chỉ, hành động
thiếu văn hóa…, những hành động xấu đó đã phản chiếu vào tâm hồn non nớt của
trẻ em, làm cho các em trở lên cộc cằn, thô lỗ. Những mâu thuẫn, lục đục trong gia
đình hay gia đình tan vỡ đã đẩy nhiều trẻ em rơi vào tình trạng hụt hẫng về mọi
phương diện, nhiều em không đủ ý chí để vượt qua khó khăn này đã rơi vào những
bệnh như trầm cảm, rối loạn tâm lý hoặc bỏ nhà đi lang thang, thậm chí phạm tội.
Sống trong các gia đình có bố mẹ hoặc người lớn khác có hành vi thiếu văn
hóa, đạo đức thậm chí có cả những hành vi phạm tội, như bố mẹ bất hòa hay đánh
chửi nhau, nghiện rượu, nghiện ma túy, trộm cắp, tham ô…thì những gương xấu này
làm cho trẻ em dần dần coi thường pháp luật, nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi
kéo rồi dần dần vi phạm pháp luật. Cũng có nhiều trường hợp bố mẹ là người tốt, có
đủ kiến thức nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái hoặc không có
điều kiện gần gũi trẻ, có người ỷ lại cho nhà trường, một số mải làm ăn, kiếm sống
hoặc phải đi công tác trong thời gian dài.
Có gia đình bố mẹ ly hôn, có con ngoài giá thú, một trong hai người chết…
dẫn đến việc con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, không
được dạy dỗ và chăm sóc chu đáo trẻ sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng, bất
cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo… Có những gia đình bố mẹ thiếu
hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên đã coi việc đánh đập hoặc dùng nhục hình
với trẻ như là quyền của họ.
Nhiều đứa trẻ bị bạo hành đã nghĩ gia đình không còn yêu thương, che chắn
và bảo vệ mình nữa. Chính cách xử sự này của bố mẹ đã khiến trẻ bị khủng hoảng
về tâm lý, tự ti, khó hòa nhập, trẻ trở lên hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và căm
ghét gia đình. Trong hoàn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực
hiện những hành vi trái pháp luật. Con hư còn bởi cách dạy. Sự quá nuông chiều,
thỏa mãn mọi nhu cầu của con cái, thói quen đòi gì được nấy.
Ngày nay, với những biến đổi của nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường
văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của đời sống
xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã
kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời sống tình cảm tinh thần, tình
trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho gia
đình không được bền vững. Do đó chúng ta cần đặc biệt chú trọng giải quyết vấn đề
gốc rễ là giáo dục con trẻ trong gia đình.
2. Quyền được học tập của trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Một trong những quyền cơ bản nhất của trẻ em là quyền được học tập. Trong
Công ước về quyền trẻ em cũng như trong pháp luật Việt Nam, học tập không
những được quy định là quyền của trẻ em mà còn là bổn phận của cha mẹ, gia đình
và toàn xã hội. Chính vì vậy, cha mẹ và những người thân trong gia đình có nghĩa
vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con được học tập. Mục tiêu
giáo dục được thể hiện trong Công ước về quyền trẻ em: “Gíao dục phảiphải nhằm
phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của trẻ em đến
mức cao nhất. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống tích cực ở tuổi
người lớn trong một xã hội tự do và khuyến khích trẻ em lòng kính trọng cha mẹ,
bản sắc, văn hóa, ngôn ngữ và các giá trị của mình cũng như nguồn gốc văn hóa và
các giá trị của người khác”.
Cũng nhằm khẳng định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc giáo dục và
giúp đỡ con hoàn thiện về nhân cách, trưởng thành lành mạnh và trở thành người có
ích cho xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định trong một số điều
như:
Khoản 1 Điều 34 về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ:
“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của
con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể
chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công
dân có ích cho xã hội.”
Khoản 1 Điều 37 về quyền và nghĩa vụ giáo dục con:
“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho
con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm,
hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và
các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con….”
Như vậy, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thể hiện sự
dân chủ, tiến bộ, vừa đề cao được trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo đảm được
quyền lợi tương lai của con cái, vừa thể hiện sự quan tâm, là trách nhiệm của gia
đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ em phát triển toàn diện.
II. Tình hình trẻ em nghỉ học và bỏ học sớm hiện nay
1. Thực trạng về tình hình trẻ em nghỉ học và bỏ học sớm hiện nay
“Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người năm 2008” cho thấy, Việt
Nam có khoảng 1 triệu học sinh bỏ học. Ngoài vấn đề trẻ em bỏ học, Báo cáo giám
sát đã đưa ra 2 khuyến cáo khác cho giáo dục Việt Nam. Đó là:
1. Năm 2008, với chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI) là 0,899,
Việt Nam chỉ đứng thứ 79 trên tổng số 129 quốc gia được khảo sát.
2. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ không đạt được sáu mục tiêu giáo dục
cho mọi người đến năm 2015 gồm: chăm sóc và giáo dục mầm non, phổ cập giáo
dục tiểu học, đáp ứng nhu cầu học tập của thanh thiếu niên và người lớn, xóa mù
chữ và môi trường tri thức, cân bằng giới và bình đẳng giới, chất lượng giáo dục.
Trước hết phải khẳng định rằng không có hiện tượng học sinh bỏ học tràn lan,
mà trái lại, trên phạm vi cả nước tỉ lệ học sinh bỏ học đã giảm nhiều trong hai những
năm gần đây – khi mà toàn ngành giáo dục thực hiện quyết liệt cuộc vận động "Hai
không" và Chỉ thị 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục. Tuy nhiên, tình trạng
trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm hiện nay vẫn còn báo động ở mức cao.
Theo số liệu thống kê được công bố hàng năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỉ
lệ học sinh bỏ học ở tiểu học bắt đầu giảm từ năm học 2006-2007, ở trung học (gồm
trung học cơ sở và trung học phổ thông) đã giảm từ năm học 2005-2006, học kỳ I
năm học 2007-2008, tỉ lệ học sinh bỏ học đã giảm mạnh ở tất cả các cấp học. Cụ
thể:
- Ở cấp Tiểu học: từ năm học 2003-2004 đến năm học 2006-2007, tỉ lệ học
sinh bỏ học dao động từ 2,25% đến 3,33%; nhưng đến học kỳ I năm học
2007-2008, chỉ còn 0,19% . Theo đó, ở học kỳ I năm học 2007 - 2008, số
lượng học sinh tiểu học bỏ học là 12.966 HS.
- Ở cấp THCS và THPT: từ năm học 2003-2004 đến năm học 2005-2006, tỷ
lệ học sinh bỏ học dao động từ 6,29% đến 7,59%; Năm học 2006-2007 tỷ
lệ này chỉ còn 2,07%. Học kỳ 1 năm học 2007 - 2008, tỷ lệ học sinh bỏ
học giảm xuống 5 lần so với năm 2005 - 2006, còn 1,2%. Ở học kỳ I năm
học 2007 – 2008, số lượng học sinh THCS và THPT bỏ học là 106.228
HS.
Cũng theo thống kê của Bộ GD&ĐT:
- Đối với cấp Tiểu học, 58/64 tỉnh, thành có tỷ lệ học sinh bỏ học từ 0% 0,65%; 5 tỉnh có tỷ lệ bỏ học từ 0,95 - 2% và Kiên Giang là tỉnh có tỷ lệ
bỏ học nhiều nhất với 5,16%.
- Đối với cấp THCS và THPT, 45/64 tỉnh, thành có tỷ lệ bỏ học từ 0,06% 1,58%; 10 tỉnh có tỷ lệ bỏ học từ 1,71% - 1,99%; 8 tỉnh có tỷ lệ bỏ học từ
2,0% - 5,51% và Trà Vinh có tỷ lệ bỏ học cao nhất với 9,81%.
Như vậy, trên phạm vi cả nước, kết quả duy trì sĩ số học sinh tuy đã có tiến bộ
vượt bậc nhưng số lượng học sinh bỏ học vẫn còn là vấn đề đáng quan tâm và phải
tích cực khắc phục. Học kỳ I năm học 2007-2008 vẫn còn 12.966 học sinh tiểu học,
106.228 học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông bỏ học. Cũng cần phải
quan tâm đến một số địa phương có nhiều học sinh bỏ học. Ví dụ, cấp Tiểu học bên
cạnh 29 tỉnh, thành phố tỉ lệ học sinh bỏ học xấp xỉ 0% vẫn còn 5 tỉnh tỉ lệ học sinh
bỏ học ở mức cao (0,95% - 2%). Đối với trung học, trong khi có 30 tỉnh tỉ lệ học
sinh bỏ học thấp hơn 1%, vẫn còn 9 tỉnh tỉ lệ từ 2% đến 9,81%.
Đa số những trẻ bỏ học, nghỉ học sớm này sau đó đều đi lang thang, kiếm việc
làm....Cũng vì bỏ học và nghỉ học sớm nên những trẻ em này đều có trình độ học
vấn thấp, nhiều em còn tái mù chữ. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội, trẻ em lang thang từ 6 - 16 tuổi chưa từng đi học chiếm 4,7%; 34% bỏ
học ở bậc Tiểu học; 58,7% bỏ học ở cấp Trung học cơ sở và 2,6% bỏ học ở cấp
Trung học phổ thông.
Qua khảo sát trẻ em lang thang tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ biết
chữ là 73,9%; không biết chữ là 26,1%; có 12,9% học lớp 1; 39,6% học lớp 5 trở lên
và rất ít trẻ em lang thang có được trình độ Trung học phổ thông.
Như vậy, Luật phổ cập giáo dục Tiểu học đã có từ lâu, nhưng vẫn còn khoảng
gần 40% trẻ em lang thang chưa được học xong chương trình tiểu học. Và theo kết
quả điều tra của Viện Nghiên cứu Thanh niên kết hợp cùng ủy ban Dân số, Gia đình
và Trẻ em Việt Nam thì tỷ lệ trẻ em lang thang muốn có cơ hội được tiếp tục học tập
không phải là ít (dưới 15 tuổi là 50%; trên 15 tuổi là 25%); tuy nhiên nhu cầu học
tập của các em đa dạng hơn, không chỉ đơn thuần là học văn hóa mà còn mong
muốn học nghề.
Khảo sát về trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội cũng cho thấy 46.6% trẻ
em lang thang chỉ có trình độ học vấn từ mù chữ đến bậc tiểu học. Các em có trình
độ trung học cơ sở là 51,7%. Kết quả đánh giá việc trẻ em lang thang ở Hà Nội tự
nguyện học văn hóa đã cho thấy: 94,1% số em được điều tra thích thú với việc học;
71,1% trẻ này rất thích thú với việc học nghề, có 47,3% trẻ cho rằng nếu được học
nghề chắc chắn các em sẽ kiếm sống tốt hơn và nếu có việc làm ổn định các em sẽ
không đi lang thang nữa.
2. Nguyên nhân của tình trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm
Nguyên nhân khách quan:
Các tỉnh có tỉ lệ học sinh bỏ học cao đều là những địa phương có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và miền Tây Nam bộ.
Điều đó cho thấy rằng nguyên nhân học sinh bỏ học trước hết là do hoàn cảnh khó
khăn: dân cư sống rải rác, đường xá đi lại khó khăn, nhà xa trường, tỉ lệ hộ nghèo
cao, nhiều học sinh thiếu ăn, suy dinh dưỡng, mặc không đủ ấm; một số học sinh lớp
4, lớp 5 bỏ học do phải phụ giúp gia đình lao động kiếm sống; một số em phải bỏ
học vì theo gia đình di dân tự do. Các trường học ở đây thường thiếu thiết bị, sân
chơi, bãi tập; giáo viên ít có cơ hội giao lưu sinh hoạt, trao đổi chuyên môn, nghiệp
vụ hơn ở các nơi khác. Những yếu tố này là nguyên nhân hạn chế chất lượng giáo
dục và đời sống văn hoá của các nhà trường và do đó làm giảm niềm vui đến trường
của học sinh. Còn một nguyên nhân khác là do nhận thức của các cấp lãnh đạo, của
những người làm cha mẹ và của chính trẻ em về tầm quan trọng của tri thức và việc
học tập còn hạn chế.
Tuy vậy, ở các tỉnh, thành phố có kinh tế - xã hội phát triển cũng vẫn còn học
sinh bỏ học do ở đó vẫn có một số địa bàn khó khăn như làng chài, vùng kinh tế
mới. Tại buổi họp phối hợp hành động cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đại diện các
đoàn thể, tổ chức xã hội đã chỉ ra nhiều nguyên nhân khác nữa. Ví dụ, ở nhiều vùng
nông thôn hiện nay có các gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, con ở nhà với ông bà nên
thiếu điều kiện chăm sóc, động viên theo dõi việc học hành. Ở các đô thị các quán
chơi điện tử, các tụ điểm tệ nạn xã hội luôn là nơi rình rập, lôi kéo học sinh, nhất là
đối với những em thiếu sự theo dõi, quản lý của gia đình. Đã sa đà vào những nơi đó
thì học lực của các em càng giảm sút nên nguy cơ bỏ học càng tăng. Có đại biểu cho
rằng trong khi mở ra nhiều khu công nghiệp, một bộ phận học sinh trung học phổ
thông đã sớm rời ghế nhà trường để đi làm thì đó là một dấu hiệu tích cực của sự
phân luồng tự nhiên sau cấp trung học cơ sở.
Nguyên nhân chủ quan:
Đó là bệnh thành tích của nhiều năm qua, chúng ta đã đánh giá học sinh không
đúng thực chất, nay thực hiện đánh giá đúng năng lực học sinh, nhiều em học yếu
nản nên bỏ học. Tiếp đó là những yếu kém, bất cập trong những năm đầu thực hiện
thay sách, đổi mới phương pháp dạy học. Trước hết phải kể đến chương trình, nội
dung dạy học, một bộ sách giáo khoa thống nhất sử dụng trong cả nước rất khó phù
hợp với tất cả các vùng miền. Tuy chưa có sự đánh giá đầy đủ, khoa học nhưng hiện
nay đã và đang có nhiều ý kiến cho rằng chương trình, nội dung sách giáo khoa còn
bất cập, một số chỗ chưa phù hợp với với điều kiện dạy học và khả năng nhận thức
của học sinh….
Về đội ngũ giáo viên, có một bộ phận tuy đã chuẩn hóa về bằng cấp nhưng do
quá trình đào tạo không liên tục nên năng lực thực sự còn hạn chế. Việc đổi mới
phương pháp dạy học cũng là khó khăn không nhỏ của lớp giáo viên cao tuổi đã quá
quen với lối dạy học "đọc chép". Một số ít giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục còn
vi phạm đạo đức nhà giáo, do ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường, làm giảm uy
tín chung của ngành.
3. Một số giải pháp hạn chế tình trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm
Để từng bước hạn chế tình trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm hiện nay, cần
tập trung vào một số giải pháp sau:
- Nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm và năng lực của
gia đình, nhà trường, cộng đồng trong việc đảm bảo cho trẻ em được học tập, cũng
như có môi trường sống lành mạnh, được phát triển cả về trí tuệ và thể chất. Nhất là
những người làm cha làm mẹ, những người thân thích của trẻ em . Thực hiện các
hoạt động truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức, pháp luật, kỹ năng bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên, cộng đồng
và bản thân trẻ em.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vệ bảo vệ trẻ em: Sửa đổi, bổ sung
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ngày càng hoàn thiện; bổ sung
những quy định cụ thể về quyền được học tập của trẻ em, đặc biệt là quy định nghĩa
vụ, trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích đối với việc đảm bảo cho trẻ
em được học tập.
- Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình – xã hội. Nhà
trường trong việc quản lý giáo dục trẻ em, cần phải thực hiện tốt công tác tư vấn,
tham vấn học đường và phát huy vai trò của công tác Đoàn, Đội. Môi trường gia
đình có tác động tích cực đến việc hình thành nhân cách, do đó cha mẹ phải là tấm
gương tốt để con cái noi theo. Chính quyền địa phương phải quan tâm, chăm lo cho
học tập và sự phát triển của trẻ em. Không chỉ riêng Bộ GD-ĐT, nhiều tổ chức, đoàn
thể cùng tham gia như quyên góp sách giáo khoa, quần áo, tài chính… đảm bảo học
sinh đến trường đều có sách vở. Các tổ chức chính trị xã hội cũng kết hợp với nhà
trường phân công người giúp đỡ học sinh yếu kém…
- Ưu tiên tăng ngân sách đầu tư cho phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng
giáo dục ở những vùng, miền khó khăn của đất nước, vùng có đông người dân tộc
thiểu số, biên giới, hải đảo. Đồng thời, mở rộng các trung tâm giáo dục thường
xuyên, giáo dục cộng đồng để tất cả người dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng và
được học tập
KẾT LUẬN
Để đầu tư phát triển nguồn nhân lực của đất nước, trước hết phải quan tâm
đến việc học tập của trẻ em vì trẻ em là tương lai của đất nước. Mục tiêu đầu tiên là
giảm tỉ lệ trẻ em bỏ học và nghỉ học. Giải quyết vấn đề này cần có sự tham gia đồng
bộ của nhiều ngành, nhiều tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng, gia đình và chính
bản thân các em. Việc đảm bảo cơ hội học tập của các em phải được quan tâm
thường xuyên và coi đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong đó trách nhiệm
chính và trực tiếp là gia đình.
MỤC LỤC
Tra
ng
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….1
NỘI DUNG …………………………………………………………… ……………1
I.
Cơ sở lý luận…………………………………………………………………1
1. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích đối với sự hình
thành và phát triển của trẻ em…………………….........................................1
2. Quyền được học tập của trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam…...3
II.
Tình hình trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm hiện nay………………………..4
1. Thực trạng về tình hình trẻ em nghỉ học và bỏ học sớm hiện nay…………5
2. Nguyên nhân của tình trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm…………………7
3. Một số giải pháp hạn chế tinhg trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm……9
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Tập 1, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
2002.
3. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
4. Một số trang wed liên quan khác.