Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.74 KB, 11 trang )

Mở bài
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà còn
chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội, con người. Vì vậy, bảo đảm pháp chế được
củng cố, tang cường và hoàn thiện là yêu cầu cần thiết trong quá trình xây dụng Nhà nước
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Các biện pháp bảo
đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước rất nhiều nhưng quan trọng nhất là hoạt
động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Do đó, em chọn đề tài: “Phân tích vai trò
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế
trong quản lý hành chính nhà nước”.
Nội dung
1. Pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
“Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả
các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân
viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một
cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật” (1)
Pháp chế xã hội chủ nghĩa có nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân, là phương thức thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Nói đến pháp chế là nói đến pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước là
nhấn mạnh đến trật tự pháp luật nhằm bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích của công dân,
củng cố và duy trì địa vị pháp lý hành chính của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
Bảo đảm pháp chế là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện, phương pháp và
cách thức nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế, đem lại lợi ích
cho Nhà nước, cho xã hội và cho người lao động.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện, tổ chức – pháp lý do các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Như vậy, bảo đảm pháp chế có thể hiểu như là những điều kiện, những phương tiện và
những khả năng thực hiện trên thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm xây dựng và củng
cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của công dân trên tất


cả các mặt của đời sống xã hội.
(1) TS. Đỗ Ngọc Hải, Pháp chế XHCN trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND và UBDN các cấp ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, H.2007, tr.54
1


Việc bảo đảm pháp chế có ý nghĩa to lớn đối với quản lý nhà nước nói chung, quản lý
hành chính nhà nước nói riêng nếu:
Pháp chế được đảm bảo thông qua đường lối chính trị của Đảng cầm quyền.
Pháp chế được đảm bảo thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức.
Pháp chế được đảm bảo thông qua chế độ kinh tế của xã hội.
- Pháp chế được đảm bảo thông qua các yếu tố pháp lý như thể chế pháp lý, chế định
pháp lý, công cụ pháp lý và các biện pháp pháp lý.
2. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm
bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
2.1. Một số vấn đề chung về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Theo Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không”. Đi vào bản chất của khái niệm “giám sát” thì
“giám sát” được quan niệm là hoạt động có ý thức, có tổ chức, có mục đích. Hoạt động
giám sát luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, xác định được đối tượng chịu sự giám sát
nhất định và thể hiện được nội dung về quyền và trách nhiệm của hai bên chủ thể trong
quan hệ giám sát. Hoạt động giám sát phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp
luật, tuân theo những nguyên tắc, thủ tục nhất định, đồng thời cũng phải được bảo đảm
thực hiện bằng những biện pháp cần thiết.
Thông qua hoạt động giám sát, cơ quan quyền lực sẽ phát hiện những yếu kém về mặt
tổ chức, lệch lạc trong nhận thức, hành động, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm lợi ích Nhà nước... để từ đó có biện pháp khắc phục, xử lý thích đáng. Cơ quan
quyền lực có điều kiện kiểm nghiệm về tính hợp lý, hợp pháp của các qui định cũng như
các biện pháp quản lý của mình. Để từ đó từng bước nâng cao hiệu quả của quản lý hành
chính nhà nước.

Giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của Quốc hội được xác định xuyên
suốt tất cả các bản Hiến pháp của nước ta và cũng được cụ thể hoá trong các văn bản pháp
luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội bao gồm trước
hết và trực tiếp là Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang cũng đều là những đối tượng chịu sự giám sát của các cơ quan chuyên môn
của Quốc hội. Mục đích của hoạt động giám sát chính là bảo đảm việc thi hành nghiêm
chỉnh Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, của các cơ quan nhà nước và toàn xã hội.
2.2. Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội
2


Điều 83 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 của Luật tổ chức Quốc hội quy định: “Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định: “Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.”
Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước
được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ,
thông qua hoạt động giám sát thường xuyên của các tổ đại biểu hoặc các đại biểu đối với
hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
Quyền giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính Nhà nước có phạm vi rất lớn,
thể hiện rõ tính quyền lực Nhà nước thành lập, bãi bỏ các cơ quan, các chức danh của bộ
máy hành chính Nhà nước... và cả trong hoạt động cụ thể của bộ máy hành chính Nhà
nước. Điều 84 Hiến pháp 1992 Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,

không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa…Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và pháp luật…”.
Mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều phải thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật và trên cơ sở quy định của pháp luật. Pháp luật là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua hoạt động giám sát công tác xây dựng pháp luật, giám sát thực tiễn việc thi
hành pháp luật mà Quốc hội nắm được lĩnh vực nào của đời sống xã hội cần phải xây dựng
văn bản để điều chỉnh.
Hoạt động thẩm tra, cho ý kiến của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đối với dự án
pháp luật cũng thể hiện vai trò giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính nhà nước.
Bởi vì, việc thẩm tra thể hiện dự án phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động hay chưa? Các quy định của dự án đã
phù hợp với thực tế và bảo đảm tính khả thi hay chưa? Các văn bản pháp luật đã bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật hay chưa?...
Ngoài ra Quốc hội còn giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Đối với hoạt động giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh, công
tác giám sát của Quốc hội có vai trò rất lớn. Thông qua công tác giám sát, Quốc hội và các
3


cơ quan của Quốc hội phát hiện được những vấn đề còn vướng mắc trong việc thi hành và
áp dụng pháp luật, những quan niệm và cách hiểu khác nhau về các quy định của pháp luật
để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
đối với những vấn đề còn vướng mắc, bảo đảm cho Hiến pháp, luật và pháp lệnh được hiểu
và áp dụng thống nhất.
Như vậy, nếu thực hiện tốt công tác giám sát việc thi hành pháp luật, Quốc hội có cơ sở
vững chắc để thẩm tra, xem xét, cho ý kiến đối với dự án pháp luật; đồng thời cũng chính
là thực hiện tốt công tác giám sát đối với lĩnh vực xây dựng pháp luật của các cơ quan quản
lý các cấp. Thực hiện tốt công tác giám sát, Quốc hội có điều kiện thuận lợi để xây dựng

một hệ thống pháp luật hoàn thiện, có hiệu lực và tính khả thi cao, làm cơ sở và tiền đề
vững chắc cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Qua đó, góp phần quan trọng nâng
cao bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội nắm bắt được những vấn đề thuộc về quản lý
hành chính nhà nước cần giải quyết, trong đó có những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết
bằng cách quyết định của Quốc hội. Kết quả hoạt động giám sát là cơ sở thực tiễn quan
trọng nhằm bảo đảm cho các quyết định của Quốc hội thực sự khách quan, có cơ sở thực
tiễn và bảo đảm tính khả thi. Đồng thời, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội nắm bắt
được việc triển khai thi hành các quyết định của Quốc hội trên thực tế như thế nào để có
biện pháp xử lý kịp thời và bảo đảm để các quyết định đó phải được các cơ quan nhà nước
có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh.
Vai trò của hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện rõ nét thông qua việc giám sát
trực tiếp các hoạt động quản lý hành chính nhà nước
Xét báo cáo công tác và các báo cáo chuyên đề của Chính phủ.
Qua thực tế hoạt động của các nhiệm kỳ Quốc hội cho thấy một xu hướng chung là, để
đáp ứng đòi hỏi của tình hình cũng như nguyện vọng của cử tri cả nước, Quốc hội đã từng
bước quan tâm theo dõi sát sao hơn nữa các hoạt động của Chính phủ. Số lượng các báo
cáo của Chính phủ được yêu cầu báo cáo tại Quốc hội ngày càng gia tăng về số lượng và
chất lượng cũng đòi hỏi ngày một khắt khe hơn.
Thông qua việc xem xét các báo cáo của Chính phủ, Quốc hội thực hiện được sự giám
sát một cách toàn diện các hoạt động của Chính phủ và nắm bắt được tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước. Từ đó, Quốc hội có cơ sở thực tiễn để tiếp tục đề ra những chủ trương,
định hướng mới để Chính phủ tổ chức thực hiện, điều chỉnh kịp thời những chủ trương,
biện pháp chưa phù hợp và uốn nắn những sai sót trong tổ chức thực hiện của Chính phủ.
Việc Quốc hội xem xét các báo cáo của Chính phủ thực sự có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc không những tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ tổ chức triển khai các biện pháp
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… mà
4



còn góp phần bảo đảm cho các chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước của Chính phủ
được điều chỉnh phù hợp hơn, có tính khả thi hơn trong thực tiễn.
Giám sát công tác ban hành văn bản của Chính phủ.
Ban hành văn bản thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là trách nhiệm và là biện pháp quản lý nhà nước
quan trọng nhất của Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Do đó, việc ban
hành văn bản có vai trò đặc biệt quan trọng và là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả của
quản lý hành chính nhà nước.
Luật tổ chức Quốc hội quy định Quốc hội có thẩm quyền “Bãi bỏ các văn bản của…
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”
(Điều 2); Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền “đình chỉ việc thi hành các văn bản
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ… trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội” (Điều 6); Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có thẩm quyền “giám sát việc ban hành nghị
quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ” (Điều 23).
Trong thực tiễn hoạt động, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Quốc
hội thường xuyên có sự phối hợp, cộng tác chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan được
Chính phủ giao trực tiếp giúp Chính phủ trong việc ban hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và
các nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi luật, pháp lệnh, nghị
quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành, các cơ quan của Quốc hội
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc các cơ quan
chuẩn bị văn bản để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành theo đúng tiến độ và yêu cầu thi
hành pháp luật.
Đối với những vấn đề mà nội dung quy định là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu
quản lý hành chính nhà nước, nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành lập hoặc pháp lệnh
thì Chính phủ phải có báo cáo bằng văn bản đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội đồng ý
cho Chính phủ ban hành nghị quyết để quy định. Hoạt động này đã góp phần quan trọng
trong việc bảo đảm cho công tác ban hành văn bản của Chính phủ tuân thủ đúng quy định
của Hiến pháp và pháp luật, kể cả thẩm quyền, thủ tục cũng như nội dung văn bản được

ban hành.
Việc giám sát tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản do Chính phủ ban
hành được giao cho Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội. Tuy nhiên, đối với những vấn đề có
liên quan, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cũng có thể tiến hành giám sát và
có ý kiến. Trong quá trình giám sát việc ban hành văn bản của Chính phủ, đối với những
trường hợp phát hiện văn bản được ban hành chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp,
5


luật, pháp lệnh hoặc nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có văn bản yêu cầu Chính phủ xem xét lại để có biện pháp xử lý phù
hợp.
- Giám sát trực tiếp việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Hàng năm, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
thường xuyên tổ chức các cuộc giám sát trực tiếp việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội của Chính phủ tại các Bộ, ngành và địa phương trong cả nước.
Để đảm bảo chất lượng các cuộc giám sát, các đoàn giám sát thường chuẩn bị kế hoạch
giám sát cụ thể (bao gồm mục đích, chương trình, nội dung giám sát; đối tượng giám sát;
yêu cầu giám sát; thời gian giám sát…) và gửi trước cho lãnh đạo các Bộ, ngành, chính
quyền địa phương, cho các cơ quan, tổ chức là đối tượng giám sát và các cơ quan, tổ chức
hữu quan khác để phối hợp tham gia vào hoạt động giám sát của đoàn.
Trong quá trình tiến hành giám sát thực tế, đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan,
đơn vị, tổ chức chịu sự giám sát cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám
sát; yêu cầu cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân trả lời trực tiếp về vấn đề mà đoàn quan
tâm; kiểm tra thực tiễn tại cơ quan, đơn vị, tổ chức mà đoàn giám sát. Nếu phát hiện có vi
phạm pháp luật, đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị, tổ chức có hành vi vi
phạm pháp luật phải chấm dứt ngay hành vi vi phạm pháp luật đó.
Qua công tác giám sát trực tiếp việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Chính
phủ, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội
đã góp phần rất quan trọng trong việc kiểm tra, đôn đốc các hoạt động nhằm tổ chức thi

hành Hiến pháp, pháp luật của Chính phủ, các cơ quan chịu sự chỉ đạo của Chính phủ. Qua
đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trực
tiếp góp phần phát hiện và kiến nghị những biện pháp về mặt quản lý nhà nước giúp Chính
phủ, các cơ quan của Chính phủ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình, uốn nắn kịp thời
những sai phạm xảy ra trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Đại biểu Quốc hội chất vấn các thành viên Chính phủ
Điều 98 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn…
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ… Người bị chất
vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp…”.
Đìều 42 của Luật tổ chức Quốc hội cũng quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất
vấn… Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ… Người bị chất vấn
phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn…”.
Chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác
của Chính phủ là một hình thức giám sát cũng ngày càng giữ một vai trò quan trọng.
6


Tại các kỳ họp Quốc hội gần đây, nội dung chất vấn mà các đại biểu nêu ra ngày càng
đa dạng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Với tư cách là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước trong Quốc hội, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu người bị chất vấn phải
giải trình về những vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức do người bị chất
vấn phụ trách mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Do đó, thông qua việc chất vấn, Quốc hội
giám sát được hoạt động của cơ quan, tổ chức này. Như vậy, chất vấn tuy là quyền của cá
nhân đại biểu Quốc hội, nhưng khi đại biểu thực hiện quyền này thì có tính chất là một hoạt
động giám sát của Quốc hội. Hình thức chất vấn có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện sâu sắc
tính công khai, dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Thông qua hoạt động chất vấn, các
đại biểu Quốc hội, Quốc hội góp phần quan trọng vào việc phản ánh ý kiến, tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, góp phần chấn chỉnh hoạt
động của các cơ quan nhà nước ngày càng phù hợp hơn và góp phần nâng cao trách nhiệm

đối với công việc của các thành viên Chính phủ trên cương vị được giao.
2.3. Vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của uỷ ban nhân dân và
các cơ quan quản lý chuyên môn ở địa phương. Hội đồng nhân dân giám sát bằng cách
nghe báo cáo, đánh giá báo cáo của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân có quyền bãi
miễn các chức danh của các cơ quan hành chính địa phương. Có quyền bãi bỏ quyết định
sai trái của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước nhưng hoạt động của nó mang tính
đặc thù của chính quyền địa phương chấp hành hiến pháp, pháp luât, pháp lệnh. Hội đồng
nhân dân nằm dứơi sự kiểm tra hướng dẫn của pháp luật. Hoạt động giám sát của các cơ
quan nhà nước ở địa phương do Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành trong phạm vi đơn vị
hành chính - lãnh thổ của mình.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (các Điều 120, 121, 122), Hội đồng nhân dân
với tư cách là cơ quan đại biểu của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
có quyền ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc
phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định thực hiện các nghị quyết đó. Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc thực thi Hiến pháp, pháp luật bằng cách
xét báo cáo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, của Chánh án Toà án nhân dân, của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và của thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân
dân.
7


Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có quyền trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Hiến pháp, pháp luật thông qua mối liên hệ với cử tri, chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch và các thành viên Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân và Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp...
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân góp phần tích cực vào việc phát hiện các sai
trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật. Trên cơ sở đó kiến nghị cấp

có thẩm quyền giải quyết, xử lý kịp thời nhữn sai phạm đó; đôn đốc các cơ quan tổ chức
hữu quan thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân và của cấp trên cũng như giải quyết
các vấn đề bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành có hiệu quả các quy định của pháp luật
và nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa phương.
3. Thực tiễn hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm
bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước nói chung còn những
hạn chế nhất định. Đó là việc xem xét các văn bản quy phạm pháp luật chưa được tập trung
làm tốt. Qua giám sát, có nhiều vấn đề còn bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung nhưng chưa
được đưa vào chương trình vì bản thân cơ quan quyền lực nhà nước tự mình chưa đủ điều
kiện rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, trong khi Chính phủ thì lại chậm trình Quốc
hội. Ngay cả những luật đã được Quốc hội thông qua, Chính phủ cũng chưa hướng dẫn kịp
thời. Lý do quá tải thì đã rõ, nhưng lối ra cho sự tiến triển nhanh thì còn phải gia công
nhiều. Các lĩnh vực đất đai, xây dựng, đầu tư xây dựng cơ bản có vốn nhà nước - thủ tục
còn rất nhiều kẽ hở
Hiện nay các đơn thư khiếu nại của công dân gửi cơ quan quyền lực nhà nước cũng còn
khá nhiều. Nội dung khiếu nại phần lớn ở lĩnh vực đất đai, những vụ việc liên quan đến xét
xử của tòa án và việc thi hành pháp luật. Đây là vấn đề khá nan giải vì cơ quan quyền lực
nhà nước ít có điều kiện đi sâu, nên phần lớn đã chuyển trở lại cho cơ quan chức năng, và
trong nhiều trường hợp cơ quan quyền lực nhà nước đã không theo dõi được kết quả xử lý.
Hậu quả pháp lý sau giám sát, chất vấn như xem xét trách nhiệm người được Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn gần như chưa được dùng tới. Mặc dù cũng có không ít vụ việc được
xem xét, giám sát, chất vấn nhiều lần, nhắc nhở, lưu ý nhiều lần. Đây là vấn đề cần được
tiếp tục làm rõ để khắc phục nhanh...
Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước nhằm làm tốt
chức trách, quyền hạn của mình và góp phần thúc đẩy sự chuyển động chung của các
nhánh quyền lực theo yêu cầu của sự phát triển và mong muốn của nhân dân. Đối với cơ
quan quyền lực nhà nước, giám sát tốt để công tác lập pháp ngày càng hoàn thiện hơn và
8



ngay cả việc quyết định những công việc quan trọng của đất nước cũng có thêm cơ sở để
lượng giá, để xem xét một cách thấu đáo.
4. Phương hướng tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là một trong những hoạt động nhà
nước quan trọng. Cùng với các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ
chức khác, hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đã góp phần quan trọng
vào việc bảo đảm cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật và không ngừng nâng cao hiệu quả.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước vẫn còn nhiều vướng mắc và hạn chế. So với yêu cầu, đòi hỏi khách quan của quản lý
hành chính nhà nước và yêu cầu phát triển đất nước thì hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước vẫn là “điểm yếu” và còn cần phải cố gắng rất nhiều mới có thể tương
xứng với vai trò của cơ quan đại biểu của nhân dân. Điều này do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan.
Để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước, tiếp tục đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động.
- Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan đảng, nhà nước và tổ
chức chính trị - xã hội có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm sát và giám sát hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước.
Hiện nay, trong việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức
chính trị - xã hội có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát còn có những điểm
chưa rõ ràng, ăn nhịp. Do đó, hiệu quả của việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nói
chung và hiệu quả thanh tra, kiểm tra, kiểm sát và giám sát của từng cơ quan, tổ chức nói
riêng còn rất mức độ, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình mới. Do đó cần tiếp tục
nghiên cứu, cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện tốt việc đổi mới nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó có đổi mới
và nâng cao chất lượng cơ chế phân công, phối hợp hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sat,
giám sát của các cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Nhìn chung, các quy định về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước mới
chỉ dừng ở xác định những vấn đề có tính nguyên tắc chung, chưa đủ cụ thể để triển khai
có hiệu quả; một số vấn đề cần thiết phải được quy định. Do đó, cần sớm ban hành luật về
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, giải quyết được những vướng mắc về
9


cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Liên quan đến việc
cần sớm ban hành luật về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, cũng cần
thiết phải xem xét, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về
hệ thống chính trị nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất và có hiệu lực
cao cho hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
- Tăng cường về số lượng và chất lượng thành viên chuyên trách; đề cao hơn
nữa vai trò, trách nhiệm của các thành viên, cải tiến lề lối làm việc của các cơ quan cơ
quan quyền lực nhà nước trong công tác giám sát.
Số lượng và chất lượng thành viên chuyên trách của các cơ quan quyền lực nhà nước
có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng hoạt động giám sát. Từ Quốc hội khoá VIII trở lại
đây, số lượng thành viên làm công tác chuyên trách của các cơ quan của Quốc hội không
ngừng tăng lên với chất lượng chuyên môn ngày một cao. Tuy nhiên, với số lượng thành
viên của mỗi Hội đồng, Uỷ ban là khoảng từ 2 đến 4 thành viên như hiện nay là quá mỏng
so với đòi hỏi của nhiệm vụ chung cũng như của công tác giám sát. Đi đôi với việc tăng
cường về số lượng và chất lượng thành viên chuyên trách cần đặc biệt coi trọng, đề cao vai
trò, trách nhiệm của các thành viên trong công tác giám sát. Không nhất thiết cứ phải tham
gia các đoàn giám sát mới là thực hiện nhiệm vụ giám sát, mà việc thực hiện nhiệm vụ
giám sát phải được quan niệm gắn liền và lồng vào trong từng hoạt động riêng biệt của
từng thành viên các cơ quan quyền lực nhà nước.
Kết luận
Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đem lại nhiều kết quả khá tốt, góp
phần vào việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả

hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2010
2. Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại
học quốc gia, Hà Nội, 2005.
Văn bản quy phạm pháp luật
1. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003
2. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008
10


3. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
năm 2004
Các website
1.
2.
3.
4.


/> /> />
11



×