Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Đánh giá tính hợp lý củapháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192 KB, 11 trang )

 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU:............................................................................................................1
NỘI DUNG:................................................................................................................1
I.

Một số vấn đề chung......................................................................................1

1.

Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính............................................................1

2.
Các quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính............................................................................................................................1
2.1.
Các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính............................................................................................................1
2.2.
Các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt
VPHC...........................................................................................................2
II.

Đánh giá tính hợp lí của các quy định của pháp luật về thẩm quyền và
thủ
tục
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính...................................................................2


II.1. Đánh giá tính hợp lí của các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính.................................................................................................................1
II.2. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính.........................................................................................................6
III.

Nhận xét...........................................................................................................7

III.1. Một số điểm chưa hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính.......................................................................................7
III.2. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong pháp luật về thẩm quyền và thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính................................................................9
III.3. Hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính nói riêng, các quy định về XLVPHC nói chung..............................10
LỜI KẾT:.......................................................................................................................11
1


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:......................................................................12

 LỜI MỞ ĐẦU
Xử lí vi phạm hành chính nói chung, xử phạt vi phạm hành chính nói riêng, là công
cụ quan trọng trong hoạt động quản lí nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỉ cương của Nhà
nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân,
được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm. Nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề bài viết dưới đây xin được tìm hiểu đề tài: Đánh giá tính hợp lý của
pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

 NỘI DUNG 
I. Một số vấn đề chung

1.
Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Theo điều 1 pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 sửa đổi bổ sung năm 2008 (sau
đây gọi tắt là pháp lệnh xử lí VPHC) thì VPHC là hành vi do “cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
2.
Các quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính
2.1. Các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Thẩm quyền xử lí VPHC là khả năng được áp dụng các biện pháp xử lí hành
chính trong giới hạn nhất định cho cá nhân hoặc tổ chức. Thẩm quyền xử lí VPHC của
chủ thể nào đó được xác định bằng những quyền hạn mà pháp luật quy định cho các
chủ thể đó được áp dụng biện pháp xử lí với mức độ được xác định cụ thể.
Thẩm quyền xử lí VPHC được quy định tại chương IV của Pháp lệnh xử lí
VPHC năm 2002 với 15 điều (từ Điều 28 đến Điều 42).
☆ Chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC:
Khác với việc xét xử các hành vi phạm tội mà ở đó thẩm quyền thực hiện công
việc này được giao cho một cơ quan duy nhất là Tòa án thực hiện, việc xử phạt VPHC
được giao cho nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khác nhau thực hiện. Theo quy
định của pháp luật, thẩm quyền xử phạt VPHC thuộc về các cơ quan sau đây: Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân các cấp ( từ điều 28 đến điều 30 pháp lệnh xử lí VPHC); Các cơ quan
công an nhân dân (Điều 31); Bộ đội biên phòng (Điều 32); Cơ quan cảnh sát
biển( Điều 33); Cơ quan hải quan (Điều 34); Cơ quan kiểm lâm (Điều 35); Cơ quan
2


thuế (Điều 36); Cơ quan quản lí thị trường (Điều 37); Cơ quan thanh tra chuyên ngành
(Điều 38); Giám đốc cảng vụ hàng hải, thuỷ nội địa, hàng không (Điều 39); Toà án

nhân dân các cấp và cơ quan thi hành án dân sự (điều 40).

Pháp lệnh xử lý VPHC đồng thời cũng quy định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính cụ thể của mỗi cán bộ có thẩm quyền xử phạt trong các cơ quan này.

Pháp lệnh xử lý VPHC quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt
VPHC tại Điều 42 Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002.
2.2. Các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt VPHC
Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời
gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là
cách thức giải quyết công việc của các cơ quan Nhà nước trong mối quan hệ với các
cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân.
Thủ tục xử phạt VPHC được quy định chủ yếu tại Chương VI Pháp lệnh xử lí
VPHC năm 2002. Trên cơ sở Pháp lệnh, ngày 14/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị
định số 134/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
XLVPHC năm 2002, trong đó có các quy định về thủ tục xử phạt VPHC (Chương IV
Nghị định). Các Nghị định quy định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước chủ yếu viện dẫn các quy định về thủ tục xử phạt của Pháp lệnh XLVPHC năm
2002 và Nghị định số 134/2003/NĐ-CP.
Pháp lệnh xử lí VPHC quy định 2 loại thủ tục là thủ tục đơn giản và thủ tục có
lập biên bản:
- Nếu xem xét và thấy rằng vi phạm của cá nhân tổ chức chỉ bị phạt ở mức cảnh
cáo hoặc phạt tiền đến 200000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử
phạt tại chỗ mà không cần phải lập biên bản về hành vi VPHC.
- Nếu thấy rằng vi phạm của cá nhân tổ chức bị phạt tiền ở mức từ 200000 đồng
trở lên thì người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện việc xử phạt theo trình tự thủ
tục quy định tại các điều 55, 56, 57 Pháp lệnh xử lí VPHC.
☆ Thủ tục thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính:

Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày kí, trừ trường hợp trong quyết định

quy định ngày có hiệu lực khác.
Cá nhân tổ chức bị xử phạt phải tự nguyện thi hành quyết định xử phạt. Nếu hết
thời hạn tự nguyện thi hành quyết định xử phạt mà tổ chức, cá nhân không thi hành
quyết định xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt buộc tổ chức, cá nhân phải thi hành.
3


II. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm

hành chính
2.1.

Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính

Qua tìm hiểu chung những quy định hiện hành về thẩm quyền XPVPHC chúng ta
nhận thấy những điểm hợp lí thể hiện rõ qua nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt
hành chính. Cụ thể như sau:
Điều 42 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định nguyên tắc xác
định thẩm quyền xử phạt hành chính. Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên ba tiêu
chí, đó là thẩm quyền quản lí, mức tối đa của khung phạt tiền và hình thức xử phạt.
 Xác định thẩm quyền xử phạt theo thẩm quyền quản lí
Pháp luật quy định thẩm quyền xử phạt VPHC dựa theo thẩm quyền quản lí nhằm
tạo điều kiện để việc xử lí VPHC có thể tiến hành nhanh chóng, kịp thời và chính xác.
Song không phải bất kì chủ thể nào có thẩm quyền quản lí cũng đều có thẩm quyền xử
phạt VPHC mà chỉ có các chủ thể được quy định tại Điều 28 đến Điều 40 của Pháp
lệnh XLVPHC năm 2002 mới có thẩm quyền xử phạt VPHC.
☆ Theo thẩm quyền quản lí thì chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử
phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lí Nhà nước ở địa phương.

☆ Người có thẩm quyền xử phạt VPHC quy định tại Điều 31 đến Điều 40 của pháp
lệnh có thẩm quyền xử lí VPHC thuộc các lĩnh vực ngành mình quản lí.
Tuy nhiên, việc quy định nhiều chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC có thể dẫn
đến trường hợp trong một VPHC thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều chủ thể. Trường
hợp này đã được pháp luật dự liệu và quy định: thẩm quyền xử phạt VPHC được pháp
luật xác định thuộc về người thụ lí đầu tiên. Vấn đề này đã bổ sung và tạo điều kiện để
hiểu rõ hơn về khía cạnh thẩm quyền xử phạt khi áp dụng nguyên tắc xử lí VPHC được
quy định tại khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002: “Một VPHC chỉ bị xử
phạt một lần” tránh trường hợp nhiều người cùng xử phạt một VPHC.
 Xác định thẩm quyền xử phạt theo mức tối đa của khung phạt tiền
Nếu như việc xác định thẩm quyền xử phạt theo thẩm quyền quản lí nhằm phân
định thẩm quyền xử phạt giữa những người có thẩm quyền quản lí thuộc các ngành,
các lĩnh vực khác nhau thì việc xác định thẩm quyền xử phạt theo mức tối đa của
4


khung phạt tiền quy định đối với từng vi phạm cụ thể đã phân định thẩm quyền xử phạt
giữa những người có thẩm quyền xử phạt trong cùng một lĩnh vực, một ngành quản lí.
Mức tối đa của khung phạt tiền quy định đối với từng hành vi là một trong những tiêu
chí làm căn cứ để xác định thẩm quyền xử phạt, bởi lẽ phạt tiền là biện pháp xử phạt
hành chính được áp dụng đối với hầu hết các VPHC trong tất cả các lĩnh vực của quản
lí hành chính Nhà nước. Hơn nữa tất cả các chủ thể có thẩm quyền đều có quyền áp
dụng hình thức phạt tiền chỉ khác nhau ở mức phạt. Trong việc xử phạt hành chính,
mức phạt tiền thể hiện sự đánh giá của Nhà nước đối với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi (mặc dù không cao) qua đó thể hiện sự nghiêm khắc và tính
giáo dục ý thức pháp luật đối với người vi phạm và đối với xã hội nói chung. Như
vậy,qua đó có thể thấy việc quy định khung phạt tiền đối với VPHC là không thể thiếu
và việc xác định mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt là một trong những tiêu chí
xác định thẩm quyền xử phạt là hoàn toàn chính xác.
Khoản 2 Điều 42 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 quy định: “Thẩm quyền xử

phạt của những người từ Điều 28 đến Điều 40 pháp lệnh này là thẩm quyền áp dụng
đối với một hành vi VPHC. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác
định căn cứ vào mức tối đa của khung phạt tiền quy định đối với từng hành vi vi phạm
cụ thể”. Đây là điểm mới so với Pháp lệnh xử lí VPHC năm 1995. Điểm bổ sung mới
này đã khắc phục tình trạng hiểu nhầm thẩm quyền của những người được quy định tại
các Điều 28 đến Điều 40 là thẩm quyền cho mỗi lần ra quyết định xử phạt hành chính
trong trường hợp một người thực hiện hành vi VPHC. Với cách quy định của Điều 42
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, mọi người đều dể dàng hiểu rằng khi áp dụng hình
thức phạt tiền, để xác định thẩm quyền, người xử phạt phải quan tâm xem hành vi
VPHC đó có thuộc thẩm quyền xử phạt của mình hay không mà không phải để ý đến
tổng số tiền phạt chung của nhiều hành vi vi phạm.
 Xác định thẩm quyền xử phạt theo hình thức xử phạt
Mỗi VPHC đều được quy định đồng thời với các hình thức xử phạt tương ứng.
Chủ thể có thẩm quyền xử phạt đối với VPHC phải là chủ thể có thẩm quyền áp dụng
hình thức xử phạt đã được quy định cho hành vi đó. Việc quy định thẩm quyền xử phạt
trong trường hợp này phụ thuộc vào hình thức, mức phạt đối với từng hành vi chứ
không phụ thuộc vào số tiền đối với hành vi vi phạm đó. Nếu một trong các hành vi có
hình thức, mức phạt được quy định vượt quá thẩm quyền của người xử phạt thì người
đó phải chuyển đến cấp có thẩm quyền xử phạt. Trong xử phạt hành chính tất cả các
chủ thể có thẩm quyền xử phạt đều có quyền áp dụng hình thức phạt tiền và cảnh cáo
vì vậy nếu theo tiêu chí hình thức xử phạt thì các chủ thể có thẩm quyền khác nhau đối
5


với việc áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung và áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả.
Ngoài hình thức, mức phạt được quy định với từng hành vi thì việc xác định
thẩm quyền xử phạt trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi còn phụ thuộc
vào thẩm quyền quản lí, cụ thể là: “ Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều người thuộc các ngành khác nhau thì quyền xử phạt thuộc chủ tịch ủy ban nhân

dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm” ( điểm c khoản 3 Điều 42). Quy
định này của pháp lệnh là hợp lí. Ủy ban nhân dân là cơ quan quản lí có thẩm quyền
chung, quản lí tất cả các lĩnh vực trong địa phương mình, do đó việc xác định chủ tịch
ủy ban nhân dân có thẩm quyền xử phạt đối với trường hợp một người thực hiện nhiều
vi phạm thuộc lĩnh vực quản lí khác nhau là tạo điều kiện để việc XLVPHC được
nhanh chóng, kịp thời và chính xác.
2.2.

Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính

So với Pháp lệnh XLVPHC năm 1995, Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008 đã có nhiều quy
định cụ thể hơn về thủ tục xử phạt, bổ sung thêm một số quy định mới để đáp ứng yêu
cầu thực tế. Qua tìm hiểu những quy định chung của pháp luật về thủ tục xử phạt
VPHC chúng ta thấy, nếu thủ tục đơn giản tạo điều kiện XLVPHC nhanh, gọn thì thủ
tục có biên bản đảm bảo xử phạt có cơ sở. Việc quy định hai hình thức xử phạt VPHC
tạo sự linh hoạt trong xử phạt, vừa nhanh chóng vừa chính xác trong những khả năng
và điều kiện cho phép. Cụ thể như sau:
Việc duy trì thủ tục xử phạt đơn giản đảm bảo hiệu quả nhất định đối với
những hành vi vi phạm nhỏ, đơn giản trong một số lĩnh vực như trật tự, an toàn giao
thông đô thị, vệ sinh đường phố. Mức tiền phạt trong thủ tục đơn giản trong pháp lệnh
xử lý VPHC năm 2002 sửa đổi bổ sung 2008 đã tăng lên 200.000 đồng. Có thể thấy
việc tăng mức tiền phạt là hoàn toàn hợp lí với tình hình thực tế hiện nay. Số lượng
VPHC ngày càng nhiều, mức sống của người dân cũng đã nâng cao hơn so với trước
đây việc tăng mức phạt tiền sẽ làm tăng tính nghiêm khắc trong việc xử phạtVPHC,
góp phần ổn định trật tự xã hội, đảm bảo pháp chế của nhà nước. Đồng thời, việc nâng
mức tiền phạt theo thủ tục đơn giản là cần thiết để khắc phục tình trạng vụ việc vi
phạm phải dồn lên cấp trên giải quyết.


Thủ tục xử phạt có lập biên bản được quy định chi tiết về người có thẩm
quyền lập biên bản, nội dung biên bản, quyết định xử phạt, nội dung của quyết định
xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính… Việc quy định như vậy sẽ tạo


6


điều kiện thuận lợi cho những tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng đúng pháp
luật, tránh tình trạng xử lí không đúng người đúng hành vi. Ngoài ra, Điều 55 của
pháp lênh XLVPHC năm 2002 còn quy định trong biên bản về VPHC phải ghi rõ
ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên,
địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tên, địa chỉ tổ chức vi phạm; giờ, ngày,
tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm… Những quy định này đảm bảo tính công khai,
minh bạch của quyết định xử phạt, tránh tình trạng tự ý phạt mà không có căn cứ pháp
luật. Biên bản VPHC là cơ sở để người xử phạt khiếu nại, khởi kiện cơ quan Nhà
Nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc khiếu nại và xét xử vụ kiện đối với quyết định
xử phạt VPHC.
Về thủ tục thi hành quyết định xử phạt VPHC, pháp luật quy định: cá nhân, tổ
chức bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt hoặc
nộp tại kho bạc nhà nước. Quy định này đã tránh được khó khăn, phiền hà cho tổ chức,
cá nhân bị xử phạt và cả người có thẩm quyền xử phạt đồng thời nó cũng hạn chế được
các tiêu cực có thể xảy ra trong xử phạt VPHC.
III.

Nhận xét

3.1.

Một số điểm chưa hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi

phạm hành chính

Những kết quả đã đạt được trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
xử lý VPHC thời gian qua không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước mà còn đáp ứng yêu cầu phòng ngừa vi phạm pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn, một số văn bản này đã bộc lộ những bất cập,
thiếu sót, vướng mắc và mâu thuẫn lẫn nhau.
☆ Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Về mặt nguyên tắc, việc xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung và văn bản quy phạm pháp luật XLVPHC phải bảo đảm tính thống nhất nội tại
trong một văn bản cũng như giữa các văn bản với nhau, đồng thời phải rõ ràng về thứ
bậc, chính xác, minh bạch và dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính khả thi cao. Nhưng thực tế
cho thấy, thẩm quyền của một số chủ thể và chế tài xử phạt hành chính quy định trong
Pháp lệnh XLVPHC hiện hành vẫn còn mâu thuẫn với quy định trong một số văn bản
luật chuyên ngành.

7


Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 40c của Pháp lệnh XLVPHC (sửa đổi, bổ
sung năm 2008), thì Cục trưởng Cục quản lý cạnh tranh và Chủ tịch Hội đồng cạnh
tranh được quyền xử phạt hành chính hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh với mức
phạt tiền tối đa là 70 triệu đồng. Trong khi đó, theo quy định của Luật Cạnh tranh
năm 2005 thì cơ quan có thẩm quyền duy nhất được xử phạt hành chính đối với hành
vi cạnh tranh không lành mạnh là cơ quan quản lý cạnh tranh (Điều 49). Và cơ quan
quản lý cạnh tranh được phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân
vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm (khoản 1 Điều 118 của Luật Cạnh tranh năm 2005).
Một bất cập nữa là nếu thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì
trong hầu hết các trường hợp vi phạm và cấp cơ sở chỉ kiểm tra, phát hiện vi phạm rồi

lập biên bản, báo cáo cấp trên, dẫn đến tình trạng quá tải ở cấp trên. Mặc dù quy định
hiện nay đã nâng dần thẩm quyền xử phạt của cấp xã từ 500.000 lên 2 triệu đồng, cấp
huyện từ 10 triệu lên 20 triệu nhưng cấp xã vẫn không phạt được vì phần lớn các hành
vi vi phạm đều có mức phạt cao hơn, nên lại phải chuyển lên cấp quận, huyện. Quy
định như vậy vô hình trung đã làm yếu đi chức năng quản lý cấp cơ sở. Mặt khác, một
hành vi vi phạm có khi lại do nhiều cơ quan cùng xử phạt: thanh tra giao thông, cảnh
sát giao thông, quản lý trật tự đô thị… dẫn đến “loạn” xử phạt, công tác phối hợp giữa
các lực lượng rất yếu, quyền ai người nấy phạt, chồng chéo với nhau là chuyện thường
xảy ra.
☆ Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
Về thủ tục có lập biên bản, nội dung của biên bản được quy định tại Khoản 2 Điều
55 Pháp lệnh XLVPHC.
Điều 55 quy định nội dung của biên bản đã thể hiện rõ tính khoa học, chặt chẽ và
phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, một số quy định của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP
(hướng dẫn thi hành Pháp lệnh XLVPHC năm 2002) và mẫu biên bản để xử phạt (ban
hành kèm theo Nghị định) lại quá dài, mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến kết quả xử lý
vi phạm . Trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử lý đã chuyển vụ việc về
giải quyết theo thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều để tránh thủ tục lập biên
bản, dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thoả đáng.
Một bất cập nữa, về các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt: mặc dù
các biện pháp cưỡng chế cũng như thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế đã được quy
định cụ thể nhưng việc cưỡng chế vẫn gặp những khó khăn nhất định do chưa có sự
phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế:
8


Ví dụ: Biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng. Theo ý kiến của nhiều Bộ,
ngành, địa phương thì việc trừ tiền tại ngân hàng gặp khó khăn do các ngân hàng vì
mục đích kinh doanh, để bảo vệ khách hàng nên thường không muốn phối hợp, thực
hiện việc cưỡng chế nộp tiền phạt qua ngân hàng.

3.2.

Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong pháp luật về thẩm quyền và thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính

 Về khách quan, do chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển
kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề mới phức tạp mà không thể ngày một,
ngày hai đã dự báo được. Trong khi đó, việc quản lý kinh tế xã hội trong điều kiện hiện
đại thì lại luôn đặt ra yêu cầu phải tuân theo những quy định của pháp luật, vì lẽ đó dẫn
đến quá trình soạn thảo văn bản XLVPHC của các cơ quan được ủy quyền không thể
tránh được thiếu sót một số bất cập trên.
 Về chủ quan, thường vấn đề thuộc bộ, ngành nào thì do bộ, ngành đó soạn
thảo, nên không khắc phục được tính cục bộ. Mặt khác, quy trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật XLVPHC còn nhiều bất cập, không hợp lý, thời gian kéo dài nên
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh chóng của tình hình. Theo quy định hiện
hành, các văn bản trước khi trình cấp có thẩm quyền phải có ý kiến của các cơ quan có
liên quan.
3.3.

Hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính nói riêng, các quy định về XLVPHC nói chung

Một là, các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
XLVPHC (nghị định, thông tư) cần bám sát thực tiễn nảy sinh các quan hệ pháp lý
hiện thực trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, có nghĩa rằng, cần phải có
những nghiên cứu đánh giá thực tiễn. Những nghị định, thông tư hướng dẫn XLVPHC
cần phải được nghiên cứu, được xây dựng từ những căn cứ đánh giá đúng yêu cầu thực
sự của thực tiễn trên các phương diện: sự cần thiết, mức độ điều chỉnh... để quyết định.
Hai là, cơ quan chức năng cần thường xuyên rà soát các nghị định, thông tư
hướng dẫn xử lý vi phạm, kịp thời phát hiện để loại bỏ những quy định đã không còn

hiệu lực, hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; sửa chữa, bổ sung các quy định cho
rõ; hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản trong lĩnh vực ngành
quản lý và với ngành khác, tránh tình trạng một hành vi vi phạm nhưng nhiều quy
phạm khác nhau điều chỉnh, đồng thời khắc phục kịp thời những sơ hở.
Ba là, đẩy mạnh công tác phối hợp các bộ, ban, ngành sẽ bảo đảm tính đồng bộ,
nhất quán của nghị định, thông tư hướng dẫn XLVPHC được soạn thảo.
9


Ngoài một số vấn đề vừa nêu, khi nghiên cứu soạn thảo Luật XLVPHC, cần cụ
thể hơn thủ tục xử phạt như quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền trong
việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vụ việc; xác định tính chất, mức độ của vụ vi phạm, nhân
thân người vi phạm để quyết định xử phạt được khách quan, chính xác. Khi xem xét,
quyết định xử lý, người có thẩm quyền phải giải quyết một số vấn đề: vụ việc có đúng
thẩm quyền xử phạt hay không; biên bản và các tài liệu của vụ vi phạm đã chính xác
hay không, có cần phải xác minh thêm hay không; các tình tiết loại trừ việc xem xét,
xử lý hành chính (như trường hợp không có dấu hiệu cấu thành trách nhiệm hành
chính, người vi phạm thực hiện vi phạm trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng);
trách nhiệm thu thập chứng cứ để chứng minh vụ vi phạm...

 LỜI KẾT
Xử phạt VPHC là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật hành chính, ban
hành các quyết định xử phạt nhằm bảo đảm trật tự quản lý hành chính, ổn định trật tự
an toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, đảm bảo tính hợp lí của
các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt VPHC luôn là một yêu cầu
cấp thiết./.

 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường ĐH Luật Hà Nội. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam. Nxb.
CAND; Hà Nội – 2008.

2. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 đã sửa đổi bổ sung
2007,2008;
3. Bộ Tư Pháp. Tạp chí dân chủ và pháp luật. Số chuyên đề về pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002. Hà Nội - tháng 9/2002;
10


4. Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội. Số 20(2005)/tháng 10.
Số chuyên đề về xử lí VPHC;
5. Đặc san về xử lí vi phạm hành chính, tạp chí luật học, tháng
09/2003.
6. Ts. Trần Thị Hiền. Về nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt
VPHC. 18/10/2009. Pháp luật hành chính;
7.

Một số website:



11



×