Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của hợp đồng dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.27 KB, 16 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Chế định về hợp đồng dân sự là một trong những chế định quan trọng
của BLDS Việt Nam, bởi nó điều chỉnh một quan hệ pháp luật vô cùng phổ
biến trong đời sống và đặc biệt trong nên kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của nước ta. Tuy nhiên không phải hợp đồng dân sự nào sau
khi giao kết cũng được thực hiện đầy đủ và kết thúc khi cả hai bên chủ thể
đều đã đạt được mong muốn của mình. Rất nhiều tranh chấp về hợp đồng
dân sự đã xảy ra, trong đó tranh chấp về hợp đồng dân sự vô hiệu chiếm một
tỉ lệ không nhỏ. Trong đó, do hiểu biết về pháp luật còn chưa đầy đủ của đại
đa số người dân nên hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức
còn diễn ra rất phổ biến. Do đó, em xin chọn đề tài “Hợp đồng dân sự vô
hiệu và hậu quả pháp lí của hợp đồng dân sự vô hiệu “ để nghiên cứu và làm
rõ trong bài tập lớn cuối kỳ.

B. NỘI DUNG
I.

Khái niệm hợp đồng dân sự.
Trong đời sống xã hội thì mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham

gia vào các mối quan hệ khác nhau. Thông qua việc các bên thiết lập với
nhau những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng là một tất yếu đối với đời sống xã
hội. Tuy nhiên việc chuyển giao lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình
thành bởi tài sản (vốn là hiện thân của các lợi ích vật chất) không thể tự tìm
đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình
thành từ những hành vi có ý chí của con người.

1



Mặt khác, nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được
bên kia cũng không thể hình thành một quan hệ để qua đó thể hiện việc
chuyển giao tài sản. Do đó chỉ khi nào có sự thể hiện ý chí thống nhất giữa
các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ
đó được gọi là hợp đồng dân sự. Như vậy cơ sở đầu tiên để hình thành nên
một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận ý chí tự nguyện của các bên. Tuy
nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực khi mà ý chí của các bên phù hợp với ý
chí của Nhà nước và được pháp luật cho phép . Các bên được thiết lập, tự do
thoả thuận hợp đồng nhưng sự tự do ấy phải được đặt trong giới hạn lợi ích
của người khác, lợi ích chung của toàn xã hội và trật tự công cộng. Không
thể có một hợp đồng được thiết lập một cách tự do nằm ngoài quy định của
pháp luật. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp
của Nhà nước vào các “quan hệ pháp luật tư”, các việc dân sự… không được
bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của Nhà nước
vào những quan hệ dân luật.
Khi ý chí của các bên trong hợp đồng phù hợp với ý chí của Nhà nước,
thì hợp đồng dân sự có hiệu lực như pháp luật đối với các bên giao kết.
Nghĩa là, từ lúc đó, các bên đã tự nhận về mình những nghĩa vụ pháp lý nhất
định. Sự “can thiệp” của Nhà nước không chỉ là việc buộc các bên giao kết
hợp đồng phù hợp với lợi ích chung và đạo đức xã hội mà còn buộc các bên
phải thực hiện hợp đồng đúng với những cam kết mà họ đã thỏa thuận. Theo
nội dung đã cam kết, dưới sự hỗ trợ của pháp luật, các bên phải thực hiện
đối với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương
diện và góc độ khác nhau.Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự
là một bộ phận của các quy phạm pháp luật do Nhà nứơc ban hành nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình chuyển dịch các lợi ích
2



vật chất. Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân
sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận
để cũng nhau làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo
phương diện này khái niệm hợp đồng dân sự được xem xét ở dạng khái quát
và dạng cụ thể. Để quy định của pháp luật có thể bao trùm được toàn bộ các
hợp đồng dân sự xảy ra trong thực tế, Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp
đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.” Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự
thoả thuận của để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho
bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa
vụ đó.
Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân
biệt giữa một hợp đồng dân sự với một hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương
mại nếu nội dung của chúng đều là sự mua bán, trao đổi các lợi ích vật chất.
Ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, các thành phần
kinh tế ngày một đa dạng và phong phú làm cho các quan hệ kinh tế cũng
thay đổi theo. Hợp đồng kinh tế trở thành phương tiện phục vụ cho mục đích
kinh doanh trên nguyên tắc chủ thể tự nguyện, bình đẳng với nhau càng làm
mờ nhạt ranh giới giữa nó và hợp đồng dân sự. Có những quy định của pháp
luật là cơ sở pháp lý để áp dụng chung cho cả hai loại hợp đồng này, mặc dù
chúng thuộc đối tượng điều chỉnh của hai ngành luật khách nhau. Tuy nhiên
yêu cầu của quá trình tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp
từ hợp đồng đòi hỏi cần có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng kinh tế
với một hợp đồng dân sự. Có thể nói hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế
như cặp song sinh.Vì vậy trong thực tế có rất nhiều trường hợp hợp đồng là
hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự. Để có thể phân biệt được hai loại
hợp đồng này phải được xác định cụ thể mục đích của từng loại hợp đồng.
3



Nếu các bên chủ thể tham gia hợp đồng với mục đích thoả mãn nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng thì được coi là hợp đồng dân sự. Và chỉ được coi là hợp đồng
kinh tế khi các bên chủ thể khi tham gia vào hợp đồng nhằm mục đích kinh
doanh thương mại, thu lợi nhuận. tuy nhiên, mục đích tham gia cũng chỉ là
một cơ sở mang tính tương đối trong việc phân biệt giữa hai loại hợp đồng
vì rằng có những hợp đồng cả hai bên đều mang mục đích kinh doanh nhưng
vẫn không thể coi đó là hợp đồng kinh tế được nếu có một bên chủ thể là cá
nhân không có đăng ký kinh doanh.
II. Hợp đồng dân sự vô hiệu.
1. Khái niệm.
Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không phát sinh hậu quả pháp lý mà các
bên mong muốn. “Vô hiệu” theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực,
không có hiệu quả” như vậy, có thể suy ra rằng hợp đồng vô hiệu là hợp
đồng không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý
mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực
hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ như cam kết nhưng khi xác
định là HĐVH thì mọi cam kết đã, đang thực hiện thì đều không phải là các
quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ.
Hợp đồng vô hiệu là khi xác lập các bên đã có vi phạm ít nhất một
trong các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn đến hậu quả pháp
lý là không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nào.
Hợp đồng vô hiệu tuy cũng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa các bên chủ thể tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt với hợp đồng mất
hiệu lực. HĐVH là hợp đồng không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết.
Còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng có hiệu lực ở thời điểm ký kết
nhưng hợp đồng bị mất hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể thực hiện
4


được. Tình trạng mất hiệu lực của hợp đồng dân sự có thể do một bên vi

phạm, dẫn đến bên vi phạm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc các bên tự thoả
thuận với nhau chấm dứt hiệu lực của hợp đồng hoặc do trở ngại khách quan
nào khác. Ví dụ 2 bên ký kết một hợp đồng mua bán gỗ, thời điểm này Nhà
nước không cấm mua bán mặt hàng này. Nhưng khi hai bên đang thực hiện
hợp đồng thì Nhà nước lại có quyết định cấm khai thác và buôn bán loại gỗ
này dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được và bị mất hiệu lực.
2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu.
Theo khoản 1 Điều 410 BLDS 2005 quy định: “Các quy định về giao
dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng
đối với hợp đồng vô hiệu.” Vậy có thể thấy các quy định về hợp đồng vô
hiệu được áp dụng giống như đối với giao dịch dân sự vô hiệu. Mà theo quy
định tại Điều 127 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự không có một
trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Vậy đặc điểm chung của các hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều
kiện theo quy định của pháp luật. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải gánh
chịu hậu quả pháp lý nhất định có thể bất lợi về vật chất hoặc tinh thần như
không đạt được mục đích đã xác định nếu chưa thực hiện được thì sẽ không
thực hiện được tiếp, nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó
để quay trở lại tình trạng ban đầu hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
(khoản 2 điều 137 BLDS 2005).
2.1. Không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật với
hợp đồng vô hiệu.
- Năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng.
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của
các chủ thể tham gia hợp đồng nhưng không phải ai cũng có quyền tham gia
vào bất kỳ loại hợp đồng nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép
5


mới có thể được tham gia. Trong một số trường hợp thì một số chủ thể chỉ

được tham gia trong giới hạn của một số quan hệ quan hệ dân sự nhất định.
Khi các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự mà năng lực pháp luật là vốn có của chủ thể mà
pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền như nhau: Mọi cá nhân đều có
năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết (khoản 2, 3 Điều
14 BLDS 2005). Còn năng lực hành vi thì pháp luật căn cứ vào khả năng
nhận biết hành vi của từng con người cụ thể. Việc phân định này dựa trên cơ
sở sinh học và cơ sở xã hội. Nếu như năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền
dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động
của chủ thể để tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ. Tư cách chủ thể tham gia
hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa năng lực pháp luật và năng lực hành
vi. Năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để
tạo ra tư cách của một chủ thể khi tham gia hợp đồng.
- Mục đích và nội dung của các hợp đồng không đáp ứng đủ yêu cầu
của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong chế định hợp đồng dân sự, các
chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định
nội dung, hình thức của giao dịch, thể hiện khi xác lập hợp đồng các chủ thể
có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự do thoả thuận nội dung của hợp đồng,
hình thức giao kết. Nhưng sự tự do không mang tính tuyệt đối mà bị ràng
buộc bởi khuôn khổ pháp luật. Sự ràng buộc này hạn chế sự tự do của các
chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng. Chủ thể không tuân theo sự hạn chế
của pháp luật dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
+ Mọi thoả thuận không trái với pháp luật.
+ Mọi thoả thuận không được trái với đạo đức xã hội.

6


Không trái với pháp luật thì rõ nhưng không trái với đạo đức xã hội là

một vấn đề phức tạp vì khái niệm đạo đức là một khái niệm trừu tượng. Nhà
nước đưa ra khái niệm đạo đức xã hội trong luật: “Đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng
đồng thừa nhận” (đoạn 3 Điều 128 BLDS 2005), nhưng không quy định cụ
thể trường hợp nào là vi phạm. Chính vì vậy mà khi xác định nội dung của
khái niệm đạo đức thường được xem trong mối quan hệ với án lệ, nhưng về
lý thuyết thì Nhà nước ta chưa thừa nhận án lệ. Chính vì thế trong thực tiễn
hiện nay quy định này đã gây ra không ít khó khăn trong việc áp dụng.
- Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng không tự nguyện.
Sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng là một yếu tố cơ bản và không thể
thiếu được trong hợp đồng dân sự. VÌ vậy các chủ thể khi tham gia giao kết
hợp đồng phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thoả thuận không
phản ánh đúng ý chí cuả các bên đều có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí
của chủ thể là thể hiện mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ
pháp luật cho phép mà không bị sự ép buộc nào.
- Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi
tham gia giao kết hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp
đồng phải thể hiện ý chí của mình còn phải tuân theo các quy định của pháp
luật về hình thức đối với một số loại hợp đồng nhất định. Thông qua các
biểu hiện về hình thức này người khác có thể phần nào biết được nội dung
của hợp đồng. Việc quy định một số loại giao dịch cần phải tuân theo các
quy định về hình thức dưạ trên cơ sở là đối tượng của các loại hợp đồng này
có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt nên hình thức của hợp đồng là căn
cứ xác đinh nội dung của hợp đồng. Mặt khác, với những quy đinh này còn

7


là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra giám sát việc

chuyển dịch các tài sản này.
2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất
định.
Khi hợp đồng vô hiệu thì: “… các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì
phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải
bồi thường.” (Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Về mặt lý thuyết thì đây là sự
tổn thất của các bên nên phải quay lại tình trạng ban đầu như trước khi tham
gia hợp đồng. Tuy nhiên về mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố hợp
đồng vô hiệu có bên được hưởng lợi, có bên bị thiệt hại.
3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
3.1 Khái niệm chung về hậu quả pháp lý.
Hậu quả theo nghĩa thông thường là “hậu quả không hay về sau”.
Như vậy hậu quả trước hết phải là một kết quả và kết quả đó phải xảy ra từ
một sự kiện, một hành vi nào đó, tức là sự kiện, hành vi và kết quả phải có
mối quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi sự kiện là nguyên nhân dẫn tới kết
quả. Nói cách khác hậu quả phải xuất hiện sau nguyên nhân. Tuy nhiên
không phải tất cả kết quả đều là hậu quả, mà ở đây chỉ có kết quả không hay
mới được coi là hậu quả. Kết quả này gây bất lợi cho cá nhân, tổ chức. Ví
dụ: bão, lũ… gây cảnh ngập nước, gây thiệt hại cho người và tài sản…
Trong khoa học pháp lý chỉ những hành vi, sự kiện gây bất lợi cho cá
nhân, tổ chức và họ phải chịu hậu quả pháp lý nhất định nhưng phải được
nhà làm luật xác định hay dự liệu mới làm phát sinh hậu quả pháp lý. Mặc
dù khái niệm hậu quả pháp lý được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý,

8


nhưng hiện nay các nhà khoa học chưa đưa ra được khái niệm cụ thể nào.

Các nhà lập pháp cũng chỉ đi sâu vào nội dung của nó mà thôi.
Về nguyên tắc hậu quả pháp lý của HĐVH là không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự đối với các bên từ thời điểm xác lập. Việc quy
định này chỉ là cách thức quy định của nhà làm luật, còn trong thực tế khi
Toà án giải quyết các vụ kiện xin tuyên bố HĐVH thường là các bên đã thực
hiện toàn bộ hoặc một phần những gì họ đã thoả thuận với nhau. Do vậy
trong thực tế rất ít khi gặp các trường hợp khi Toà án tuyên bố HĐVH lại có
thể khắc phục được hậu quả như nhà làm luật quy định ví dụ như: vật tiêu
hao, vật trượt giá……
3.2. Giải quyết hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
Giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH là buộc các bên “…khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn
trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao
dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định cuả pháp luật. Bên có
lỗi gây thiệt hại phải bồi thường” (khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Bình
thường do quy định của hoặc các bên có thoả thuận trước về hậu quả, ví dụ:
phạt, phạt cọc… khi một bên có lỗi và phải chịu hậu quả tương ứng với lỗi
do họ gây ra. Do đó HĐVH chỉ có thể làm phát sinh hậu quả về trách nhiệm
dân sự hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
3.2.1. Chấm dứt thực hiện HĐDS.
Khi một hợp đồng không có giá trị pháp lý tại thời điểm ký. Do vậy
không có giá trị bắt buộc các bên tham gia hợp đồng, nghĩa là các bên không
còn ràng buộc bởi quyền và nghĩa vụ với nhau. Nói cách khác, khi hợp đồng
vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được pháp luật công nhận
và bảo vệ. Trong thực tiễn hiện nay khi giải quyết hậu quả HĐVH tại Toà án

9


hiện nay hầu như các Thẩm phán chỉ tuyên bố huỷ HĐVH, không đề cập

nhiều tới việc các bên chấm dứt phải thực hiện hợp đồng.
3.2.2. Xử lý hậu quả pháp lý của HĐVH.
Đối với trường hợp giải quyết tài sản của HĐDS mà các bên tham gia
hợp đồng mới chỉ xác lập nhưng chưa thực hiện thì các bên chấm dứt thực
hiện HĐVH đó. Tuy nhiên hầu hết trong thực tế các hợp đồng bị tuyên bố vô
hiệu thì các bên đã thực hiện hợp đồng rồi, có trường hợp đã thực hiện xong
hợp đồng. Do vậy khi tuyên bố HĐVH, quay lại tình trạng ban đầu là một
vấn đề phức tạp, nhất là vấn đề xác định thiệt hại, xác định lỗi và trách
nhiệm của mỗi bên trong hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
- Vấn đề hoàn trả tài sản. Đây là một trng những biện pháp phổ biến để
giải quyết hậu quả của HĐVH nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu. Theo
nghĩa thông thường “tình trạng” được hiểu là: “tổng thể nói chung những
hiện tượng hoặc ít thay đổi, hoặc tồn tại trong một thời gian tương đối dài,
xét về mặt bất lợi đối với đời sống hoặc những hoạt động nào đó của con
người. Trong HĐDS việc quay lại tình trạng ban đầu được hiểu là quay lại
thời điểm mà các bên đã bắt đầu tham gia ký kết. Ví dụ: trong quan hệ mua
bán thì hoàn trả tài sản nghĩa là bên bán nhận lại tài sản từ bên mua, còn bên
mua thì nhận lại tiền từ bên bán. Tuy nhiên trong thực tiễn không phải lúc
nào tài sản hoàn trả cũng còn nguyên giá trị của nó tại thời điểm hợp đồng
được giao kết, thông thường nó bị biến đổi dưới tác động của yếu tố tự nhiên
– xã hội:
+ Tài sản bị tác động của tự nhiên làm cho hao mòn nhưng xấu đi so
với lúc đầu khi giao kết.
+ Tài sản bị giảm sút giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của con
người.

10


+ Tài sản có thể tăng hay giảm giá trị do tác động của quy luật cung

cầu, quy luật của nền kinh tế thị trường….
+ Khi quản lý tài sản các đương sự có thể khai thác một số lợi ích
nào đó và cũng có thể đầu tư công sức, tiền bạc làm tăng giá trị và bảo quản
tài sản
- Vấn đề xác định thiệt hại xảy ra.
Đa số các nhà khoa học đều xác định thiệt hại xảy ra là những hao mòn,
những hư hỏng do con người tác động làm giảm giá trị của tài sản, là thiệt
hại buộc bên có lỗi phải bồi thường. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là trượt giá của
tài sản là đối tượng của hợp đồng và trượt giá tiền có được coi là thiệt hại
xảy ra. Có quan điểm cho rằng không coi vấn đề trượt giá là thiệt hại và cho
rằng sự biến động này hoàn toàn do quy luật kinh tế khách quan, không liên
quan gì tới việc xác lập hợp đồng của các bên.Vì “HĐVH không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập, do đó không có sự
vi phạm nghĩa vụ khi nghĩa vụ đó không có” (“ vấn đề áp dụng các quy định
của BLDS trong thực tiễn xét xử của Toà án”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Hà Nội ).Có quan điềm cho rằng, trượt giá gây thiệt hại cho bất cứ
bên nào đều phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi xác định trách
nhiệm phải căn cứ vào lỗi đề buộc bên gây thiệt hại phải bồi thường theo
quy định của pháp luật. Thiết nghĩ quan điểm thứ hai là hợp lý vì khi HĐVH
chắc chắn có sự vi phạm hoặc một trong hai bên hoặc cả hai không mong
muốn đạt được lợi ích từ viêc giao kết hợp đồng này vì thế họ phải chịu
trách nhiệm với nhau, và trước pháp luật về sự lựa chọn cũng như sự vi
phạm của họ.
3.2.3. Hậu quả pháp lý theo thoả thuận của các chủ thể được Toà án
công nhận.

11


Trong pháp luật dân sự, nguyên tắc tự do cam kết, thoả thuận là nguyên

tắc đặc trưng xuất phát từ tính độc lập về sở hữu, tính tự chủ và độc lập về
tài sản, tự chịu trách nhiệm của các chủ thế.Vì vậy nguyên tắc thoả thuận trở
thành một nguyên tắc cơ bản và bao trùm toàn bộ Luật dân sự, được quy
định cụ thể chi tiết tại Điều 7 BLDS 2005. Khi đặt vấn đề giải quyết hậu quả
pháp lý của HĐVH theo sự thoả thuận của các chủ thể, sự thoả thuận phải
dựa trên mấy nguyên tắc:
- Các chủ thể này phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi, nếu
trong trường hợp bị mất, hạn chế, hoặc không có năng lực hành vi dân sự thì
phải có người đại diện hoặc giám hộ.
- Các chủ thể HĐVH có quyền tự đinh đoạt việc tự thoả thuận với nhau
về giải quyết hậu quả mà không bị ép buộc bởi bất cứ yếu tố nào.
- Đối với HĐVH có mục đích, nội dung trái pháp luật về nguyên tắc các
bên không được thực hiện hợp đồng mới có nội dung, hình thức như hợp
đồng đã vô hiệu mà chỉ có thể thoả thuận với nhau về việc giải quýêt hậu
quả của HĐVH,
- Trình tự của việc thoả thuận phải theo quy định cuả pháp luật
3.2.4. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi HĐVH.


Nhận thức chung về người thứ 3 ngay tình khi tham gia

hợp đồng.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người thứ 3 ngay tình
được hiểu là người được chuyển giao tài sản thông qua HĐVH mà họ không
biết, không buộc phải biết là tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu
được từ một HĐVH do chủ sở hữu xác lập trước đó. Sự không biết hay
không buộc phải biết ở đây còn được thể hiện đối với một người bình
thường thì không thể biết được tài sản đưa vào hợp đồng xuất phát từ một
HĐVH. Do đó pháp luật không đòi hỏi họ phải biết trong trường hợp này.
12



Thông thường trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, người ta căn cứ vàoyếu
tố khách quan của các bên tham gia hợp đồng đẻ xác định tính chất này. Đối
với tài sản không cần giấy tờ sở hữu mà người chiếm hữu tài sản khẳng định
đó là tài sản của họ thì người mua không buộc phải biết. Đối với loại tài sản
mà theo pháp luật phải có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, thì người chiếm
giữ tài sản có giấy tờ sở hữu và người mua trong điều kiện thông thường đối
với một người bình thường thì buộc phải biết. Trong trường hơp nhìn bằng
mắt thường thì không thể phát hiện ra đó là giấy tờ giả thì không có lỗi của
bên mua.


Điều kiện xác định người thứ 3 ngay tình khi HĐVH. Để xác

định người thứ 3 ngay tình thông thường căn cứ vào những điểm sau:
+ Trước khi người thứ 3 tham gia vào hợp đồng, đối tượng của hợp
đồng này được xác lập bởi một HĐVH.
+ Phải xem xét ý chí của người thứ 3 thể hiện ra bên ngoài như thế
nào. Nếu ở vào điều kiện thông thường thì họ có thể biết được tài sản này có
phải là được xác lập bởi một HĐVH trước đó hay không?
+ Người thứ 3 ngay tình phải là người có năng lực pháp luật, năng
lực hành vi, nếu không phải có người giám hộ hay đại diện.
+ Họ đã nhận được tài sản từ hợp đồng và mục đích của hợp đồng đã
đạt được.
+ Hợp đồng do họ tham gia hoàn toàn phù hợp với quy định của luật
pháp.
• Giải quyết hậu quả pháp lý.
Khi giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH khi có người thứ 3 ngay tình
cần được bảo vệ phải xem xét một số yếu tố: xem xét tính có hiệu lực của

HĐVH do người thứ 3 ngay tình xác lập, khả năng nhận thức, tính có lỗi hay
không của các bên tham gia hợp đồng, người thứ 3 có nghĩa vụ chứng minh
13


họ hoàn toàn ngay tình. Điều 138 BLDS 2005 quy định cụ thể về bảo vệ
quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi HĐVH.
Thứ nhất: Với loại tài sản theo pháp luật quy định được phép đưa vào
giao dịch trên thị trường và là loại tài sản thông dụng, những người tham gia
hợp đồng không nhất thiết phải điều tra xác minh về nguồn gốc tài sản.Với
loại tài sản không mang tính thiết yếu, với tài sản không thể lấy lại được..khi
tuyên bố HĐVh chỉ cần buộc các bên hoàn lại cho nhau theo nguyên tắc bù
trừ nghĩa vụ.
Thứ hai: Với loại tài sản Nhà nước cấm đưa vào lưu thông trên thị
trường và thuộc diện Nhà nước quản lý, hay nhất thiết phải trả cho chủ sở
hữu thì khi tuyên bố HĐVH, Toà án có thể căn cứ vào pháp luật quy định
với từng loại tài sản để buộc người thứ 3 tham gia hợp đồng trả lại cho Nhà
nước, buộc người chuyển giao tài sản, phải bồi thường thiệt hại cho người
thứ 3 ngay tình theo thời giá.
Đối với hợp đồng mà đối tượng là tài sản đặc trưng của chủ sở hữu,
mà chủ sở hữu yêu cầu phải trả lại ví dụ: nhà, đất…thì khi giải quyết hậu
quả HĐVH cần giao lại tài sản cho chủ sở hữu, buộc người tham gia xác lập
hợp đồng bất hợp pháp phải hoàn trả lại tiền cho người thứ 3 tương đương
với thời điểm giao dịch và thiệt hại do họ gây nên.

14


C. KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội, các giao dịch liên quan đến hợp đồng

dân sự diễn ra ngày một phổ biến, đi kèm với nó những tranh chấp về hợp
đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức, thủ tục xác lập cũng tăng
nhanh chóng. Để đảm bảo quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng cũng
như quyền lợi của người thứ ba trong trường hợp hợp đồng vô hiệu chúng ta
cần hoàn chỉnh pháp luật về chế định hợp đồng. Cùng với công tác hoàn
thiện pháp luật cần làm tốt công tác hướng dẫn pháp luật để đảm bảo tính
thống nhất, đấy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật cũng như tăng cường
chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ công tác trong ngành luật.

15


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam,
tập 2, Nxb. CAND, 2009.

2.

Lê Đình Nghị (Chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập
2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.

3.

Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận các hợp đồng dân sự thông dụng
trong pháp luật Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

4.


Bộ luật dân sự năm 2005.

5.

thongtinphapluatdansu.wordpress.com

6.

wattpad.com

16



×