Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

phân tích quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.05 KB, 15 trang )

1


2


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Gia đình luôn được thành lập với hai thành viên đầu tiên là vợ và chồng.
Dần dần, các con được sinh ra. Cũng do hiệu lực của hôn nhân mà vợ, chồng trở
thành người có quan hệ với người thân thuộc của chồng (vợ) mình. Sự kiện kết hôn
đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật
giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và các nghĩa vụ về
quyền tài sản. Và một vấn đề quan trọng trong số đó là quyền bình đẳng của vợ
chồng đối với tài sản chung hợp nhất của vợ chồng. Liệu rằng hiện nay vợ chồng có
thực sự bình đẳng? Người vợ thực sự có quyền đối với tài sản chung của vợ chồng
hay không? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin đi vào phân tích quyền bình đẳng
của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số vấn đề chung
1, Quy định của pháp luật về tài sản chung hợp nhất của vợ chồng.
Điều 219 Bộ luật dân sự quy định: Sở hữu chung của vợ chồng: Sở hữu chung
của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
Theo quy định tại khoản 1 điều 27 luật HN&GĐ 2000: Tài sản chung của vợ
chồng là một thuật ngữ để chỉ định những tài sản thuộc ít nhất một trong sáu nguồn
như sau:
1- tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân: tài sản chung của vợ
chồng có thể do công sức của cả hai vợ chồng tạo ra hoặc chỉ do vợ (chồng) tạo ra
trong thời kỳ hôn nhân, bằng cách trực tiếp (lao động sản xuất, tiền lương…) hoặc


gián tiếp thông qua các giao dịch dân sự (buôn bán, đầu tư kiếm lợi nhuận…). Hoa
lợi, lợi tức có được từ tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản
chung, là thu nhập có được trong thời kỳ hôn nhân.

3


2- thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh: đây là thu nhập
thường xuyên cơ bản, chính đáng và chủ yếu của mỗi người, để đảm bảo cuộc sống
vật chất ổn định, lâu dài của gia đình. Dù vợ chồng làm ở những ngành nghề khác
nhau; song mọi thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh của vợ chồng
đều là tài sản chung.
3- những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân : theo
nghị quyết 02/2000 của HĐTP TANDTC hướng dẫn việc áp dụng một số quy định
của luật HN&GĐ năm 2000, thu nhập hợp pháp khác là tiền thưởng, tiền trợ cấp,
tiền trúng thưởng sổ xố mà vợ chồng có được, hoặc tài sản mà vợ chồng xác lập
quyền sở hữu từ điều 239 đến điều 244 của bộ luật dân sự năm 2005.
4- tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung: chủ sở
hữu cho, tặng chung cả vợ và chồng, phụ thuộc ý chí của chủ sở hữu.
5- những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung: có những tài
sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng do vợ (chồng) có được trước khi kết hôn,
được tặng cho, thừa kế riêng về nguyên tắc là tài sản riêng, tuy nhiên, nếu vợ chồng
có thỏa thuận coi là tài sản chung thì đó sẽ là tài sản chung và phải có sự xác định
bằng công chứng đối với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu.
6- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng. Điều 24,25 Nghị định 70/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành luật HN&GĐ năm 2000 quy định: quyền sử dụng đất do nhà nước cấp, giao,
cho thuê sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng dù chỉ ghi tên một người trên
giấy chứng nhận QSD đất. Ngoài ra điều 26 Nghị định 70/2001 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành luật HN&GĐ năm 2000 quy định: QSĐ đất do chuyển đổi,

chuyển nhượng, thừa kế để gọi là “tài sản chung của vợ chồng” thì giấy chứng nhận
QSD đất phải ghi tên của cả vợ và chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng
chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Căn cứ pháp luật là thoả thuận có
công chứng.
4


Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có
được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu,
nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không
có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng
thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản
này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này
có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32. Trong trường hợp
không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy
định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.
2. Khái quát quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài
sản chung hợp nhất.
Bình đẳng là một trong những nguyên tắc chung, xuyên xuốt được
quy định trong Luật HN&GĐ Việt Nam thể hiện trong việc vợ chồng
có quyền cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận, quyết định các vấn đề
liên quan đến nhân thân và tài sản của bản thân vợ chồng. Việc quy
định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật phải đăng
ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải gi tên cả hai vợ chồng
là quy định mới khẳng định quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ tài sản.
Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền
sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác

phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ
hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Sự bình đẳng được
quy định trong Luật hôn nhân và gia đình 2000, thể hiện ở hai nội
dung sau:
- Vợ, chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với tài sản chung hợp nhất (Điều 28).
5


- Vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chia tài sản chung (Điều
29, 31, 95).
II. Phân tích quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất
1.Quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung (Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình).
1.1, Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của vợ,
chồng đối với tài sản chung hợp nhất: “Vợ, chồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung” (Khoản 1).
Ngày 29-12-1959, luật HN&GĐ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được Quốc hội thông qua. Điều 15 luật này quy định: Vợ và chồng đều có quyền sở
hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới. Tiếp
sau đó, luật HN&GĐ năm 1986 tiếp tục thừa nhận nguyên tắc tài sản của vợ hoặc của
chồng là tài sản chung và được sử dụng vì mục đích chung của gia đình, quy định cụ
thể hơn quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc định đoạt khối tài sản chung. Và
đến khi Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời, quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài
sản chung được quy định cụ thể, rõ ràng tại khoản 1 Điều 28: Chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”.
Như vậy, quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên của quyền sở hữu, là
quyền năng của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản của

mình, là quyền kiểm soát, làm chủ, chi phối tài sản đó theo ý chí
của mình. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm giữ tài
sản chung. Nhưng điều đó có nghĩa cả hai bên phải là người trực
tiếp nắm giữ, tài sản mà cho dù chỉ một bên nắm giữ tài sản (do
người kia đi công tác xa hoặc do một trong hai người cất giữ) thì cả
hai bên đều có quyền định đoạt, sử dụng đối với khối tài sản chung
đó. Quyền sử dụng là “quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
6


tức từ tài sản”, quyền định đoạt là “quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu
tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Với tư cách là đồng sở
hữu tài sản chung, vợ, chồng bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản
chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản chung nhằm bảo đảm đời
sống chung của gia đình, sao cho việc sử dụng, định đoạt tài sản chung đem lại lợi
ích nhiều nhất cho cuộc sống chung của vợ chồng; bảo đảm nghĩa vụ nuôi dưỡng,
giáo dục các con, cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình.
Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung khi thực hiện quyền sở hữu
(quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) không bị phụ thuộc bởi công sức
đóng góp của vợ chồng. Trong điều kiện thực tế của từng cặp vợ chồng, kể từ khi kết
hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân, do điều kiện về sức khỏe, nghề nghiệp chuyên
môn… đã dẫn tới thu nhập thực tế của mỗi bên vợ, chồng nhiều, ít, cao, thấp khác
nhau, và như vậy xét về “công sức đóng góp” nhằm tạo ra tài sản chung của vợ chồng
cũng có sự chênh lệch nhiều, ít khác nhau, nhưng không phải như vậy mà có sự
“chênh lệch” giữa vợ chồng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung.
1.2. Vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc xác lập, thực
hiện và chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia
đình.
Do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi

vợ chồng phải có quan hệ giao dịch với những người khác liên quan đến tài sản
chung, nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình, của vợ chồng. Mặc dù chưa có văn bản
pháp luật nào định nghĩa cụ thể về khái niệm “ nhu cầu của gia đình”. Tuy nhiên, ta
có thể hiểu rằng “nhu cầu của gia đình” nghĩa là sự tồn tại và phát triển của gia đình,
tài sản chung phải được sử dụng vào việc “nuôi sống gia đình.
Mặt khác, để đảm bảo lợi ích chung của gia đình, Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐCP ngày 03/10/2001 của chính phủ cũng có quy định về việc xác lập, thực hiện, chấm
7


dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ, chồng .Theo đó, các giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn (giá trị tài sản được xác định căn cứ
vào phần giá trị của tài sản đó trong khối tài sản chung của vợ chồng) của vợ chồng
hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc xác lập, thực hiện hoặc
chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của
một bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi
tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình đều phải có sự thỏa thuận (đồng ý)
của vợ chồng theo đúng hình thức (văn bản) mà pháp luật quy định. Vợ, chồng phải
cùng ký trực tiếp vào văn bản (hợp đồng); nếu chỉ có một bên trực tiếp ký phải có
giấy ủy quyền cho vợ, chồng ký thay, hợp đồng mới có hiệu lực. Thực tế cho
thấy, ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại khá phổ biến những tàn dư tư
tưởng màn nặng định kiến trọng nam, khinh nữ, đề cao vai trò của
người chồng, nhất là khu vực miền núi, nông thôn, người chồng
quyết định tất cả các vấn đề trong gia đình, trong đó có quyền định
đoạt tài sản. Do vậy, việc quy định vợ, chồng phải bàn bac, thỏa
thuận trước khi xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dich dân
sự liên quan đến tài sản chung vợ chồng có giá trị lớn là điều cần
thiết để bảm đảm nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong
quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp người chồng không đạt được
thỏa thuận với vợ thì giao dich dân sự bị coi là vô hiệu, không có giá
trị pháp lý. Quy định của điều luật một lần nữa khẳng định được vai

trò, vị trí ngườ phụ nữ trong gia đình và xã hội, được tự do lên tiếng
và được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Đối với những giao dịch thông thường, liên quan đến những tài
sản không lớn nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu hàng ngày
của gia đình, thì hành vi xử sự của vợ, chồng khi định đoạt tài sản
chung đó luôn được coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của vợ và
chồng (dù chỉ có một trong hai bên định đoạt. Ví dụ, vợ, chồng dùng
8


tiền bạc, tài sản chung đảm bảo các nhu cầu về ăn, ở, học hành,
chữa bệnh,.. thì giao dịch này luôn được coi là đã có sự thỏa thuận
đương nhiên của vợ, chồng. Người chồng (hoặc vợ) không được
“nại” rằng giao dịch đó không có giá trị vì chưa được sự đồng ý của
mình.
1.3. Quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc thực
nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được “chi dùng để bảo đảm nhu cầu
của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng”(Khoản 2
Điều 28). Đó là nghĩa vụ phát sinh khi một bên hoặc cả hai bên vợ
chồng thực hiện hành vi vì lợi ích của gia đình hoặc nghĩa vụ phát
sinh theo thỏa thuận của vợ chồng. Trên cơ sở chế độ tài sản chung
vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình, quyền bình đẳng trong
thực hiện nghĩa vụ chung được xác định:
- Nếu căn cứ vào sự thỏa thuận của vợ chồng và nghĩa vụ liên đới
trong việc làm phát sinh các nghĩa vụ tài sản thì có những nghĩa vụ
chung sau: Nghĩa vụ phát sinh có liên quan đến những công việc do
hai vợ chồng cùng tiến hành, bao gồm cả các khoản nợ phát sinh
trước khi kết hôn; những khoản nợ phát sinh do một bên thực hiện
công việc không vì lợi ích gia đình, nhưng được bên kia đồng ý

dùng tài sản chung để thực hiện; những khoản nợ phát sinh do một
bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình.
- Nếu căn cứ vào phạm vi, nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng
quy định tại Khoản 1 Điều 27, nghĩa vụ phát sinh khi vợ chồng thực
hiện hành vi tạo lập, quản lý, sử dụngvà định đoạt tài sản chung là
nghĩa vụ chung bao gồm: Nghĩa vụ phát sinh trong quá trình vợ
hoặc chồng tạo ra tài sản trong gia đình; nghĩa vụ phát sinh khi vợ
hoặc chồng lao động để tạo thu nhập hoặc tiến hành các hoạt động
9


sản xuất kinh doanh trong thời kì hôn nhân; nghĩa vụ phát sinh khi
một bên vợ hoặc chồng tiến hành khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài
sản riêng của mình trong thời kì hôn nhân (trừ trường hợp nghĩa vụ
phát sinh từ việc khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong
trường hợp quy định tại Điều 30).
Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, bình đẳng với nhau
trong việc quản lý, sử dụng tài sản chung. Tài sản chung của vợ
chồng được “chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện
các nghĩa vụ chung của vợ chồng”. Do vậy, trong việc duy trì, phát
triển khối tài sản chung không cần căn cử vào sự đóng góp của vợ,
chồng. Trong những trường hợp vì lý do chính đáng và hoàn cảnh
riêng của từng gia đình mà có thể vợ hoặc chồng không trực tiếp
lao động tạo ra tài sản mà chỉ lao động trong gia đình như làm nội
trợ, chăm sóc con,.. thì quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung
vẫn ngang bằng với người kia. Lao động trong gia đình của vợ hoặc
chồng cũng được coi là lao động có thu nhập (dựa theo điểm a
Khoản 2 Điều 95).
2. Quyền bình đẳng vợ, chồng trong việc chia tài sản chung

hợp nhất.
Vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc thực hiện các quyền
năng của chủ sở hữu với tài sản chung và khối tài sản đó là tài sản
chung hợp nhất có thể phân chia, việc phân chia tài sản chung
không dựa trên nguồn gốc tài sản hình thành do đâu. Bởi vậy vợ
chồng cũng có quyền bình đẳng với nhau trong việc phân chia khối
tài sản chung đó. Quyền bình đẳng vợ, chồng trong việc chia tài sản
chung thể hiện trong hai trường hợp: Chia tài sản chung trong thời
kì hôn nhân và chia tài sản chung do chấm dứt hôn nhân.

10


2.1. Quyền bình đẳng vợ, chồng trong việc chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân (Điều 29 Luật hôn nhân và gia
đình 2000).
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kì hôn nhân là việc chuyển
dịch một phần hay toàn bộ tài sản trong khối tài sản chung sang tài
sản riêng của vợ, chồng trong thời gian tồn tại quan hệ hôn nhân.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân khi có lý do chính
đáng được pháp luật thừa nhận và nó có thể thực hiện thông qua
thỏa thuận bằng văn bản của vợ, chồng hoặc quyết định của Tòa án
(Khoản 1). Quy định này thể hiên rõ quyền bình đẳng của vợ chồng
đối với quyền định đoạt tài sản chung, tạo điều kiện thuận lợi trong
việc chia tài sản chung để mỗi bên vợ, chồng tham gia các giao dịch
dân sự hợp pháp. Tuy nhiên, “việc chia tài sản chung của vợ chồng
nhằm trốn tránh việc thực hiên nghĩa vụ dân sự sẽ không được
pháp luật công nhận”(Khoản 2) và quy định này không phải là gián
tiếp quy định chế định ly thân. Luật hôn nhân gia đình 2000 không
có chế định ly thân.

2.2. Quyền bình đẳng của vợ, chồng trong việc chia tài
sản chung khi chấm dứt hôn nhân
2.2.1 Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
gắn liền với quyền thừa kế theo quy định của pháp luật.
Vợ, chồng còn “có quyền thừa kế tài sản của nhau” và “Khi vợ hoặc
chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống
quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc
có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế
thoả thuận cử người khác quản lý di sản”(Điều 31 Luật hôn nhân và
gia đình 2000). Do tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp
nhất, phần sở hữu của mỗi người không được xác định rạch ròi, nên
khi một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì người còn
11


sống hoàn toàn có quyền quản lý khối tài sản chung, trong đó có di
sản của người để lại thừa kế và cả tài sản chính của chính người
quản lý di sản là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cuộc sống và
truyền thống đạo đức, phong tục tập quán của nước ta, khẳng định
quyền bình đẳng giữa vợ chồng, cả vợ hoặc chồng không phân biệt
ai đều có quyền quản lý tài sản chung và thừa kế tài sản riêng khi
chồng hoặc vợ của họ đã chết.
2.2.2. Quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản khi ly
hôn được cụ thể thành các nguyên tắc trong chia tài sản khi ly hôn
( Khoản 2 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình). Theo quy định của
điều luật thì:
- Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận với nhau, phải
thể hiện được quan điểm riêng của vợ, chồng đối với tài sản chung.
Nguyên tắc chia đôi tài sản được khẳng định, thể hiện sự ghi nhận
của pháp luật về “công sức” đóng góp, tạo lập tài sản chung của

vợ, chồng là như nhau, bằng nhau, lao động trong gia đình cũng
được tính là lao động có thu nhập và về nguyên tắc vợ, chồng có
quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung. Nhưng Tòa án chỉ quyết định chia đôi tài sản chung khi xét
thấy công sức tạo lập, phát triển của vợ, chồng là như nhau, mà
cũng có thể quyết định chia phần nhiều hơn hoặc ít hơn cho một
trong hai người khi xem xét đến công sức đóng góp thực tế, hoàn
cảnh cụ thể mỗi bên (điểm a).
- “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc
đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” (điểm b).
Nguyên tắc này nhằm xóa bỏ triệt để quan niệm chế độ hôn nhân
và gia đình dước chế độ phong kiến, coi rẻ quyền lợi của vợ và con.
Cần hiểu rằng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa
12


thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình phải trên cơ sở
pháp luật, tránh tùy tiện. Trong gia đình, họ là những con người cần
được ưu tiên trong việc phân chia tài sản, phù hợp với tư tưởng
nhân đạo trong quan hệ gia đình và xã hội.
- Việc phân chia tài sản chung khi ly hôn phải “Bảo vệ lợi ích chính
đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để
các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” (điểm c). Tùy
theo khả năng, tính chất nghề nghiệp chuyên môn của vợ, chồng,
khi chia tài sản chung phải đảm bảo được công dụng, giá trị của tài
sản, phù hợp với công việc, nghề nghiệp, phát huy được công dụng
tài sản của vợ, chồng trong sản xuất, kinh doanh. Cần tránh việc
chia tài sản mà làm mất đi công dụng, giá trị của tài sản, gây tổn

hại lợi ích chính đáng trong sản xuất và nghề nghiệp của mỗi bên.
Phải đảm bảo ổn định nghề nghiệp chuyên môn của vợ, chồng để
họ tiếp tục lao động tạo ra thu nhập, ổn định cuộc sống.
- “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo
giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn
phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị
chênh lệch” (điểm d). Quy định này cũng là để đảm bảo quyền lợi
chính đáng của vợ, chồng, tạo sự ổn định cuộc sống , ổn định nghề
nghiệp, phù hợp với chuyên môn; bảo đảm công dụng, phát huy vai
trò của tài sản trong sản xuất kinh doanh của vợ chồng. Nếu bên
nhận tài sản bằng hiện vật lại có giá trị lớn hơn phần mình được
hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch từ tài
sản đã nhận.
Việc chia tài sản chung, việc thanh toán nghĩa vụ chung liên quan
tới tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đều do vợ chồng thỏa
thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
13


Quy định này nhằm tạo ra sự công bằng giữa vợ với chồng, tránh
tình trạng thoái thác, trốn tránh nghĩa vụ chung khi ly hôn, bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba mà vợ, chồng còn nghĩa vụ trong thời
gian hôn nhân.

C. KẾT LUẬN
Trên đây là bài phân tích về nội dung “quyền bình đẳng của
vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất”. Quan hệ tài sản là
một vấn lớn đối với pháp luật dân sự nói chung và luật hôn nhân
gia đình nói riêng đòi hỏi không ngừng được nghiên cứu, hoàn
thiện. Mục tiêu xây dựng gia đình hòa hợp, bình đẳng, hạnh phúc

giữa vợ và chồng có đạtt được hay không phụ thuộc rất lớn vào vấn
đề này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình, 2009, Đại học Luật Hà Nội.
NXB Công an Nhân dân.
2. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
3. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005.
4. Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000. Bộ Tư pháp- Viện khoa học pháp lý (Đinh Mai Hương chủ biên)
5. Chế độ tài sản chung cùa vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam. TS Nguyễn Văn Cừ. NXB Tư pháp
6. Trang tìm kiếm thông tin: www.google.com.vn.

14


15



×