Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp (2005) về công ty hợp danh mà em cho rằng chưa phù hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.42 KB, 17 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1

MỤC LỤC

A. LỜI NÓI ĐẦU.
Sự ra đời của CTHD được xem như là một yếu tố khách quan, phù hợp với điều
kiện, môi trường kinh doanh và tâm lí kinh doanh, đặc biệt ở một số nước thuộc khu
vực châu Á bao gồm cả Việt Nam. Nét đặc trưng ở những quốc gia này là nền tảng
nông nghiệp lúa nước, tâm lí kinh doanh nhỏ lẻ, cá nhân hoặc kinh doanh gia đình đã
ăn sâu vào nếp nghĩ cư dân. Vì vậy, khi giao thương buôn bán xuất hiện và phát triển,
những người kinh doanh khu vực này thường có xu hướng chọn một con đường mở
rộng quy mô kinh doanh một cách vừa an toàn vừa đơn giản, một hình thức liên kết
mà họ có thể hiểu rõ về nhân thân của nhau, tin cậy lẫn nhau. Với bản chất của
CTHD là đối nhân, trọng về nhân thân, ít quan tâm tới yếu tố vốn cùng với chính tâm
lí sẵn có của người kinh doanh mà mô hình CTHD trở thành sự lựa chọn an toàn và
dễ dàng nhất.
Trên thực tế, CTHD đã xuất hiện ở nhiều nước tuy nhiên lại chỉ được pháp luật
công nhận rất muộn sau đó và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Phải đến Luật
doanh nghiệp 2005, mô hình CTHD mới được quy định chi tiết, rõ ràng hơn, đồng
thời sửa đổi bổ sung một số quy định để phù hợp với hoàn cảnh nền kinh tế trong
nước và trên thế giới. Tuy vậy, pháp luật và mô hình về CTHD vẫn còn là một vấn đề
khá mới mẻ và chứa đựng nhiều bất cập; chưa tìm được tính ổn định, chưa thống nhất
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
đối với nhận thức của xã hội, của trong chính các nhà đầu tư, thương nhân, và ngay
cả trong các quy định của Luật doanh nghiệp 2005. Chính vì vậy, em xin được chọn
đề tài: ”Bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp (2005) về công ty hợp


danh mà em cho rằng chưa phù hợp” để làm rõ hơn về vấn đề này.
Do thời gian nghiên cứu đề tài và sự hiểu biết còn hạn chế, bài làm còn thiếu sót,
em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG.
I.Khái quát chung về CTHD.
Ở đa số các nước trên thế giới hiện nay, CTHD được pháp luật ghi nhận là một
loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên (là cá
nhân và thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới
một hãng chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi
khoản nợ của công ty.
Theo Luật doanh nghiệp 2005 quan niệm về CTHD ở nước ta hiện nay có một số
điểm khác với cách hiểu truyền thống về CTHD. Theo đó CTHD được định nghĩa là
một loại hình doanh nghiệp với những đặc điểm pháp lí cơ bản sau:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty cùng nhau kinh doanh
dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh, có
thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty;
- CTHD có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh;
- Trong quá trình hoạt động, CTHD không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

2



BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
Đó chính là những nét sơ lược về đặc điểm pháp lí cơ bản của CTHD đã được
Luật doanh nghiệp 2005 ghi nhận.
II.

Những bất cập trong quy định của Luật doanh nghiệp 2005 về CTHD.
Cho đến nay, CTHD đã được pháp luật Việt Nam chính thức thừa nhận được 13

năm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy loại hình này phát triển chậm và còn quá ít về số
lượng.Theo số liệu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, tính đến năm 2009 có tất cả
67 CTHD đăng ký thành lập và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trong khi số lượng
công ty trách nhiệm hữu hạn lên tới 103092 công ty và công ty cổ phần là 33558
công ty. Đến năm 2010, không có CTHD nào được thành lập, cả nước hiện chỉ còn 33
CTHD trong số hơn 500 nghìn doanh nghiệp. Nguyên nhân làm CTHD chiếm số
lượng rất ít trong số các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu do chế độ trách nhiệm vô
hạn mà các thành viên hợp danh trong công ty phải gánh chịu và sự bất cập trong
những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về CTHD.
Sự bất cập ấy thể hiện khá rõ ngay trong các quy định của Luật doanh nghiệp
2005, cụ thể như sau:
1.

Khái niệm CTHD không rõ ràng.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, CTHD bị gắn với một hình thức công ty khác

là công ty hợp vốn đơn giản để cùng được gọi là “CTHD”, có thể thấy rằng các quy
định về CTHD của Luật doanh nghiệp 2005 thiếu chú trọng một cách cần thiết để
phân biệt giữa CTHD và công ty hợp vốn đơn giản. Một điều cần phải biết rằng,
trong tiếng Anh, CTHD được gọi là “general partnership” hay “simply partnership”,
còn công ty hợp vốn đơn giản được gọi là “limited partnership”. Ở các nước thuộc họ

pháp luật Anh - Mỹ, mỗi dạng công ty nói trên có quy chế pháp lý riêng về thành lập
và vận hành. Chính vì vậy,với quy định về khái niệm CTHD của Luật doanh nghiệp
đã dẫn đến sự nhận thức thiếu chính xác về cả hai hình thức công ty này, và còn dẫn
đến nhiều quy định không thích hợp đối với chúng.
Theo Khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định CTHD là doanh
nghiệp trong đó:
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

3


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh
dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp
danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty.
Theo quy định trên thì có thể định nghĩa CTHD là một loại hình doanh nghiệp
trong đó CTHD phải có ít nhất hai thành viên hợp danh cùng liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Ngoài các thành viên hợp danh, CTHD
còn có thể có thành viên góp vốn. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, không có sự
phân chia rõ ràng CTHD thông thường hay CTHD hữu hạn mà loại hình công ty này
đều được gộp chung với tên gọi duy nhất là “CTHD”.
CTHD ở Việt Nam có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp
danh, trong trường hợp này phải có tối thiểu hai thành viên hợp danh thì CTHD mới
được thành lập hợp pháp. Ngoài ra, CTHD có thể bao gồm cả thành viên hợp danh và
thành viên góp vốn, trường hợp này pháp luật cũng chỉ quy định số lượng thành viên
hợp danh tối thiểu là hai thành viên mà không quy định số lượng thành viên góp vốn.

Đặc điểm này cho thấy sự khác biệt giữa pháp luật nước ta với pháp luật một số nước
trên thế giới. Ngay một số nước Đông Nam Á, CTHD được chia rõ ràng làm hai loại:
- Một là, CTHD trong đó tất cả các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (hợp danh
thông thường);
- Hai là, CTHD hữu hạn, công ty bao gồm những thành viên chịu trách nhiệm vô hạn,
có quyền quản lý, điều hành công ty và thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn, không
có quyền quản lý, điều hành công ty.
Luật doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam gộp hai loại hình CTHD thông
thường (hợp danh tuyệt đối) và CTHD hữu hạn làm một với tên gọi chung là CTHD.
Như vậy, có thể thấy khái niệm CTHD theo Luật doanh nghiệp năm 2005 của Việt
Nam chưa phân chia hai loại hình CTHD và số lượng thành viên CTHD một cách rõ
ràng.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

4


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
Chính vì điều này cũng đã dẫn đến khó khăn trong việc hiểu thế nào là số lượng
tối thiểu các thành viên đồng thời cũng gây khó khăn nhất định khi xem xét trường
hợp giải thể của CTHD khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu. Điểm c
khoản 1 Điều 157 Luật doanh nghiệp quy định khi công ty không còn đủ số lượng
thành viên tối thiểu trong thời hạn sáu tháng liên tục thì bị buộc phải giải thể. Đây là
quy định chung cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005.
Áp dụng quy định này vào các doanh nghiệp khác là điều đơn giản, chỉ cần dựa vào
số lượng thành viên tối thiểu mà pháp luật yêu cầu, như: công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên thì số lượng thành viên tối thiểu là hai, công ty cổ phần là ba cổ
đông…nhưng đối với CTHD thì lại khác. Nếu theo quy định của Luật doanh nghiệp,
có thể hiểu CTHD sẽ bị giải thể nếu không đủ hai thành viên hợp danh trong thời hạn
sáu tháng liên tục, còn thành viên góp vốn thì có thể có hoặc có thể không đều không

ảnh hưởng gì đến vấn đề giải thể công ty. Trên thế giới, hầu như các nước có quy
định về loại hình CTHD đều phân chia rõ hai loại hình CTHD và theo đó thì có quy
định về số lượng thành viên tối thiểu của mỗi loại hình công ty. Thành viên tối thiểu
tuy không tham gia quản lí điều hành CTHD nhưng họ cũng là những nhân tố góp
phần tạo nên công ty, không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò của họ đối với CTHD
được. Một CTHD chỉ có thành viên hợp danh chắc chắn khác với CTHD có cả thành
viên hợp danh và thành viên góp vốn. Vì thế việc không còn thành viên góp vốn
trong CTHD đang có loại thành viên này cũng làm ảnh hưởng tới sự tồn tại hay giải
thể của công ty.
2. Tư cách pháp lí của CTHD chưa thống nhất.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 thì: “CTHD có tư
cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh”.
Việc thừa nhận CTHD có tư cách pháp nhân, trong khi vẫn quy định loại hình
công ty này có ít nhất hai thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về
mọi khoản nợ của công ty là không nhất quán với quy định của Bộ luật dân sự (2005)
về pháp nhân.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

5


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
Theo Điều 84 Bộ luật dân sự (2005) có nêu: “Một tổ chức được công nhận là
pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.”.

Ngoài ra, Khoản 3 Điều 93 Bộ luật dân sự (2005) còn quy định: “Thành viên
của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ
dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.”
Với những xem xét nêu trên đã cho thấy, việc thừa nhận CTHD có tư cách pháp
nhân trong khi Luật doanh nghiệp (2005) vẫn quy định loại hình công ty này có ít
nhất hai thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của
công ty, bên cạnh đó CTHD không tự chịu mọi trách nhiệm bằng tài sản độc lập của
mình. Hai điều này hoàn toàn không phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 93 cũng
như Khoản 3 Điều 84 Bộ luật dân sự (2005).
Như vậy có thể thấy được sự chưa thống nhất giữa Luật doanh nghiệp (2005) và
Bộ luật dân sự về vấn đề pháp nhân của công ty hợp danh hết sức rõ ràng.
3. Bất cập trong quy chế thành viên của CTHD.
3.1. Hạn chế về điều kiện trở thành thành viên CTHD.
Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định: ”thành viên hợp danh phải là cá nhân”, có
nghĩa là các tổ chức, pháp nhân không thể trở thành thành viên hợp danh của CTHD.
Quy định này có thể xuất phát từ lí do thành viên hợp danh của CTHD phải chịu trách
nhiệm vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty nên buộc phải là cá nhân. Chịu
trách nhiệm vô hạn định có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai, không tồn tại một giới hạn nào trong khối tài
sản mà chủ thể đó có. Vậy cá nhân và pháp nhân đều phải chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của họ, chỉ có điều khác biệt là pháp nhân
khi đã bị thanh lí hết tài sản thì có thể không tồn tại nữa, còn cá nhân thì vẫn có cơ
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

6


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
hội để làm ăn, có nghĩa là có thể có tài sản trong tương lai. Tuy nhiên trong Luật phá
sản 2004 có quy định về việc pháp nhân khi đã bị thanh lí hết tài sản, chấm dứt hoạt

động, một số cá nhân vẫn phải chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân đó. Điều này có
nghĩa là pháp nhân cũng có thể chịu trách nhiệm vô hạn. Như vậy, Luật doanh nghiệp
2005 quy định chỉ cá nhân mới có thể trở thành thành viên hợp danh trong CTHD mà
không cho phép pháp nhân đã hạn chế quyền tự do lựa chọn hình thức đầu tư, quyền
tự do kinh doanh của các thương nhân khi lựa chọn loại hình kinh doanh.
3.2.Bất cập trong quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn.
Về quyền, Luật doanh nghiệp 2005 khác với các quy định của pháp luật trước
đó, đã cho phép thành viên góp vốn được tham gia vào cơ quan quản lí cao nhất của
công ty là Hội đồng thành viên và đồng thời cũng quy định cho thành viên góp vốn
những quyền lợi nhất định. Mặc dù vậy, việc quản lí, giám sát nội bộ cũng như cơ chế
điều hành của CTHD về thực chất đều nằm trong tay các thành viên hợp danh. Tại
điểm a khoản 1 Điều 140 Luật doanh nghiệp quy định thành viên góp vồn có quyền
tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa đổi bổ sung
Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ thành viên góp vốn, về tổ
chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều lệ công ty có liên quan
trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiện Luật lại không quy định cụ thể
cách thức tham gia họp, thảo luận, biểu quyết của loại thành viên này cũng như số
phiếu biểu quyết theo tỉ lệ như thế nào. Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 135 Luật
doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng của công ty phải được ít nhất ba
phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, nếu Điều lệ công ty không quy định
khác. Ngoài ra, những vấn đề khác không quy định tại khoản 3 Điều 135 Luật doanh
nghiệp được thông qua nếu có ít nhất 2/3 tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, tỉ
lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. Như vậy, thực chất, việc quyết định các vấn đề
từ quan trọng đến không quan trọng, từ nhỏ đến lớn của CTHD đều phụ thuộc vào sự
quyết định của các thành viên hợp danh. Các thành viên góp vốn tuy được Luật
doanh nghiệp quy định có quyền tham gia thảo luận, biểu quyết một số vấn đề của
công ty có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ nhưng lại không quy
định cụ thể cách thức thực hiện quyền đó ra sao cũng như hiệu lực của quyết định
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501


7


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
như thế nào. Do vậy, về hình thức thì Hội đồng thành viên là cơ quan quản lí có
quyền hạn cao nhất của công ty nhưng về thực chất thì chính các thành viên hợp danh
mới là những người có quyền quyết định mọi hoạt động của công ty và có quyền
nhân danh công ty thực hiện các giao dịch thương mại đối với bên ngoài.
Về nghĩa vụ, tại điểm c, khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp quy định thành
viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn
đã góp vào công ty. Tuy nhiên khoản 3 Điều 131 Luật doanh nghiệp lại quy định,
trường hợp có thành viên góp vốn không đủ và đúng hạn số vốn góp đã cam kết thì số
vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ đối với công ty. Tại điểm a, khoản 2 Điều 140
Luật doanh nghiệp cũng xác định, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Điều
này có nghĩa là các thành viên góp vốn phải có trách nhiệm trả đủ số vốn đã cam kết
góp cho công ty nhưng nếu họ không thực hiện hoặc thực hiện chưa đủ việc trả nợ
này thì Hội đồng thành viện công ty lại khai trừ họ ra khỏi công ty. Khi đó, nếu họ
chưa trả được khoản nợ này thì họ có tiếp tục trả nữa hay không, hay trách nhiệm trả
nợ sẽ đương nhiên giải phóng khi họ bị khai trừ? Còn nếu họ đã trả (trả góp) được
một phần rồi bị khai trừ thì họ có được hoàn trả lại lại phần vốn đã góp đó hay
không? Điều này Luật doanh nghiệp 2005 không quy định rõ.
Như vậy, quy định về vấn đề trách nhiệm của thành viên góp vốn tại điểm c
khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp đã không nhất quán với khoản 3 Điều 131 và
điểm a khoản 2 Điều 140 Luật doanh nghiệp. Và cũng không quy định rõ khi có sự
mâu thuẫn giữa các điều luật như vậy thì ưu tiên áp dụng điều luật nào?
3.3. Bất cập trong quy định về việc xác lập tư cách thành viên CTHD thông
qua hình thức chuyển nhượng phần vốn góp.
Luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên hợp danh và thành viên góp vốn
đều được chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác và người nhận chuyển

nhượng sẽ trở thành thành viên của CTHD. Tuy nhiên việc góp vốn để trở thành
thành viên hợp danh của người góp vốn sẽ gặp phải một số hạn chế, đó là:

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

8


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
- Thành viên hợp danh không được quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần
vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được các thành viên hợp
danh còn lại chấp thuận.
- Công ty có thể tiếp nhận thêm thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn và việc
tiếp nhận thêm thành viên mới phải được Hội đồng thành viên chấp thuận với số
phiếu tán thành của ít nhất 3/4 tổng số thành viên hợp danh.
Với những quy định trên của Luật doanh nghiệp 2005, có thể sẽ xảy ra trường
hợp như sau: các thành viên hợp danh đồng ý cho một thành viên hợp danh chuyển
nhượng vốn nhưng người mua lại phần vốn góp đó có được chấp nhận là thành viên
mới của CTHD hay không thì là vấn đề tiếp theo của 3/4 tổng số thành viên hợp
danh. Quy định như vậy về cơ bản phù hợp với đặc thù của công ty đối nhân - công
ty đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ việc gia nhập công ty của thành viên mới. Tuy nhiên
thực trạng quy định pháp luật đã bộc lộ một số điểm chưa thống nhất và sẽ gây ra
tranh luận khi thực thi pháp luật, cụ thể là:
- Khi một cá nhân chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của thành viên
hợp danh (tức là góp vốn vào công ty thông qua hình thức mua lại phần vốn góp của
thành viên) thì phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên còn lại trong CTHD.
Trong khi đó, nếu CHTD tiếp nhận bổ sung thành viên mới (thành viên hợp danh
hoặc thành viên góp vốn) thì chỉ cần số phiếu tán thành của ít nhất 3/4 tổng số thành
viên hợp danh. Quy định này thực sự đã tạo ra sự phân biệt đối xử không cần thiết
cho các cá nhân khác nhau khi góp vốn để trở thành thành viên hợp danh bằng hai

con đường khác nhau.
- Thành viên góp vốn được quyền chuyển nhượng phần vốn góp mà không kèm theo
điều kiện thực hiện nào (điểm d khoản 1 Điều 140). Tuy nhiên, quy định về việc tiếp
nhận thành viên mới (thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn) của công ty
phải được Hội đồng thành viên chấp thuận (khoản 1 Điều 139) với số phiếu tán
thành của ít nhất 3/4 tổng số thành viên hợp danh (khoản 3 Điều 135) có thể trở
thành rào cản để người mua lại phần vốn góp bước chân vào CTHD khi các bên đã
thuận mua vừa bán.
4. Bất cập trong quy định về huy động vốn của CTHD.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

9


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
Theo Khoản 3 Điều 130 Luật doanh nghiệp (2005) quy định: “CTHD không
được phát hành bất kì loại chứng khoán nào”.
Theo quy định trên thì CTHD không được phép phát hành bất kì loại chứng
khoán nào. Câu hỏi đặt ra ở đây là quy định như vậy liệu đã hợp lí chưa và xuất phát
từ lí do nào mà pháp luật lại quy định như vậy?
Trên thực tế ta thấy phát hành chứng khoán là một phương thức giúp cho doanh
nghiệp có khả năng huy động vốn cũng như nâng cao tiềm lực và doanh thu cho
doanh nghiệp mình. Thị trường chứng khoán đã trở thành sân chơi chung, phổ biến
cho các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư.
Theo Luật doanh nghiệp (2005) thì hầu hết các doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân đều được phát hành những loại chứng khoán nhất định: công ty cổ phần được
phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn; công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chỉ không được phát
hành cổ phần, tức là các công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn có thể phát hành trái phiếu.
Như vậy, những công ty này cũng như CTHD đều có tư cách pháp nhân nhưng

chỉ có CTHD là không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào. CTHD chỉ khác
các doanh nghiệp ở điểm cơ bản là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của những thành
viên hợp danh và tính chất đóng, hạn chế tiếp nhận thành viên hợp danh.
Tuy nhiên, chứng khoán có thể là cổ phiếu hoặc trái phiếu. Người mua cổ phiếu
là cổ đông, là một trong những đồng chủ sở hữu công ty cổ phần, còn người mua trái
phiếu trở thành chủ nợ của công ty, không có quyền tham gia quản lí công ty, không
phải là thành viên công ty. Do đó việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng
không ảnh hưởng đến tính chất đóng, hạn chế tiếp nhận thành viên của công ty hợp
danh. Hơn nữa, từ góc độ bảo vệ quyền lợi của những người đầu tư mua trái phiếu thì
chế độ chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn của các thành viên hợp danh trong công ty
càng là một an toàn pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.
Do đó, hạn chế CTHD không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào,
không những một phần nào ảnh hưởng đến quyền lợi của CTHD so với các mô hình
công ty khác, ảnh hưởng đến sự phát triển của CTHD một cách không cần thiết,
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

10


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
không thỏa đáng; mà hạn chế này làm giảm bớt đi thị trường hoạt động của một số
lượng nhà đầu tư nhất định.
Trên đây là một số bất cập, hạn chế bộc lộ trong những quy định của pháp luật về
CTHD làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của mô hình kinh doanh này.
III. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định còn hạn chế của Luật doanh
nghiệp 2005.
1. Hoàn thiện khái niệm về CTHD.
Để pháp luật được rõ ràng hơn, phù hợp với quy định chung của thế giới về
CTHD đồng thời đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, nên phân chia rõ hai loại hình
CTHD và số lượng thành viên CTHD tối thiểu:

- Một là loại hình công ty chỉ có các thành viên hợp danh. Trong trường hợp này, công
ty sẽ bị coi là không đủ số lượng thành viên tối thiểu khi không đủ ít nhất hai thành
viên hợp danh.
- Hai là loại hình công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Loại hình
công ty này sẽ bị giải thể bắt buộc khi không có đủ ít nhất tối thiểu ba thành viên
(trong đó hoặc không đủ hai thành viên hợp danh hoặc không có thành viên góp vốn)
Với việc phân chia rõ ràng hai loại hình CTHD như vậy thì việc hiểu về số
lượng thành viên tối thiểu trong CTHD sẽ trở nên dễ dàng và hợp lí hơn. Trong
trường hợp CTHD có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn mà trong quá
trình kinh doanh, vì một lí do nào đó không còn loại thành viên góp vốn nữa thì vẫn
có thể chuyển đổi sang loại hình CTHD thông thường (chỉ có thành viên hợp danh)
nếu vẫn đủ hai thành viên hợp danh mà không nhất thiết bị giải thể.
2. Thống nhất quy định về tư cách pháp lí của CTHD.
Để các quy định của Luật doanh nghệp về CTHD phù hợp, không mâu thuẫn với
quy định về pháp nhân trong Bộ luật dân sự, có thể sửa đổi các quy định của pháp
luật hiện hành theo một trong hai hướng sau:
- Thứ nhất, sửa đổi các quy định của Luật doanh nghiệp theo hướng không thừa nhận
tư cách pháp nhân của CTHD.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

11


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
- Thứ hai, giữ nguyên nội dung Luật doanh nghiệp 2005 về việc thừa nhận tư cách
pháp nhân của CTHD nhưng sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm dân sự của
pháp nhân theo hướng mới, theo đó: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách
nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập,
thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy

định như vậy, một mặt vẫn đảm bảo nguyên tắc thành viên pháp nhân không phải
chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghịa vụ dân sự do pháp nhân
xác lập, thực hiện; mặt khác vẫn đảm bảo quyền tự do khế ước (hợp đồng) và yêu cầu
đòi hỏi riêng biệt của pháp luật chuyên ngành.
Nhiều văn bản pháp luật Việt Nam quy định là tổ chức tham gia vào một ngành
nghề nào đó phải có tư cách pháp nhân. Vì vậy, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của
CTHD cho phép các công ty này được quyền tham gia. Một số luật gia cho rằng,
không nên thừa nhận tư cách pháp nhân của CTHD với hai lý do chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, việc thừa nhận tư cách pháp nhân mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên
điều đó không làm ảnh hưởng lớn về lý luận pháp lý khi mà chúng ta thừa nhận tư
cách pháp nhân của CTHD bởi Bộ luật Dân sự là luật chung còn Luật Doanh nghiệp
là luật chuyên ngành. Vì vậy, có thể coi việc thừa nhận tư cách pháp nhận của CTHD
là một ngoại lệ của Bộ luật Dân sự.
- Thứ hai, ở một số nước, ví dụ như ở Đức, CTHD không có tư cách pháp nhân. Tuy
nhiên, cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, những luật gia theo quan điểm này chỉ dừng
lại ở trích dẫn pháp luật nước ngoài. Họ chưa cho biết pháp luật nước này phải làm
những gì để cho CTHD có thể tham gia giao dịch với người thứ ba và tham gia hoạt
động tố tụng. Đặc biệt, họ chưa cho biết là việc không thừa nhận tư cách pháp nhân
của CTHD có nhiều thuận lợi hơn việc thừa nhận tư cách pháp nhân của loại hình
doanh nghiệp này.
Nói tóm lại, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của CTHD là một điều hợp lí bởi
lẽ nếu chúng ta không thừa nhận tư cách pháp nhân, để đảm bảo cho loại hình doanh
nghiệp này được tham gia tố tụng hay giao dịch với người thứ ba, chúng ta sẽ phải
thiết lập một số khái niệm pháp luật hay kỹ thuật pháp lý khác. Việc này không hề
đơn giản và sẽ phức tạp hơn việc thừa nhận tư cách pháp nhân của CTHD rất nhiều.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

12



BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
Chính vì vậy, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của CTHD vừa phù hợp với xu
hướng lập pháp của các quốc gia trên thế giới hiện nay vừa tạo được vị thế của
CTHD theo pháp luật Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, sửa đổi bổ sung
quy định của Bộ luật dân sự về pháp nhân theo hướng mở nêu trên vừa đảm bảo cho
Luật doanh nghiệp phù hợp với quy định chung của Bộ luật dân sự vừa tạo điều kiện
cho tư duy pháp lí hiện đại về pháp nhân được tiếp cận trong pháp luật Việt Nam.
3. Hoàn thiện các quy định về quy chế thành viên của CTHD.
3.1. Sửa đổi về điều kiện trở thành thành viên của CTHD.
Luật doanh nghiệp Việt Nam nên sửa đổi theo hướng cho phép pháp nhân có thể
trở thành thành viên hợp danh. Có thể thấy, pháp nhân là những tổ chức có cơ cấu
chặt chẽ, có tiềm lực kinh tế, và có khả năng chịu trách nhiệm tài sản cao. Vì thế, việc
cho phép pháp nhân được trở thành thành viên hợp danh cũng không ảnh hưởng đến
bản chất đối nhân của CTHD, bởi pháp nhân cũng có những đặc điểm “nhân thân”
nhất định của nó, đó là trụ sở, con dấu, quốc tịch, thành viên… mà các thành viên
hợp danh khác hoàn toàn có thể tìm hiểu và có sự tin cậy. Hơn nữa, pháp nhân cũng
có tài sản riêng và hoàn toàn có thể chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản đó về các
nghĩa vụ của CTHD.Nên pháp luật Việt Nam đã thừa nhận loại thương nhân là pháp
nhân thì không có lí gì lại không cho phép pháp nhân có thể trở thành thành viên hợp
danh của CTHD. Và khi cho phép thành viên hợp danh là pháp nhân, pháp luật nên
kèm theo chế độ trách nhiệm hình sự cho cá nhân đứng đầu pháp nhân.
Như vậy, cần bổ sung tại điểm b khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp như sau:
”Thành viên hợp danh là pháp nhân hoặc có thể là pháp nhân, chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.”
3.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn.
Thành viên góp vốn cũng có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại tiếp tục
của CTHD, có tầm quan trọng nhất định đối với CTHD và những vấn đề quan trọng
của công ty. Thực tế thì cơ quan quản lí cao nhất của CTHD là Hội đồng thành viên,
bao gồm tất cả các thành viên công ty. Tuy nhiên về thực chất, mọi quyền quản lí,
điều hành công ty đều nằm trong tay các thành viên hợp danh. Với các quy định hiện

hành của Luật doanh nghiệp, vô hình chung các quyền của thành viên góp vốn trong
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

13


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
CTHD chỉ tồn tại một cách hình thức, “hữu danh vô thực”. Vì vậy, pháp luật cần quy
định rõ thể thức, cách thức và tỉ lệ cụ thể số phiếu biểu quyết của các thành viên góp
vốn khi tham gia thảo luận, biểu quyết một số vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
Từ đó, góp phần nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của thành viên góp vốn
trong hoạt động kinh doanh của công ty, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia góp
vốn để trở thành thành viên góp vốn của công ty, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho
loại thành viên góp vốn trong tương quan với quyền lợi của các thành viên hợp danh.
Về sự không thống nhất trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ của thành viên
góp vốn, thiết nghĩ, một trong các nguyên tắc áp dụng pháp luật là luật riêng, luật
chuyên ngành được ưu tiên áp dụng, chỉ những gì luật riêng, luật chuyên ngành
không quy định mới áp dụng các quy định chung của pháp luật. Theo logic đó, quy
định tại khoản 3 Điều 131 và điểm a khoản 2 Điều 140 là những quy định riêng, quy
định cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ của thành viên góp vốn cần phải ưu tiên áp dụng
trước quy định tại điểm c khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp để khắc phục phần nào mâu thuẫn trong quy định
của pháp luật mà chưa giải quyết triệt để. Để hoàn thiện hơn, nên sửa đổi để tạo nên
sự nhất quán khi áp dụng vào thực tiễn. Vì thế, điểm c khoản 1 Điều 130 Luật doanh
nghiệp nên sửa đổi thành: “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.” Và đồng thời nên có
các quy định về chế tài cụ thể cho các trường hợp thành viên góp vốn không hoàn
thành nghĩa vụ góp vốn đã cam kết.
3.3. Hoàn thiện các quy định về việc xác lập tư cách thành viên CTHD thông
qua hình thức chuyển nhượng phần vốn góp.

Về vấn đề này, có thể thấy, pháp luật nên quy định thống nhất theo hướng một cá
nhân chỉ có thể trở thành thành viên hợp danh mới khi có sự nhất trí của các thành
viên hợp danh trong công ty, cho dù góp vốn theo cách nhận chuyển nhượng hay góp
vốn trực tiếp. Bên cạnh đó cũng nên đơn giản hóa các quy định về thủ tục khi tiếp
nhận người mua lại phần vốn góp trở thành thành viên công ty.
4. Sửa đổi quy định về huy động về vốn trong CTHD.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

14


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
Về vấn đề này, pháp luật cần có những sửa đổi hợp lí hơn, cụ thể là cần cho phép
CTHD được phát hành trái phiếu để huy động vốn. Quy định như vậy, vừa đảm bảo
tính công bằng cho loại hình công ty này so với các loại hình doanh nghiệp khác
trong việc tăng kênh huy động vốn, đồng thời bảo đảm tính hợp lí giữa quy định của
pháp luật doanh nghiệp với các quy định của pháp luật chứng khoán và thị trường
chứng khoán và phù hợp với các quy định của pháp luật của một số nước trên thế
giới. Vì theo quy định của những nước này thì CTHD không được phép phát hành cổ
phiếu, còn các loại chứng khoán khác vẫn được phát hành.
Một số kiến nghị trên là những ý kiến đóng góp nhằm khắc phục các hạn chế và
hoàn thiện hơn nữa các quy định về CTHD trong Luật doanh nghiệp 2005, góp phần
tạo nên một hành lang pháp lí vững chắc, tạo điều kiện cho mô hình CTHD phát triển
lớn mạnh hơn, đóng vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế.
C. KẾT LUẬN
Trong kinh doanh, việc lựa chọn loại hình công ty phù hợp với ý tưởng và khả
năng của mình luôn được các thương nhân cân nhắc và đánh giá một cách toàn diện,
điều mà người ta quan tâm nhất khi tham gia vào các hoạt động thương mại là chế độ
trách nhiệm khi phá sản và khả năng rủi ro. Vì thế, loại hình công ty đối vốn luôn có
ưu thế nổi trội khi được đưa ra lựa chọn bởi nó đã giải quyết được vấn đề trên. Tuy

nhiên, đôi khi lợi nhuận chưa phải là tất cả, đối với một số ngành nghề cần phải có
trách nhiệm cao khi cung cấp dịch vụ thì không thể áp dụng hình thức trách nhiệm
hữu hạn được mà phải là hình thức trách nhiệm vô hạn, nghĩa là công ty đối nhân, bởi
vì nếu thiệt hại xảy ra thì khó có thể lường hết được hậu quả, ví dụ nhưnghành nghề
luật sư, bác sỹ, kiểm toán...
CTHD là một đại diện tiêu biểu mang đặc trưng của mô hình công ty đối nhân
đó, được hình thành sớm nhất trong lịch sử các công ty, tuy còn chứa đựng những bất
lợi khi tham gia vào hoạt động kinh doanh nhưng cũng không thể phủ nhận được
những ưu điểm của nó. Nổi bật với các đặc điểm như: tạo được sự tin cậy đối với bạn
hàng, làm cho môi trường kinh doanh ngày càng lành mạnh, đẩy mạnh xu hướng làm
việc cam kết theo khả năng chứ không theo kết quả, Nhà nước kiểm soát được hoạt
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

15


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 1
động (một trong những lý do để quy định CTHD có tư cách pháp nhân và phải nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp)… thiết nghĩ mô hình này cần được nhanh chóng hoàn
thiện để đi vào đời sống một cách mạnh mẽ. Để làm được điều đó, chúng ta cần một
tư duy thoáng hơn và chuẩn hơn trong xây dựng và áp dụng luật. Với những quy định
hiện nay của Pháp luật Việt Nam về CTHD thì loại hình này khó có thể phát triển
được như mong muốn. Môi trường kinh doanh ngày càng năng động, mở rộng với
nhiều phương thức phong phú nên loại hình nào cũng cần cho nền kinh tế thị trường.
CTHD là một mô hình hay, thể hiện được tập trung ý chí của các thành viên tham gia
và nhất là tạo được sự tin cậy của bạn hàng kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh
tế phát triển bền vững. Chính vì vậy, thiết nghĩ việc sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa
các quy định về CTHD trong Luật doanh nghiệp 2005 sẽ đóng một vai trò tích cực
trong việc hỗ trợ phát triển và khai thác tối đa lợi ích của mô hình này.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật doanh nghiệp 2005.
- Giáo trình luật thương mại. Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Công ty hợp danh trong pháp luật Việt Nam. Khóa luận tốt nghiệp. Tác giả:
Đặng Gia Kiên. Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam, tạp chí Luật học, số
9/2010. Tác giả: Vũ Đặng Hải Yến.
- Cần quy định hợp lí về công ty hợp danh, tạp chí nghiên cứu lập pháp, văn
phóng Quốc hội, số 6/2005. Tác giả: Đỗ Văn Đại.
- Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử.
- Một số vấn đề pháp lí về công ty hợp danh. Luận văn thạc sĩ luật học, tác giả:
Vũ Đặng Hải Yến.
- Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
Văn phòng Quốc hội, số 1/2008.
- Về tư cách pháp lí của công ty hợp danh theo quy định của pháp luật Việt
Nam, tạp chí Nhà nước và pháp luật.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – MSSV: 352501

16



×