Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------------

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------------

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thanh Xuân

HÀ NỘI - 2015

2


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu7 ................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
6. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 6
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ................................ 7
1.1. Khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam ................................................. 7
1.1.1. Ca dao Việt Nam ..................................................................................... 7
1.1.2. Tục ngữ Việt Nam ................................................................................. 11
1.1.3. Đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam .............................................. 15
1.2. Những điều kiện hình thành ca dao, tục ngữ Việt Nam ..................... 19
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 20
1.2.2. Điều kiện văn hóa - tư tưởng ................................................................ 24
1.3. Khái niệm triết lý và triết lý nhân sinh ................................................ 30
1.3.1. Khái niệm triết lý .................................................................................. 30
1.3.2. Triết lý nhân sinh .................................................................................. 33

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 34
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO,
TỤC NGỮ VIỆT NAM ................................................................................. 35
2.1. Quan niệm về đời ngƣời, ý nghĩa của cuộc đời con ngƣời ................. 35

1


2.2. Quan niệm về cách ứng xử của con ngƣời với tự nhiên ..................... 40
2.2.1. Con người sống không thể tách rời với tự nhiên ............................... 40
2.2.2. Quan niệm về lao động sản xuất cải tạo tự nhiên ................................. 45
2.3. Quan niệm về cách ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời trong xã hội ... 50
2.3.1. Tình u đơi lứa chân thành, trong sáng, bình dị, thiết tha, mãnh liệt
được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày .............................. 50
2.3.2. Mối quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn, sẻ chia ........... 54
2.3.3. Mối quan hệ trong gia đình trên dưới tơn kính, cha con chí hiếu ............. 57
2.3.4. Mối quan hệ anh em thuận hịa ............................................................. 62
2.3.5 Mối quan hệ tơn sư trọng đạo, bạn bè tình nghĩa ........................................ 63
2.3.6. Mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân tương ái trong cộng đồng,
quốc gia dân tộc............................................................................................... 66
2.4. Những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam ............................................................................................. 72
2.4.1. Về giá trị ................................................................................................ 72
2.4.2. Về hạn chế ............................................................................................. 81
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ bao đời nay trong tâm thức người Việt, văn học dân gian được coi
như một di sản, một kho tàng quý giá tích lũy những gì mà lồi người đã biết
được nhờ vào sự trải nghiệm hàng thế kỉ. Trong đó, ca dao, tục ngữ được coi
như những viên ngọc mà sự lung linh, kì ảo của nó đã lặn sâu vào trong kí ức
con người như một ảnh tượng của quê hương ngàn đời.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam đượm màu sắc dân gian, thể hiện tâm tư, tình
cảm của nhân dân lao động Việt Nam. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn
lao động sản xuất của cha ông ta, là tài sản vô cùng quý giá của dân tộc. Những
đề tài của ca dao, tục ngữ bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao động sản xuất và
những sinh hoạt đời thường nên nội dung của ca dao, tục ngữ rất đa dạng và
phong phú. Ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng chính là những lời ăn
tiếng nói của nhân dân lao động nên cũng rất dễ hiểu và dễ cảm. Chính vì lẽ đó,
trong lịch sử đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khai thác về chủ đề ca dao,
tục ngữ. Các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác ca dao, tục ngữ trên nhiều
bình diện khác nhau và đã mang lại những hiệu quả nhất định.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc như: triết lý
biện chứng, triết lý đạo đức, triết lý giáo dục đặc biệt hơn cả là triết lý nhân
sinh. Triết lý nhân sinh như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự đúc kết kinh
nghiệm của cha ông ta về tự nhiên, xã hội, con người. Nó mang lại cho chúng
ta sự hiểu biết sâu sắc về quan niệm của ông cha ta về lẽ sống, về đạo làm
người, về cách ứng xử của con người với tự nhiên và giữa con người với nhau
trong xã hội.
Nghiên cứu về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam không
những khẳng định lại những giá trị văn hóa của dân tộc mà cịn góp phần

1



củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho người dân Việt Nam nói chung và một bộ
phận thanh niên Việt Nam hiện nay dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa.
Vì những lý do trên tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ca dao, tục ngữ là một thành tố quan trọng, góp phần tạo nên hệ giá trị
tinh thần, bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, ca dao, tục
ngữ đã được thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và
ngoài nước ở những góc độ, những khía cạnh khác nhau. Trước những nghiên
cứu đa dạng và đa ngành về ca dao, tục ngữ việc tiếp cận tư liệu của đề tài
chủ yếu được triển khai trên hai nhóm chủ đề lớn như sau:
Trước hết, là những cơng trình nghiên cứu tổng quan về ca dao, tục ngữ
Việt Nam:
Cơng trình sưu tập, nghiên cứu của tác giả Vũ Ngọc Phan “Tục ngữ, ca
dao Việt Nam” (1995), tác giả Đinh Gia Khánh “Văn học dân gian Việt
Nam” (2000). Hai cuốn sách nói trên, các tác giả đã làm rõ khái niệm, nguồn
gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật của ca
dao, tục ngữ Việt Nam nói chung. Ngồi ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ
giữa ca dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác.
Cơng trình sưu tập ca dao, tục ngữ cơng phu nhất, có nội dung phong
phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần đầu
vào năm 1928. Tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6.500 câu tục ngữ
của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là một trong
những cơng trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn.
Cuốn sách “Tục ngữ ca dao Việt Nam” (2014) của tác giả Ngọc Hà đã
sưu tập và tuyển chọn những câu ca dao tục ngữ rất hay, rất ý nghĩa, rất điển
hình trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tác giả đã sắp xếp các câu ca

2



dao, tục ngữ theo từng chủ đề giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và nghiên cứu.
Đây là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho những người muốn đọc và tìm
hiểu về ca dao, tục ngữ.
Thứ hai, những cơng trình tập trung khai thác về những yếu tố triết học,
triết lý trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tiêu biểu có những cơng trình sau:
Trong bài viết “Tìm hiểu yếu tố triết học trong tục ngữ Việt Nam” của
Vũ Hùng in trên Tạp chí Triết học, số 1/1994, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau
cơ bản giữa tục ngữ Việt Nam và triết học đồng thời cũng phân tích để làm rõ
một số yếu tố triết học trong tục ngữ Việt Nam. Ở đây, tác giả mới chỉ phân
tích một cách chung chung về các yếu tố triết học trong tục ngữ, chưa đi sâu
nghiên cứu cụ thể vào một khía cạnh nào.
Đề tài“Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt
Nam”(2006) của tác giả Phạm Thị Thúy Hằng cũng đã trình bày một số tư
tưởng triết học về thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đề
cập đến những ảnh hưởng của truyện kể dân gian đối với việc xây dựng nền
văn hóa của dân tộc.
Đề tài “Một số tư tưởng biện chứng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam”
(2011), Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện chính trị - hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, của tác giả Hồng Thị Ánh Thu đã đề cập đến tư tưởng biện
chứng trong ca dao, tục ngữ với hai nội dung cơ bản được thể hiện qua hai
chương. Cụ thể là trong chương 2, tác giả trình bày tư tưởng về mối quan hệ
biện chứng giữa con người với tự nhiên trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và
trong chương 3, tác giả trình bày về tư tưởng về mối quan hệ biện chứng giữa
con người với con người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Ở đề tài này, tư
tưởng biện chứng chủ yếu chỉ được đề cập ở mối quan hệ giữa con người với
gia đình và xã hội. Những vấn đề như quan niệm về sự vận động phát triển,

3



quan niệm về mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, giữa các yếu tố cấu
thành sự vật, hiện tượng chưa được tác giả đề cập đến.
Trong cuốn “Những yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam” (1996), tác giả Võ Hoàng Khải đã làm sáng tỏ đồng thời hệ thống
hóa các yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ để thấy được bản
chất tư duy của người lao động bình dân. Một số nội dung duy vật và biện
chứng đã được tác giả trình bày khá rõ ràng.
Về chủ đề Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ, tác giả Nguyễn Nghĩa
Dân có biên soạn cuốn “Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam”
(2011). Tác giả đã sưu tập hàng nghìn câu tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo
làm người. Cuốn sách gồm có hai phần chính: Phần thứ nhất tác giả trình bày
những đặc điểm của tục ngữ, ca dao về đạo làm người, đồng thời tác giả tiến
hành phân loại và trình bày nội dung tục ngữ, ca dao về đạo làm người. Phần
thứ hai, tác giả sưu tầm, lựa chọn, giải thích tục ngữ, ca dao về đạo làm
người. Đây là một công trình rất hay và có ý nghĩa, trình bày rất đầy đủ và cụ
thể nội dung về đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Về Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ cũng đã thu hút được sự quan
tâm, nghiên cứu của các tác giả. Tiêu biểu có đề tài “Triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế”(2011) của tác giả Cao Thị Hoa đã đi sâu phân
tích và làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế,
trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới
quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, vận dụng nó ở góc độ
kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế, mà chưa đi sâu tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

4



Điểm qua tình hình nghiên cứu trên cho thấy việc nghiên cứu về triết lý
nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vẫn cần được tiếp tục. Các cơng
trình trước đây mới chỉ dừng lại ở việc đề cập một cách chung chung về triết
lý nhân sinh hoặc có phân tích sâu nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi của một
vùng miền, chứ chưa phân tích, làm rõ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam một cách có hệ thống. Vì vậy, việc kế thừa, bổ sung, góp phần hồn
thiện làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là việc làm
có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách có hệ thống về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống của con người
Việt Nam, góp phần gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn làm rõ:
- Tìm hiểu khái quát về sự hình thành của ca dao, tục ngữ Việt Nam.
- Phân tích một cách có hệ thống triết lý nhân sinh trong kho tàng ca
dao, tục ngữ Việt Nam.
- Bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là triết lý nhân sinh trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những câu ca dao, tục ngữ đã được
tuyển chọn có nội dung chính xác nằm trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam.

5



5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm và phương pháp luận
của triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu kết hợp các phương pháp logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Một là, luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
- Hai là, bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm
sống của con người Việt Nam thông qua kho tàng ca dao, tục ngữ.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Khẳng định những giá trị to lớn của ca dao, tục ngữ Việt Nam: ca
dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.
- Khẳng định tư duy của dân tộc Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam là
một bộ phận hòa cùng sự phát triển của tư duy nhân loại.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học
tập Văn học dân gian, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, triết học Mác - Lê nin.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 2 chương và 7 tiết.

6



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái quát về ca dao, tục ngữ Việt Nam
Ca dao, tục ngữ là niềm tự hào to lớn của dân tộc Việt Nam, một thể
loại văn học dân gian độc đáo thể hiện nghệ thuật sống đẹp, bảo vệ chân thiện - mỹ, đề cao cái hay, phê phán chỉ trích cái xấu trong xã hội. Đặc điểm
của ca dao, tục ngữ là phong phú về nội dung nhưng lại được diễn đạt bằng
ngơn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, hình ảnh hết sức giản dị, chân thật, gần
gũi với đời sống của người dân. Do đó, chỉ cần đọc qua ta có thể nhớ được dễ
dàng, nhưng phải đọc đi đọc lại và suy ngẫm ta mới thấy hết được cái hay, cái
đẹp trong cách thể hiện nội dung. Tục ngữ ca dao được hình thành từ cuộc
sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân
dân trực tiếp sáng tác, được tách ra từ các tác phẩm văn học dân gian hoặc
ngược lại. Cho đến nay, về mặt văn học thì ca dao, tục ngữ được xem xét trên
nhiều lập trường khác nhau, song chỉ có triết học duy vật biện chứng mới xác
lập được phương pháp luận khoa học để tiếp cận đúng bản chất của ca dao,
tục ngữ. Bởi triết học duy vật biện chứng gắn liền ca dao tục ngữ với thời đại
lịch sử sản sinh ra nó, xem nó là khát vọng của con người muốn giải thích về
các hiện tượng tự nhiên, xã hội và bản thân mình.
1.1.1. Ca dao Việt Nam
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, thì “Ca dao thường là những
câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản ánh đời sống, phong tục,
đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc biệt là tình yêu nam nữ” [tr. 303]

7


Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã định

nghĩa khái niệm ca dao: “Ca dao là những bài hát ngắn khơng có chương
khúc” [16, tr. 20].
Cũng bàn về khái niệm ca dao, trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam,
tập 2 của tập thể tác giả, Bùi Văn Nguyên (chủ biên) đã nêu: “Ca dao là
những bài hát có hoặc khơng có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần
của dân tộc (thường là thể lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình
cảm” [34, tr. 38].
Khi phân biệt giữa ca dao và dân ca tác giả Vũ Ngọc Phan cũng đã giải
thích: “Ca dao là một loại thơ dân gian, có thể ngâm được như các loại thơ
khác” [36, tr. 42].
Như vậy, ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những
tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao
động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội, hoặc nói lên những kinh nghiệm
sống và hành động bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan chứ không phải miêu
tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên, trong ca
dao, cái tơi trữ tình nổi lên một cách rõ nét. Cũng như các thể loại văn học
dân gian khác, ca dao phản ánh mọi mặt cuộc sống của người dân Việt Nam
qua quá trình lịch sử. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy màu sắc
Việt Nam, thể hiện một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân sinh quan của
con người Việt Nam. Đó là những quan niệm về trời, đất, về nguồn gốc con
người; đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần tương thân tương ái
giữa những con người lương thiện; đó cịn là những nhận thức sâu sắc về bạn,
về thù, về chính nghĩa. Tóm lại, qua ca dao, ta có thể thấy rõ hiện thực cuộc
sống của nhân dân, cái hiện thực vốn có được hiện lên một cách chân thực nhất.
Nội dung của ca dao rất phong phú đa dạng. Ca dao phản ánh những
quan niệm về trời, đất, về thời thế; phản ánh lịch sử công cuộc đấu tranh

8



chống thiên nhiên, chống áp bức bóc lột và xâm lược. Ca dao miêu tả khá chi
tiết phong tục tập quán, những kinh nghiệm trong sinh hoạt vật chất và tinh
thần của nhân dân lao động, những kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi,
gieo trồng mùa vụ, trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã
hội, qua đó thấy được đức tính cần cù, chịu đựng gian khổ, khó khăn và
những phẩm chất tốt đẹp của người dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên,
với xã hội để sinh tồn và vươn lên giành lấy hạnh phúc.
Nét nổi bật trong bộ phận ca dao lịch sử là nội dung của nó đã thể hiện
một cách mạnh mẽ, sâu sắc tình cảm của nhân dân đối với quê hương, đất nước:
“Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi
nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” [38, tr. 299 - 300].
Hay những câu ca dao phản ánh những sự kiện lịch sử của dân tộc, nói
lên thái độ, quan điểm, lòng yêu nước của nhân dân ta khi bà Triệu khởi nghĩa
chống quân Ngô xâm lược:“Ru con, con ngủ cho lành/ Để mẹ gánh nước rửa
bành cho voi/ Muốn coi lên núi mà coi/ Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh
cồng/ Túi gấm cho lẫn túi hồng/ Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân”
[38, tr. 34].
Ca dao cịn là tiếng nói của trái tim, bày tỏ sự uất ức, phẫn nộ của nhân
dân, là tiếng hát đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, cường quyền,
chống quân xâm lược, vạch trần những cái xấu, những tội ác mà chế độ phong
kiến đế quốc gây ra cho nhân dân ta: “Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở
chùa thì quét lá đa/ Bao giờ dân nổi can qua/ Con vua thất thế lại ra quét
chùa” [38, tr. 469].
Hay: “Cái cò mày đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/
Ông ơi ơng vớt tơi nao/ Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng/ Có xáo thì xáo
nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con” [38, tr. 459].

9



Hình ảnh nổi bật trong những câu ca dao nói về đất nước, quê hương,
dân tộc… là hình ảnh về con người Việt Nam cần cù trong lao động, dũng
cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hy sinh trong quan hệ giữa
người với người và luôn lạc quan, yêu đời. Ca dao thể hiện những phẩm chất
tốt đẹp đó của con người Việt Nam và hướng họ vươn tới cái chân, thiện, mỹ
trong cuộc sống. Tiêu biểu như những câu ca dao: “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng/ Bầu ơi thương lấy bí
cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” [38, tr. 128].
Ca dao còn là tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương của con người.
Phong phú và đặc sắc nhất, giàu cung bậc nhất trong tình cảm của con người
là mảng ca dao giành cho tình yêu đôi lứa: “Đố ai quét sạch lá rừng/ Để anh
khuyên gió, gió đừng rung cây/ Rung cây, rung cỗi, rung cành/ Rung sao cho
chuyển lòng anh với nàng” [38, tr. 258].
Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ đã kết hợp chặt chẽ chủ đề tình yêu
với chủ đề lao động, những nét sinh hoạt, những cảnh vật quen thuộc trong
đời sống hàng ngày của nhân dân. Sự kết hợp giữa các chủ đề đó làm cho ca
dao khơng chỉ phản ánh quan hệ nam nữ trong khuôn khổ tình cảm cá nhân,
mà cịn có nội dung xã hội phong phú và tính tư tưởng cao. Ngồi ra, các chủ
đề trong ca dao rất phong phú và đa dạng. Trong ca dao, bên cạnh tiếng hát
ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng kêu đau khổ, xót xa về
những trắc trở, ngang trái trong tình u. Bên cạnh đó, một trong những bộ
phận quan trọng của ca dao là những nhận định về con người và về việc đời
như là sự tổng kết các kinh nghiệm, triết lý, quan niệm đạo đức, nhân cách, là
cách ứng xử, giao tiếp giữa người với người.
Ta thấy, trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học hình thành từ sự thể
hiện tình cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật của ngơn từ, bằng
hình tượng để tạo nên các triết lý sâu sắc. Bài ca dao “Tát nước đầu đình”:

10



“Hơm qua tát nước đầu đình/ Bỏ qn chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được
thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà/ Áo anh sứt chỉ đường tà/Vợ
anh chưa có, mẹ già chưa khâu/ Áo anh sứt chỉ đã lâu/ Nay mượn cô ấy về
khâu cho cùng/ Khâu rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh lại giúp cho/
Giúp em một thúng xôi vò/ Một con lợn béo một vò rượu tăm/ Giúp em đôi
chiếu em nằm/ Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo/ Giúp em quan tám tiền
cheo/ Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau” [38, tr. 359], là lời tự sự của
chàng trai đối với cô gái nhưng thông qua đó tốt lên triết lý lạc quan u đời,
khát vọng hướng đến một tình u đơi lứa chân chính. Tất cả những điều trên
cho thấy, trong ca dao Việt Nam, tư duy triết học là một bộ phận rất cơ bản
góp phần tạo nên các giá trị tư tưởng của nó.
Như vậy, ca dao Việt Nam đã thể hiện tư duy sâu sắc của cha ông ta
trên nhiều phương diện của đời sống. Có thể khẳng định rằng, tư duy triết học
trong ca dao không thể hiện bằng con đường lý trí mà trước hết thể hiện bằng
tình cảm, để cuối cùng ca dao đem lại cho con người sự xúc cảm thẩm mỹ,
những triết lý về nhân sinh, thế sự. Nếu triết lý ở tục ngữ là kết quả của tư duy
trừu tượng, tư duy logic, thì triết lý của ca dao là kết quả của tư duy hình
tượng, là nghệ thuật của ngơn từ, là các phép ẩn dụ, so sánh.
1.1.2. Tục ngữ Việt Nam
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4: “Tục ngữ là một bộ phận
của văn học dân gian, gồm những câu ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức,
kinh nghiệm sống, đạo đức thực tiễn của người dân” [tr. 676].
Trong công trình “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (1965) tác giả Vũ
Ngọc Phan đã định nghĩa như sau: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn
vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một lý luận, một cơng lý, có khi là
một sự phê phán” [36, tr. 39].

11



Theo các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn
trong “Văn học dân gian Việt Nam” (1998), do Nxb Giáo dục phát hành thì:
“Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao
động sáng tạo nên và lưu truyền qua nhiều thế kỷ” [26, tr. 244].
Theo M. Gorki, nghệ thuật ngơn ngữ sinh ra do q trình lao động của
con người từ thời xưa, là xu hướng con người muốn đúc kết kinh nghiệm lao
động vào một hình thức ngơn ngữ dễ nhớ và bám chặt vào kí ức - những hình
thức thơ hai chữ, tục ngữ, truyền ngơn là những khẩu hiệu lao động thời cổ.
Cho nên, có thể khẳng định rằng tục ngữ có từ thời cổ. Đó là những lời ăn
tiếng nói của nhân dân nhằm đúc kết những kinh nghiệm, những điều quan sát
được, những chân lý thơng thường trong q trình lao động của nhân dân về
các hiện tượng tự nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ gia đình, về con
người và đời sống xã hội được lưu truyền qua nhiều thế kỉ. Nhân dân lao động
dùng tục ngữ để thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của mình. Tục ngữ
được sáng tạo ra trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của mỗi cộng đồng. Những
kinh nghiệm ấy được rút ra trong quá trình đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh
xã hội, được trải nghiệm nhiều lần trong thực tiễn, đã trở thành những chân lý
có tính chất phổ biến, được tồn thể nhân dân lao động công nhận và sử dụng.
Tục ngữ vừa tổng kết những kinh nghiệm sống, vừa thể hiện lý tưởng sống
của nhân dân, biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã
hội và con người. Tóm lại, có thể nói các câu tục ngữ là một quyển sách khôn,
một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh, giúp cho
dân gian ta có được một tri thức thơng thường để làm ăn và cư xử ở đời. Trí
khơn đó rất phong phú và đa dạng, được nhân dân vận dụng trong đời sống
sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội như lời ăn tiếng nói và khuyên răn,
bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống, tư tưởng đạo đức, qua đó

12



thể hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của
cuộc sống.
Nội dung tục ngữ là những nhận định, quan niệm, những nhận xét phán
đoán, những kinh nghiệm, kết luận của nhân dân về lao động, về tự nhiên, lịch
sử, xã hội và con người. Những kinh nghiệm ấy thông qua tập thể, được đúc
kết bằng những câu nói xi tai hoặc vần vè và được phổ biến trong dân gian.
Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất. Tục ngữ
về lao động sản xuất phản ánh một số nét chính điều kiện và phương thức lao
động của nhân dân, phản ánh đặc điểm đời sống dân tộc. Những kinh nghiệm
được nảy sinh trong quá trình đấu tranh, cải tạo và chinh phục thiên nhiên
được đúc kết trong tục ngữ được phổ biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học
kỹ thuật dân gian.
Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân
trong lao động, song chủ yếu là kinh nghiệm thực tiễn, nhiều kinh nghiệm chỉ
phản ánh những biểu hiện cụ thể của những quy luật ở địa phương, ở từng
thời điểm nhất định: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười
chưa cười đã tối” [15, tr. 10].
Hay: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì
râm” [38, tr. 237].
Tục ngữ Việt Nam chủ yếu phản ánh những tập tục sinh hoạt của gia
đình và xã hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân trong thời phong
kiến về mọi mặt như ăn, mặc, ở, cưới xin, ma chay, hội hè, sinh hoạt tôn
giáo… Không những thế, nó cịn thể hiện triết lý dân gian của dân tộc, phản
ánh những kinh nghiệm sống và lối sống của nhân dân, phản ánh truyền thống
tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao động, trong đó bao hàm những tư tưởng
chính trị, xã hội và triết học.

13



Tục ngữ thể hiện chủ nghĩa nhân đạo chân chính của nhân dân lao
động, trước hết là tư tưởng đề cao con người và giá trị cao quý của con người,
xem con người là tinh hoa của trời đất: “Người ta là hoa đất” [38, tr. 99].
Biểu hiện thái độ đánh giá về lao động, cách xét đoán con người qua
lao động: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” [38, tr. 59] phản ánh khá
phong phú những đức tính tốt đẹp của nhân dân lao động, thể hiện truyền
thống tư tưởng, đạo đức của nhân dân thông qua những nhận xét, suy ngẫm
hết sức sâu sắc về hiện thực. Tục ngữ là tấm gương phản ánh qua lời ăn tiếng
nói hàng ngày, mọi biểu hiện của đời sống dân tộc, quan niệm của nhân dân
về lao động, về các hiện tượng lịch sử, xã hội, về đạo đức, tôn giáo… đều
được phản ánh một cách chân thực.
Có thể khẳng định rằng, tục ngữ Việt Nam thể hiện tư duy triết học
phong phú của cha ông ta thông qua việc phân tích, nhận định và khái quát
các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội. Về cơ bản, tục ngữ Việt Nam có
những tính chất sau:
Thứ nhất, tục ngữ bao giờ cũng là kết quả của một quá trình nhận thức,
trải nghiệm của dân gian, đúc kết từ hiện thực để chỉ ra một tri thức đúng, nên
nó ln hàm chứa giá trị thông tin mà con người truyền đạt cho nhau trong
hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, tục ngữ tồn tại dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc
tích, có vần điệu bằng lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian nhằm diễn đạt
một tình cảm, quan niệm, thái độ trước hiện thực.
Thứ ba, nội dung của tục ngữ ln mang tính khách quan, nói cách
khác nội dung mỗi câu tục ngữ do đối tượng nó phản ánh quy định.
Thứ tư, tư tưởng của tục ngữ thường phản ánh hiện thực một cách khái
quát, nên nó hàm chứa nhiều tầng ngữ nghĩa, cho phép con người áp dụng vào
cuộc sống một cách linh hoạt, sinh động, đầy tính thuyết phục.


14


Từ các tính chất trên, ta có thể nói rằng tục ngữ là sự thống nhất giữa tri
thức đúng đắn và nghệ thuật ngôn từ nhằm phản ánh hiện thực. Có thể nói
rằng trong tục ngữ Việt Nam, tất cả các vấn đề phổ quát của triết học được thể
hiện một cách sâu sắc bằng một năng lực tư duy triết học rất phong phú và
sinh động. Ở tục ngữ, ta bắt gặp sự chắt lọc trí tuệ dân gian trước vũ trụ nhân
sinh và về bản thân con người đã đạt được sự thâm diệu về nhận thức. Đặc
trưng của tục ngữ Việt Nam là một hàm lượng tư tưởng khoa học lớn được
dồn nén trong trong một lượng ngôn ngữ rất bé làm nổ tung một chuỗi thông
tin liên tục để phản ánh về một vấn đề của hiện thực.
1.1.3. Đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt Nam
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng đời sống tinh thần của
xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng khơng
thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là
khơng thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
Với lịch sử lâu đời và bản lĩnh của mình, dân tộc ta đã hình thành và phát
triển trong một quá trình đấu tranh gian khổ và vinh quang. Từ bốn nghìn năm
trước, các bộ lạc người Việt và các bộ lạc khác ở trên đất nước ta vốn cùng
chung nguồn gốc Nam Á, đã cùng nhau phấn đấu xây dựng và bảo vệ quê
hương. Gắn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước ấy, văn học dân gian mà
đặc biệt là ca dao, tục ngữ đã được hình thành và phản ánh mọi mặt đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Mác và Ăngghen đã nhiều lần nhận xét,
các sáng tác dân gian gắn liền chặt chẽ với lịch sử và sinh hoạt của nhân dân.
Nhờ đó mà chúng ta có thể tìm thấy trong ca dao, tục ngữ những tiếng vang
của quá khứ, những dấu vết do bao thế hệ để lại.
Theo quan điểm của triết học Mác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã
hội, vì ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã hội. Ca dao, tục ngữ Việt Nam là
tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế xã hội và các quan hệ xã hội của người


15


dân lao động Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, khi khẳng định
vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch
sử không xem ý thức xã hội như yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác
dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Cũng tương tự như
thế, ca dao tục ngữ Việt Nam có vai trị quan trọng trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của nhân dân ta từ xưa đến nay. Bằng sự truyền đạt những giá trị
tinh thần của mình, ca dao, tục ngữ đã giúp cho bao thế hệ người Việt Nam củng
cố lòng tự hào dân tộc, tiếp nối hồi bão, nối gót các thế hệ cha ông để khai thác
và làm giàu thêm di sản truyền thống của dân tộc.
Ca dao tục ngữ Việt Nam gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của
người dân lao động Việt Nam, là bức tranh toàn diện về cuộc sống lao động
và đời sống tinh thần của người bình dân. Tìm trong ca dao, tục ngữ chúng ta
thấy được môi trường sinh hoạt của ca dao, tục ngữ suy đến cùng là do những
điều kiện lịch sử - xã hội của đời sống nhân dân, do những hình thức sinh hoạt
vật chất và tinh thần của đời sống nhân dân quy định. Khi tìm hiểu bức tranh
sinh hoạt vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, ta thấy trong bất kì hình
thái xã hội nào, sản xuất để dựng nước và chiến đấu để giữ nước là hai bánh
xe của lịch sử, đó là hai nhân tố không tách rời nhau của sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Và ở bất kì nơi nào, trong thời đại lịch sử nào quần chúng
nhân dân cũng là người làm ra lịch sử. Chính cuộc sống sản xuất, chiến đấu
gắn chặt với quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta đã vẽ nên bức
tranh sinh hoạt vật chất, tinh thần sinh động của con người Việt Nam qua bao
thế hệ. Văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng đều xuất phát
trực tiếp từ lao động rồi lại trực tiếp phục vụ cho sản xuất và lao động của
nhân dân. Nói cách khác, ca dao tục ngữ nảy sinh và tồn tại như một bộ phận

hợp thành của sinh hoạt nhân dân.

16


Bởi vậy, có thể khái quát một số đặc trưng của ca dao, tục ngữ Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, phải khẳng định rằng, ca dao tục ngữ chính là những sáng
tác của nhân dân, một loại hình nghệ thuật mang tính tập thể. Đặc trưng này
cho thấy ca dao, tục ngữ là sáng tác của nhân dân lao động, những người trực
tiếp sáng tạo nên của cải vật chất lẫn tinh thần cho xã hội. Nhân dân lao động
đồng thời với việc sáng tạo nên giá trị vật chất là sáng tạo nên các giá trị tinh
thần, các giá trị tinh thần đó được biểu hiện trước hết ở văn học dân gian mà
cụ thể hơn là trong ca dao, tục ngữ.
Ở đặc trưng này cịn nói lên tính sáng tác tập thể của ca dao, tục ngữ.
Ta đều biết ca dao, tục ngữ từ xưa đến nay đều được lưu truyền qua các thế
hệ, các thời đại, nó là tác phẩm chung của các cộng đồng dân cư. Ở đó thể
hiện sự chắt lọc, gìn giữ bằng sự cảm thụ tinh tường của “con mắt thế gian”.
Thứ hai, ca dao tục ngữ chính là một loại hình nghệ thuật mang tính
tổng hợp.
Đặc trưng này cho ta hiểu rằng ca dao, tục ngữ có nghệ thuật riêng,
nhưng chúng thể hiện được tính thống nhất chung đó là ca dao, tục ngữ phản
ánh được thế giới quan, nhân sinh quan, tình cảm, tâm trạng, quan niệm của
con người trước hiện thực.
Nghệ thuật mang tính tổng hợp của ca dao, tục ngữ thể hiện ở chỗ nó
kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố của ngôn từ và các yếu tố khác của nghệ
thuật để tạo nên hiệu quả cảm thụ cao trong đời sống tinh thần của con người.
Vì lẽ đó, ta thấy sức lan tỏa của ca dao, tục ngữ có thể đi đến mọi ngóc ngách
của tâm hồn cá nhân và đến mọi tầng lớp trong xã hội.
Thứ ba, ta nhận thấy rằng, ca dao, tục ngữ là một loại hình nghệ thuật

mang tính truyền miệng.

17


Đặc trưng này của ca dao, tục ngữ cho thấy phương thức tồn tại của nó
là nói, hát, kể. Trong buổi đầu của lịch sử khi con người chưa có chữ viết,
chưa có sự phân cơng lao động để có người sáng tác và truyền bá thì rõ ràng
các tác phẩm nghệ thuật của văn học dân gian như ca dao, tục ngữ bao giờ
cũng lấy các cá nhân trong cộng đồng làm tác giả, và do đó, cộng đồng cũng
làm chức năng truyền bá bằng con đường truyền miệng. Nhưng không phải
bất kỳ sáng tác nào cũng được truyền miệng, mà chỉ có những tác phẩm thực
sự có giá trị mới được lưu truyền. Ở đây cho thấy sự truyền miệng của cha
ông ta cũng là sự sàng lọc và gọt dũa theo các cảm quan độc đáo của cả một
cộng đồng. Chính vì thế, bằng con đường này ca dao, tục ngữ đã đến với con
người một cách tự nhiên, dễ dàng, nó giải tỏa mọi tâm tư, tình cảm của con
người trong cuộc sống đời thường.
Từ các đặc trưng trên của ca dao, tục ngữ, trên phương diện triết học ta
thấy ca dao, tục ngữ là một hình thức đặc thù của sự phản ánh hiện thực. Điều
này có nghĩa là trên bình diện triết học, xét từ các đặc trưng đến tính chỉnh thể
của ca dao, tục ngữ đều thấy rằng nó là một bộ phận cơ bản, một nét chủ yếu
trong diện mạo tinh thần của đất nước ta. Và do vậy, xét đến cùng, ca dao tục
ngữ bao giờ cũng phản ánh hiện thực bằng “con mắt chung” của những người
lao động qua các thời đại, đó chính là nét đặc thù của hình thái tinh thần này.
Nhờ vậy mà ca dao, tục ngữ Việt Nam đã đóng góp một phần to lớn vào kho
tàng văn học dân gian Việt Nam, để văn học dân gian Việt Nam được coi như
“một kho bách khoa từ điển Việt Nam, kho tài liệu vô tận cho mọi ngành
khoa học xã hội Việt Nam”.
Có thể nói, ca dao, tục ngữ ra đời trên cơ sở của một lực lượng sản xuất
phát triển nhất định và một quan hệ sản xuất tương ứng với lực lượng sản xuất

ấy. Mặt khác, ca dao, tục ngữ nảy sinh và phát triển trên cơ sở những cảm xúc
thẩm mỹ của con người ở các thời đại lịch sử khác nhau. Bởi vì trong bản

18


chất, ca dao, tục ngữ là một hình thức nghệ thuật của ngôn từ. Nghĩa là khi
mà những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người cho phép họ vượt ra
khỏi khuôn khổ của sự kiếm sống thuần túy, tức là khi cảm xúc thẩm mỹ
không bị lệ thuộc vào những nhu cầu thực tiễn thơ thiển, thì ca dao, tục ngữ
được nảy sinh trước hết là từ những hoạt động thực tiễn, mà đặc biệt là thực
tiễn sản xuất vật chất. Chính trong q trình ấy mà cảm quan thẩm mỹ của
con người được hình thành và phát triển để tạo nên các câu ca dao, tục ngữ đa
dạng và phong phú.
Như vậy, ca dao tục ngữ dù được gọi bằng ngơn ngữ nào đi chăng nữa
thì nó vẫn là một hình thái ý thức xã hội, một hình thức của nghệ thuật ngơn
từ tồn tại bằng phương thức truyền miệng, xét đến cùng nó từ tồn tại xã hội
mà ra, phản ánh tồn tại xã hội. Nên có thể nói rằng, sự hình thành và vị trí của
ca dao, tục ngữ xét trên mọi phương diện đã rõ ràng, vấn đề là tùy góc độ
nghiên cứu và tiếp cận nó, đồng thời, vị trí của ca dao, tục ngữ cịn được thể
hiện ở tính nhiều chức năng của nó đã làm cho giá trị thực tiễn của nó sáng tỏ.
Ở ca dao tục ngữ ta thấy rõ chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ, chức
năng nhận thức và chức năng sinh hoạt thống nhất với nhau, nhờ vậy, nó là
một bộ phận cơ bản của văn hóa dân gian.
1.2. Những điều kiện hình thành ca dao, tục ngữ Việt Nam
Như đã nói ở trên, ca dao tục ngữ là một hình thức sáng tác của người
xưa, nó là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi xã hội đã đạt đến giai đoạn canh
tác nông nghiệp, khi yêu cầu của thực tiễn đấu tranh sản xuất địi hỏi con
người phải giải thích tự nhiên để tác động vào tự nhiên; đồng thời cũng là lúc
giai cấp xuất hiện và cuộc đấu tranh giai cấp đã bắt đầu địi hỏi con người

thấy bức thiết phải giải thích xã hội, tìm hiểu xã hội và tỏ thái độ trong cuộc
đấu tranh xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Đứng về mặt lịch sử của tư duy
mà nói thì ca dao, tục ngữ ra đời cũng cịn là kết quả của trình độ khái quát

19


hóa và trừu tượng hóa tư duy của con người đã phát triển đến một trình độ
nhất định.
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về tình hình kinh tế xã hội ở Việt
Nam trong lịch sử, song cho đến nay, những nghiên cứu ấy vẫn chưa đi đến
thống nhất ở cách phân kì xã hội trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, khi cùng
bàn đến một kiểu phương thức sản xuất tiêu biểu nhất từng tồn tại nhiều nhất
trong nhiều giai đoạn lịch sử ở Việt Nam thì đó là phương thức sản xuất
phong kiến hay gọi là phương thức sản xuất châu Á - phương thức sản xuất
chủ đạo nhất trong nhiều giai đoạn lịch sử ở Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, phương thức sản xuất phong kiến cũng chưa
bao giờ phát triển đến trình độ điển hình. Bởi vì trên thực tế, ở các triều đại
trong lịch sử, bản thân phương thức sản xuất phong kiến luôn đứng trước hai
khuynh hướng. Một là, khuynh hướng cũng dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất
tối cao của nhà nước để củng cố chế độ phong kiến tập quyền; hai là, khuynh
hướng dựa trên tư hữu ruộng đất dẫn đến chế độ phong kiến phân quyền cát
cứ. Tuy nhiên, nếu coi phương thức sản xuất chủ đạo trong lịch sử Việt Nam
dù là phương thức sản xuất phong kiến (tập quyền là chủ yếu và cả phân
quyền) hay là phương thức sản xuất châu Á nói chung, thì tất cả đều là một
kiểu phương thức sản xuất đan xen, trong đó cả phương thức sản xuất nơ lệ,
thậm chí cả kiểu phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa. Chính sự đan
xen ấy đã tạo nên một kiểu phương thức sản xuất phong kiến kiểu châu Á đặc
trưng trong lịch sử Việt Nam.

Như vậy, suy đến cùng chế độ sở hữu ruộng đất chính là yếu tố quyết
định phương thức sản xuất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà ngự trị ở
đây là chế độ sở hữu ruộng đất công. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố sở hữu
ruộng đất mang tính quyết định ấy, việc có nhiều hình thức sử dụng nguồn lao

20


động cũng là yếu tố quyết định những hình thức khác nhau của phương thức
sản xuất kiểu châu Á đặc trưng ở Việt Nam. Hơn nữa, cũng với nền tảng kinh
tế ấy là việc tổ chức hệ thống bộ máy chính quyền cơ sở đó được kiến tạo
ngày càng thể hiện sự phù hợp với điều kiện kinh tế đó. Đặc biệt, kể từ cuộc
cải cách đầu tiên trong lịch sử, từ chỗ việc quản lý trực tiếp xã hội thơng qua
vai trị tầng lớp gia trưởng và tộc trưởng ở cơng xã nơng thơn, đến chỗ thiết
lập chính quyền cơ sở đã bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ
phong kiến trung ương tập quyền mà các triều đại sau này không ngừng củng cố.
Trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến ở nước ta (từ thời Lê Sơ trở
về trước), chế độ phong kiến Việt Nam sơ kỳ vừa mang hình thức phân quyền
cát cứ, vừa mang tính chất nơ lệ. Gọi như vậy là vì, phần lớn ruộng đất bị tập
trung trong những điền trang dưới quyền chiếm hữu của giai cấp phong kiến
bóc lột nơng nơ và gia nơ. Nhìn chung, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà
vua chiếm phần rất lớn, đại bộ phận địa chủ mà ruộng đất phải nộp vẫn thuộc
về nhà vua và chiếm gần hết tổng số thu của nhà vua. Tuy vậy, do ruộng đất
nhà vua ban cấp cũng chiếm phần khá lớn nên một bộ phận địa tơ khơng nhỏ
đó chui vào tầng lớp quý tộc, vương hầu. Ngoài ra, do ruộng đất tư chỉ chiếm
vai trị rất khiêm tốn nên địa tơ rơi vào tay địa chủ tư hữu chiếm phần nhỏ.
Đây là cơ sở kinh tế củng cố chế độ xã hội phong kiến trung ương tập quyền
Việt Nam.
Từ thời kỳ Lê sơ trở về sau (từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX), ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua ngày càng bị thu hẹp, ruộng đất do nhà

vua ban cấp cũng bị giảm sút theo. Ngược lại, ruộng tư ngày càng phát triển
và đến giữa thế kỷ XIX, diện tích ruộng tư đã vượt diện tích ruộng cơng, sự
phân phối địa tơ phong kiến cũng có sự thay đổi tương ứng. Lúc này, đại bộ
phận địa tô chuyển vào tay giai cấp địa chủ tư hữu, nhà vua nhận được phần ít
hơn trước. Phần địa tơ của bọn quan lại, vương hầu cũng bị giảm so với tổng thể.

21


×