Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.19 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 03 - NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng ( khóa VIII) đã chỉ rõ: Bên cạnh việc phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải: “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hết sức coi trọng, bảo tồn, kế thừa
và phát huy những giá trị văn học truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm
cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [13, tr.24 -28]. Tinh thần của nghị quyết
tiếp tục được bổ sung và khẳng định trong kết luận của hội nghị lần thứ 10, số
03 - KL/TW ngày 20/7/2004 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX:
“Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng
với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của Việt Nam đương đại, cần
đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của dân
tộc” [13, tr.150]. Như vậy, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải tiến hành đồng thời
nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, cần xuất phát từ truyền thống văn
hóa của dân tộc, một trong những nhân tố tạo nên truyền thống đó là kho tàng
văn học dân gian nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng đã được ông cha ta dày
công xây dựng và lưu giữ. Mặt khác cần kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa của
dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm tạo nên những giá trị bền vững
về văn hóa cho nền văn minh của đất nước.
Trong tình hình hiện nay, văn học dân gian là nguồn tư liệu ít được khai
thác về mặt triết học vì nó được không ít người xem là loại văn phong không
uyên bác, có nhiều hạn chế, lạc hậu. Song, thật ra, trong thứ văn chương bình
dân ấy đã ẩn chứa những khái niệm trừu tượng mà ở đó, chúng ta có thể thấy
được năng lực tư duy, phán đoán, phân tích và nhận thức của con người về vũ
1
trụ và con người. Chính vì thế, văn học dân gian là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học khác nhau. Nói như tác giả cuốn “Triết lý trong văn
hóa Phương Đông”, tại sao “ngày nay văn hóa dân gian đã trở thành một bộ
môn khoa học thì hà cớ gì chúng ta - những người làm triết học - lại cứ khư


khư đóng cửa, không mở sang lĩnh vực triết lý dân gian”, từ việc nghiên cứu
triết lý dân gian “rất có thể chúng ta lại tìm ra, phát hiện ra mạch ngầm sâu
thẳm của dân tộc” [15, tr.404 - 405].
Mặt khác, Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam Về chính sách khoa học và kỹ thuật cũng đã chỉ rõ:
“Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc và sự thắng lợi của tư
tưởng triết học Mác - Lênin ở Việt Nam” [1, tr.23] là một công việc hết sức
cần thiết và có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay mà còn có ý nghĩa lâu dài.
Vì những lẽ đó, chúng tôi đã chọn đề tài: “Triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đề tài mà chúng tôi nghiên cứu tiếp cận là vấn đề có tính chất đặc thù ở
một địa phương nên chưa được nghiên cứu nhiều, phần lớn các công trình
nghiên cứu tập trung dưới góc độ văn hóa dân gian là chính.
Một số công trình có nội dung chứa đựng nhiều ca dao, tục ngữ có liên quan
đến đề tài. Trước hết, là công trình sưu tập, nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan
(1995), “Tục ngữ, ca dao Việt Nam”, Cao Huy Đỉnh (1974), “Tìm hiểu tiến trình
văn hóa dân gian Việt Nam”, Đinh Gia Khánh (2000), “Văn học dân gian Việt
Nam”. Ba cuốn sách nói trên, các tác giả đã làm rõ khái niệm, nguồn gốc, sự
hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật của ca dao, tục
ngữ Việt Nam nói chung. Ngoài ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ giữa ca
dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác.
2
Công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong
phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần đầu
vào năm 1928, tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6500 câu tục ngữ của
các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là một trong những
công trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn.
Đáng chú ý là công trình nghiên cứu của: Triều Nguyên (2005)“Ca dao
Thừa Thiên - Huế”, Nhà xuất bản Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa

Thiên - Huế, Huế. Tác giả đã trình bày những nội dung phản ánh của ca dao
Thừa Thiên - Huế về các vấn đề như: Ca dao về tình yêu quê hương đất nước,
ca dao về tình cảm đôi lứa, ca dao về quan hệ hôn nhân - gia đình, ca dao đối
đáp, trêu ghẹo và ca dao cổ động các phong trào cách mạng trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ.
Triều Nguyên (2000), “Tục ngữ Thừa Thiên - Huế”, Nhà xuất bản Sở
văn hóa thông tin, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ nội dung phản ánh của tục ngữ
Thừa Thiên - Huế như: Tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa con người với gia đình và xã hội
Lê Văn Chưởng (2010), “Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế”,
Nhà xuất bản trẻ. Tác giả đã trình bày những nội dung của ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế. Đối với tục ngữ; đó là những câu tục ngữ nói thiên nhiên,
về lao động sản xuất, về gia đình - xã hội và về đạo đức. Đối với ca dao; ca
dao nói đến quê hương non nước trữ tình, nói đến tình yêu đôi lứa qua hai giai
đoạn chào hỏi - làm quen và tỏ tình - kết duyên và ca dao nói về vấn đề hôn
nhân - gia đình.
Luận văn đã nghiên cứu liên quan đến đề tài này là: Lương Thị Lan Huệ
(2004), “Một số vấn đề triết học qua ca dao, tục ngữ Việt Nam”. Tác giả đã
trình bày một số tư tưởng triết học trong ca dao, tục ngữ người Việt như: Tư
tưởng triết học biểu hiện qua mối quan hệ giữa con người với thế giới tự
nhiên và mối quan hệ giữa con người đối với xã hội. Tác giả cũng đã rút ra
3
một số nhận xét về ca dao, tục ngữ Việt Nam, nêu ý nghĩa triết học của ca
dao, tục ngữ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Những công trình nghiên cứu trên đã đi sâu và làm sáng tỏ những vấn đề
về ca dao, tục ngữ của Việt Nam nói chung cũng như của Thừa Thiên - Huế
nói riêng. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các nguồn tài liệu liên quan đến đề
tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu một khía cạnh cụ thể trong ca dao, tục ngữ đó
là triết lý nhân sinh ở địa bàn là tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nội dung đề tài thể
hiện sự đan xen giữa tư tưởng triết học và văn học, vì vậy đối với chúng tôi

đây là đề tài khá mới và hấp dẫn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Luận văn bước đầu làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân
sinh quan, thế giới quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, vận
dụng nó ở góc độ kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn làm rõ:
- Sự hình thành của ca dao, tục ngữ
- Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ của Thừa Thiên - Huế
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế qua các công trình đã được xuất bản.
Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung trong nội dung những câu ca dao, tục
ngữ của Thừa Thiên Huế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm và phương pháp luận của
4
triết học Mác - Lênin. Đó là sự kết hợp những nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật lịch sử biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với nguyên tắc thống nhất
giữa lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê,
so sánh và đối chiếu, khách quan và biện chứng trong việc nghiên cứu tư
tưởng triết học.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu tương đối mới về triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ ở Thừa Thiên - Huế, trên cơ sơ đó góp phần làm rõ những vấn đề
và giá trị nhân sinh được thể hiên trong ca dao, tục ngữ tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có hai chương, 5 tiết.

5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CA DAO TỤC NGỮ
1.1. Sự hình thành của ca dao, tục ngữ
Ca dao, tục ngữ là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành văn
học dân gian, là những viên ngọc quý, có giá trị về mặt trí tuệ, tình cảm và
nghệ thuật biểu hiện. Do đặc điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, có vần, dễ
nhớ nên ca dao, tục ngữ luôn luôn được nhân dân vận dụng, truyền miệng qua
nhiều thế hệ. Chính vì vậy ca dao, tục ngữ luôn được trau chuốt mà vẫn giữ
được cái hồn, cái hình mặc dù có những thay đổi nhất định nào đó về ngôn từ
khi đến “cư trú” ở các địa phương khác nhau. Ca dao, tục ngữ vừa là một hiện
tượng ngôn ngữ, vừa là một hiện tượng thuộc về ý thức xã hội, luôn giữ vai
trò trong việc hình thành và phát triển tiếng nói của dân tộc, phản ánh sinh
hoạt, biểu hiện những nhận xét, những ý nghĩ của nhân dân trong cuộc đấu
tranh với các hiện tượng thiên nhiên bất lợi hoặc trong đấu tranh xã hội và
xây dựng đất nước.
1.1.1. Khái niệm, nội dung và hình thức nghệ thuật của ca dao, tục ngữ
1.1.1.1. Ca dao
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì ca dao vốn là một thuật ngữ
Hán Việt, là lời của các bài hát dân ca đã được tách những tiếng đệm, tiếng láy
hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể chuyển thành các làn điệu dân ca.
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, trang 303, Hà Nội, 1995, thì
“ca dao thường là những câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản
ánh đời sống, phong tục, đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc biệt là tình
yêu nam nữ”.
Trong quá trình sáng tác của thơ ca dân gian, khái niệm ca dao được dùng

để chỉ bộ phận cốt lõi, tiêu biểu, đó là bộ phận những câu hát đã trở nên phổ
6
biến và được truyền tụng rộng rãi trong nhân dân. Ca dao đã trở thành một
thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian, do đó tất cả những sáng tác thơ ca
nào mang phong cách của những câu hát cổ truyền, người ta gọi là ca dao.
Về cơ bản thì ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian.
Những tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người
trong lao động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội, hoặc nói lên những kinh
nghiệm sống và hành động thì bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan chứ
không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề.
Cho nên trong ca dao, cái tôi trữ tình nổi lên một cách rõ nét. Cũng như tục
ngữ và các thể loại văn học dân gian khác, ca dao là tấm gương phản chiếu
trung thực về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của nhân dân. Đó là tinh thần
lạc quan trong khó khăn, là tinh thần tương ái giữa những con người lương
thiện, đó còn là nhận thức sắc bén về bạn, về thù, về chính nghĩa. Tóm lại,
qua ca dao có thể thấy rõ hiện thực, tức là “cái vốn có”.
Nội dung của ca dao khá phong phú, đa dạng. Ca dao phản ánh lịch sử,
miêu tả khá chi tiết phong tục tập quán trong sinh hoạt vật chất và tinh thần
của người dân lao động, bộc lộ tâm hồn dân tộc trong đời sống riêng tư, đời
sống gia đình và đời sống xã hội, qua đó thấy được đức tính cần cù, chịu
đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, những phẩm chất tốt đẹp của người dân
trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, trong đấu tranh xã hội để vươn lên
giành lấy hạnh phúc.
Có những câu ca dao, do nội dung lịch sử của nó, thường gọi là ca dao
lịch sử, phản ánh những sự kiện của lịch sử dân tộc, liên quan đến đời sống
của nhân dân, qua đó nhân dân nói lên thái độ, quan điểm của mình. Những
câu ca dao sau đây nói lên sự phấn khởi, hăng hái, lòng yêu nước của nhân
dân trong khi bà Triệu khởi binh chống quân Ngô xâm lược:
7
Ru con, con ngủ cho lành

Cho mẹ gánh nước, rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng, cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân
Hay nói lên lòng hăng hái đua nhau giết giặc của binh sĩ ta ở trận
Bạch Đằng:
Đánh giặc thì đánh giữa sông
Chớ đánh trong cạn, phải chông mà chìm
Những bài ca dao mang nội dung đấu tranh chống áp bức của chế độ
phong kiến, chống quân xâm lược, đã vạch trần những cái xấu, những tội ác
mà chế độ phong kiến đế quốc gây ra cho nhân dân ta, thể hiện lòng căm thù
sâu sắc của nhân dân, cùng những ý nghĩ, những lời nói oán hờn, căm giận, ấp
ủ lâu ngày đã biến thành hành động, những cuộc khởi nghĩa của nông dân đã
diễn ra.
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quyét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quyét chùa
Cùng với những bài ca dao mang nội dung trên là những bài ca dao đấu
tranh chống lại các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực, cụ thể là đả kích,
chế giễu thói mê tín dị đoan, chống lại những hủ tục hôn nhân cùng những
thói hư tật xấu như: cờ bạc, rượu chè, nhác làm siêng ăn, tham lam, ích kỷ. Ở
đây ca dao đã thể hiện tính chiến đấu rất cao:
8
- Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
- Của bụt mất một đền mười
Bụt vẫn còn cười bụt chửa lấy cho
Ca dao là tiếng hát trữ tình của con người. Đó là tiếng gọi của tình yêu,

là tiếng than thở của người phụ nữ đau khổ nhưng giàu tinh thần hi sinh và
đấu tranh dũng cảm trong quan hệ gia đình, của người lính và vợ của người
lính trong cuộc sống lao động và đấu tranh. Tình yêu của người lao động
được biểu hiện trong ca dao về nhiều mặt, đó là tình yêu giữa đôi bên trai gái,
yêu gia đình, yêu xóm làng, yêu đồng ruộng, yêu đất nước, yêu thiên nhiên.
Nói về tình yêu nam nữ ca dao có câu:
Tình anh như nước dâng trào
Tình em như dải lụa đào tẩm hương
Về tình yêu thiên nhiên:
Rủ nhau đi tắm hồ sen
Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình
Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh
Thôn quê vẫn cứ hữu tình xưa nay
Và về tình yêu quê hương đất nước, mong muốn xây đắp cho cảnh vật
của tổ quốc được thêm hùng tráng:
Ta về ta dựng mây lên
Trời xe mây lại một bên hòn Lèn
Phong phú nhất, đặc sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu nam nữ. Trai
gái gặp gỡ tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong khi lao động, hội hè,
đình đám, vui xuân:
9
- Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang
- Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc, ta đừng quên nhau
- Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một
Đôi ta như thể con ong
Con quấn con quýt, con trong con ngoài
Nội dung của những câu ca dao trên phản ánh được mọi biểu hiện sắc

thái, cung bậc của tình yêu, thể hiện quan niệm tự do trong yêu đương, tự do
hôn nhân. Những tình cảm thắm thiết trong hoàn cảnh may mắn hạnh phúc
với những niềm mơ ước, những nỗi nhớ nhung da diết hoặc cảm xúc nảy sinh
từ những rủi ro ngang trái, thất bại, khổ đau với những lời than thở oán trách,
nói lên tinh thần đấu tranh để bảo vệ tình yêu chân chính của những người
nông dân áo vải Việt Nam.
Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ đã kết hợp chặt chẽ chủ đề tình yêu
với chủ đề lao động, những nét sinh hoạt, những cảnh vật quen thuộc trong
đời sống hằng ngày của nhân dân. Sự kết hợp giữa các chủ đề đó làm cho ca
dao không chỉ phản ánh quan hệ nam nữ trong khuôn khổ tình cảm cá nhân,
mà còn có nội dung xã hội phong phú và tính tư tưởng cao.
Trong xã hội cũ, tình yêu của nhân dân lao động được thể hiện bằng
những tình cảm tự nhiên, lành mạnh. Giai cấp thống trị và lễ giáo phong kiến
muốn bóp chết những tình cảm hồn nhiên và lành mạnh đó. Vì vậy, trong ca
dao bên cạnh tiếng hát ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng
kêu đau khổ, xót xa về những trắc trở trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ do
nhiều nguyên nhân, có phần chủ quan do trai gái không hợp tính nết nhau
hoặc còn có sự ngập ngừng, e ngại, nhưng phần lớn là do những nguyên nhân
khách quan do xã hội phong kiến gây ra:
10
Trách ai tham phú tham bần
Tham xa mà bỏ nghĩa gần thuở xưa
Một bộ phận quan trọng của ca dao là nhận định về con người và về việc
đời như là sự tổng kết các kinh nghiệm, triết lý, quan niệm đạo đức, là cách
ứng xử của nhân dân. Ca dao thể hiện rất cô đọng cho nên có nhiều bài rất
ngắn, thậm chí chỉ một cặp lục bát mà vẫn nói lên sâu sắc về mặt cách sống
và hành động:
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàn
Với tính cách là thơ theo ý nghĩa đầy đủ của thơ, ca dao đã vận dụng mọi

khả năng về ngôn ngữ của dân tộc để biểu hiện một cách chính xác, tinh tế
cuộc sống và hơn nữa để biểu hiện một cách sinh động và đầy hình tượng
nguyện vọng của nhân dân về cuộc sống ấy. Ở ca dao, tư tưởng và tình cảm
một mặt được cô đúc dưới hình thức ngôn ngữ vững chắc và mặt khác lại còn
được diễn đạt trong sự vận động rất phong phú và đa dạng của ngôn ngữ văn
học. Cho nên, thông qua việc sáng tác ca dao, nhân dân đã đưa ngôn ngữ văn
học đến trình độ nghệ thuật cao. Cảnh vật thiên nhiên, trạng thái xã hội, thể
chất và tâm tình con người thể hiện qua ca dao với những hình tượng văn học,
từ lâu đã trở thành truyền thống và nhiều khi có tính chất mẫu mực về mặt
nghệ thuật.
Nói đến ca dao tức là nói đến thơ, về mặt hình thức, trước hết phải nói
đến nhịp điệu vì đó là một đặc điểm có tính chất thể loại, một động lực chủ
yếu của thơ. Như vậy nhịp điệu giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó luôn có
tác dụng tạo cảm xúc, làm tăng thêm sức biểu đạt của thơ. Ca dao ngắt nhịp
hai là phổ biến, nhưng nhiều trường hợp ca dao ngắt nhiều nhịp rất sáng tạo
như để làm bật lên cái quyết tâm vượt lên mọi khó khăn của những con người
muốn được xích lại gần nhau, được chung sống cùng nhau:
11
- Yêu nhau/ tam tứ núi/ cũng trèo/
Thất bát sông/ cũng lội/ tam thập lục đèo/ cũng qua/
- Phá Tam Giang/ anh cũng lội/ núi Mẫu Sơn/ anh cũng trèo/
Ca dao thường là những bài ngắn, âm điệu lưu loát. Đặc điểm của ca dao
về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không dò ép, lại giản dị
và tươi tắn, nghe có vẻ như lời nói nhưng lại rất nhẹ nhàng, gọn gàng chải
chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Dưới hình thức truyền khẩu, trải
qua nhiều thế hệ, nội dung có chỉnh sửa, nhưng nó vẫn giữ được chủ đề tư
tưởng và tính chất mộc mạc, không cầu kỳ. Ngoài hình thức nghệ thuật cụ thể
hóa mà ca dao sử dụng, còn có hình thức nhân cách hóa. Từ những vật vô tri,
vô giác đến chim muông, đều được ca dao gán cho những tâm tình, ý nghĩa
như con người:

Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
1.1.1.2. Tục ngữ
Cũng theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4, trang 676, Hà Nội, 2005,
thì tục ngữ là “một bộ phận của văn học dân gian, gồm những câu ngắn gọn, có
vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, đạo đức thực tiễn của người dân”.
Tục ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân, đúc kết kinh nghiệm của nhân
dân về các hiện tượng tự nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ gia đình, về
con người và đời sống xã hội, được lưu truyền qua nhiều thế. Bằng những câu
nói ngắn, gọn, súc tích, tục ngữ diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm đời
sống, kinh nghiệm xã hội - lịch sử của nhân dân lao động. Những kinh
nghiệm ấy được rút ra trong quá trình đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã
hội, được thể hiện nhiều lần trong thực tiễn, đã trở thành những chân lý có
tính chất phổ biến, được toàn thể nhân dân lao động công nhận và sử dụng.
Tục ngữ cung cấp cho ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn ngữ bác học một
12
hình thức biểu hiện giàu hình ảnh và do đó có tác dụng truyền cảm và thuyết
phục mạnh mẽ, để nói lên những tư tưởng thăng trầm, những khái quát rộng
rãi. Những câu tục ngữ ngắn gọn ấy sẽ thay thế một cách có kết quả những lời
thuyết lý dài dòng và dễ quên. Tục ngữ là tri thức thông thường của nhân dân
lao động về tự nhiên và xã hội, biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận
thức thế giới, xã hội và con người, nên thường được ví von là “trí khôn dân
gian”. Trí khôn đó rất phong phú và đa dạng, được nhân dân vận dụng trong
đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội như lời ăn tiếng nói và
khuyên răn, bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống, tư tưởng đạo
đức, qua đó thể hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những
vấn đề của cuộc sống: “Tục ngữ diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm lịch sử xã hội của nhân dân lao động” [ 11, tr.229].
Về nội dung thì tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con
người về cuộc sống trong gia đình, cuộc sống trong xã hội, phản ánh quá trình

lao động sản xuất, nói về các kinh nghiệm và kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi,
đánh bắt, làm ruộng. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc và khá sâu
sắc vì nó được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.
Chẳng hạn, trong lao động sản xuất có những câu tục ngữ nêu lên nhận
thức của nhân dân về những đặc tính của những loại lúa khác nhau như:
Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau
Những kinh nghiệm làm mạ:
Cơm quanh rá, mạ quanh bờ
Kinh nghiệm cày bừa:
- Nhai kĩ no lâu, cầy sâu lúa tốt
- Nhất cày ải, nhì rãi phân
Kinh nghiệm cấy lúa:
Chiêm to tẻ, mùa nhỏ con
13
Kinh nghiệm chăm bón:
Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân
Một số câu tục ngữ nói về kinh nghiệm đi lưới:
Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông
Kinh nghiệm chọn giống gia súc như chọn trâu:
Tóc tang, khoang nạng, vành trừng, có ba lời ấy xin đừng có mua
Kinh nghiệm chọn bò:
Bò đẻ tháng năm, nỏ bằm thì hui
Kinh nghiệm chọn lợn:
Chấm trán lọ đuôi không ai nuôi cũng nậy
Kinh nghiệm chọn chó:
Mắt bánh rán, trán bánh chưng, lưng tôm càng
Kinh nghiệm chọn gà:
Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua
Gà trắng chân đen mua chi giống ấy
Hay khi nói về thời tiết khí hậu có những câu tục ngữ:

- Sương sa hoa nở
- Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa
- Vẩy mại thì mưa, bối bừa thì nắng
- Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa
- Cầu vồng mống cụt, không lụt thì bão
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm
Phần quan trọng của tục ngữ là nói về lịch sử - xã hội, những quan niệm
nhân sinh, tư tưởng chính trị và xã hội. Thí dụ một số câu tục ngữ ghi lại một
vài ký ức về thời kỳ lịch sử xa xưa của dân tộc ta:
14
- Ăn lông ở lỗ
- Con dại cái mang
- Năm cha ba mẹ
- Chồng chung vợ chạ
Một số hiện tượng và nhân vật lịch sử cá biệt, một số biến đổi về kinh tế,
chính trị ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, cũng được ghi lại trong một số câu
tục ngữ:
- Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi
- Thời vua Thái Tổ, Thái Tông, con dắt, con bồng, con bế, con mang
- Một nhà hai chủ không hòa, hai vua một nước ắt là không yên
Tục ngữ phản ánh những tập tục sinh hoạt hằng ngày về mọi mặt như ăn,
ở, mặc, giao tế, cưới xin, ma chay, hội hè, sinh hoạt tôn giáo:
- Tương cà gia bản
- Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam
- Áo rách thay vai, quần rách đổi ống
- Miếng trầu là đầu câu chuyện
- Cưới vợ không cheo như néo không mấu
- Cha đưa mẹ đón
- Sợ ông thần phải nể cây đa
- Lệnh làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào, làng ấy thờ

Tục ngữ ghi lại những đặc điểm trong tổ chức và tập tục của thôn xã:
- Phép vua thua lệ làng
- Đất có lề, quê có thói
- Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp
Một số câu khác phản ánh tổ chức gia đình và những quan điểm thân tộc
của nhân dân trong xã hội phong kiến:
15
- Thế gian một vợ một chồng, chẳng như vua bếp hai ông một bà
- Chết trẻ con hơn lấy già
- Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì
Tục ngữ còn miêu tả đời sống của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân
khác nhau, chủ yếu là của nông dân lao động, và tình hình đấu tranh giai cấp,
đấu tranh chống áp bức bóc lột của nhân dân trong xã hội phong kiến:
- Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm
- Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết
- Con đóng khố, bố cởi trần
- Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
- Cá lớn nuốt cá bé
- Tức nước vỡ bờ
- Con giun xéo lắm cũng quằn
Nhiều câu tục ngữ thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa chân chính của
nhân dân lao động, trước hết là tư tưởng quý trọng con người:
- Người ta là hoa của đất
- Người sống, đống vàng
- Người như hoa ở đâu thơm đó
Thể hiện khá đầy đủ những đức tính tốt đẹp của nhân dân lao động như
cần cù, kiên trì, tinh thần lạc quan, tình thương yêu giai cấp, ý thức cao về cái
đẹp của tâm hồn, về danh dự, và những đức tính khác như lòng thủy chung,
nết thật thà:
- Còn nước còn tát

- Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo
- Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
- Tốt danh hơn lành áo
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
- Cái nết đánh chết cái đẹp
16
Nhiều câu tục ngữ phản ánh những nhận thức có tính chất duy vật của
nhân dân về sự tồn tại khách quan của thế giới:
Còn da lông mọc, còn chồi lên cây
Về những mặt đối lập trong các sự vật và hiện tượng tự nhiên và xã hội:
- Được mùa cau, đau mùa lúa
- Được lòng ta xót xa lòng người
Về mối quan hệ nhân quả giữa các sự vật, hiện tượng:
Rau nào, sâu ấy
Về quy luật phát triển biện chứng của thế giới khách quan:
Cái sẩy nẩy cái vung
Từ những nội dung phản ánh trên của tục ngữ, chúng ta có thể thấy rằng
tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn. Sự hình thành của tục ngữ có
thể quy vào ba nguồn chính: Một bộ phận được hình thành trong đời sống của
nhân dân. Một bộ phận khác rút ra, tách ra từ những sáng tác của các thể loại
văn học dân gian (ca dao, truyện cổ tích, câu đố). Và một bộ phận những câu
tục ngữ hình thành từ các tác phẩm văn học, các sáng tác của các nhà văn, nhà
thơ, những lời phát biểu, phán đoán của các nhà triết gia.
Trong ba nguồn hình thành nói trên, nguồn chủ yếu là từ thực tiễn đời
sống của nhân dân, vì vậy tục ngữ là “tấm gương phản ánh đời sống xã hội và
tự nhiên”.
Tục ngữ nói chung được đúc kết lại thành lời nói dễ nhớ, mang tính chất
bền vững. Tính chất bền vững của tục ngữ biểu hiện ra cả về mặt nội dung
cũng như về mặt hình thức. Đa số tục ngữ đều có 1 vế, chứa 1 phán đoán,
nhưng cũng có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán. Mỗi câu tục ngữ đều

dùng hình ảnh, sự việc, hiện tượng cụ thể để nói lên ý niệm trừu tượng, dùng
cái cá biệt để nói lên cái phổ biến, vì vậy ở mỗi câu tục ngữ thường có hai
nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Cái cụ thể, cá biệt tạo nên nghĩa đen, còn cái
17
trừu tượng, phổ biến tạo nên nghĩa bóng. Hình ảnh trong tục ngữ là những
hình ảnh từ cuộc sống phong phú nhiều màu, nhiều vẻ được nhân cách hóa rất
linh hoạt và sinh động:
Đũa mốc chòi mâm son
Hầu hết các câu tục ngữ đều có vần, nhiều nhất là vần lưng nên nhịp
điệu nhanh, mạnh, vững chắc:
- Được làm vua, thua làm giặc
- Gái một con trông mòn con mắt
- Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm
Những câu không vần thường giữ được tính chất nhịp nhàng theo cách
cấu tạo cân đối giữa các vế:
- Già néo đứt dây
- Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Cũng có những câu không vần, không đối nhưng vẫn giàu chất nhạc,
chất hàm súc của thơ:
- Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết
- Nằm trong chăn mới biết chăn có rận
Hai thể loại tục ngữ và ca dao có mối quan hệ với nhau, có những trường
hợp xâm nhập lẫn nhau. Trong ca dao cũng có xen tục ngữ và cũng có những
câu ca dao chỉ có hình thức là ca dao còn nội dung lại là tục ngữ, khi những
câu tục ngữ có thêm yếu tố cảm xúc thì lúc đó tục ngữ sẽ tiếp cận với ca dao,
thí dụ những câu như:
- Ai ơi chẳng chóng thì chày
Có công mài sắt có ngày nên kim
- Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn ít nói, ít hay trả lời

- Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
18
Thường được nhân dân sử dụng như những câu tục ngữ, đồng thời do
nội dung cô đọng, hàm súc, nhiều câu ca dao chủ yếu là những câu ca dao
nhận định về con người và việc đời lại được dùng như tục ngữ:
- Hơn nhau tấm áo, manh quần
Đến khi cởi trần ai cũng như ai
- Đem cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn theo sau
Tuy nhiên, nếu nội dung tục ngữ là một phán đoán, thiên về lý trí, đúc
kết kinh nghiệm về cuộc sống thì nội dung ca dao lại là tâm tình là suy nghĩ
của con người trước mọi điều diễn ra xung quanh cuộc sống; trước mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người, thì ca dao
thiên về tình cảm. Ca dao là một thể loại đã thể hiện được hết cái hay, cái đẹp
của ngôn ngữ văn học dân gian. Nếu tục ngữ thường dừng lại ở nhận thức
hiện thực khách quan, nhận thức “cái vốn có” thì ca dao tiến thêm một bước
rất quan trọng là bộc lộ nguyện vọng của nhân dân đối với việc cải tạo hiện
thực, đề xuất ra “cái nên có”, giúp nhận thức cuộc sống và xây dựng lý tưởng
về cuộc sống, do đó tục ngữ mang tính khách quan nhiều hơn, còn ca dao
mang tính chủ quan.
Như vậy, cả ca dao và tục ngữ đều có giá trị nhất định về mặt trí tuệ, tình
cảm và nghệ thuật biểu hiện, và do có đặc điểm về nội dung và hình thức nhất
định cho nên chúng luôn giữ được cái hồn, cái hình, được lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Thông qua việc sáng tác ca dao và tục ngữ, nhân dân đã góp
phần đưa ngôn ngữ văn học đến trình độ nghệ thuật cao, vận dụng mọi khả
năng về ngôn ngữ của dân tộc để biểu hiện một cách chính xác, tinh tế cuộc
sống và hơn nữa để biểu hiện một cách sinh động và đầy hình tượng nguyện
vọng của nhân dân về cuộc sống ấy. Đối với các nhà văn, nhà thơ, ca dao, tục
ngữ vừa là nguồn tài liệu quý báu, vừa là nguồn sống gián tiếp. Vì vậy, việc
19

nắm vững kho tàng ca dao, tục ngữ sẽ giúp họ giàu thêm vốn sống cũng như
ngôn ngữ của dân tộc, và do đó các sáng tác của họ sẽ tăng thêm sức sống,
đậm đà màu sắc dân tộc và gần gũi với tâm hồn của quần chúng.
1.2. Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội của Thừa Thiên - Huế
Điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành
tính cách và lối sống của con người xứ Huế, đến quá trình hình thành và phát
triển của văn học dân gian Thừa Thiên - Huế. Trong quá trình sinh sống, đấu
tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội, người dân xứ Huế đã đúc kết những
kinh nghiêm quý báu, dần dần trở thành những triết lý sống được lưu truyền
qua nhiều thế hệ, giúp họ vươn lên, sống hòa mình với tự nhiên, với cộng
đồng xã hội.
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý: Tỉnh Thừa Thiên - Huế nằm ở tọa độ địa lý 16
0
- 16,80
0

bắc và 107,8
0
- 108,20
0
kinh đông, phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía nam giáp
Đà Nẵng với ranh giới là đèo Hải Vân, phía tây giáp Lào, phía đông giáp biển
Đông. Có diện tích là 5054km
2
, nằm trên trục đường giao thông quan trọng
xuyên suốt Bắc - Nam trên quốc lộ 1, tuyến đường sắt xuyên Việt và trục hành
lang Đông - Tây nối Thái Lan - Lào - Việt theo đường 9. Bờ biển của tỉnh dài
120km, có cảng Thuận An và Chân Mây với độ sâu 18 - 20m, đường không có

sân bay Phú Bài nằm trên trục quốc lộ. Hệ thống sông ngòi chằng chịt gồm các
sông như sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu, sông Truồi.
* Địa hình: Tỉnh Thừa Thiên - Huế nằm trên dải đất hẹp với chiều dài 127
km, chiều rộng trung bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình rừng núi, gò đồi,
đồng bằng duyên hải, đầm phá và biển, địa hình thấp dần từ Tây sang Đông,
phức tạp và bị chia cắt mạnh, phần phía Tây của tỉnh chủ yếu là núi đồi, chiếm
70% diện tích đất tự nhiên, các đỉnh núi có độ cao từ 800 đến hơn 1.000m,
20
trong đó có núi Bạch Mã và Hải Vân là những địa danh du lịch nổi tiếng, địa
hình phần đồi chủ yếu phân bố ở vùng trung du, trong các thung lũng, chiếm
khoảng 1/4 diện tích tự nhiên, độ cao phần lớn dưới 500m, có đặc điểm chủ
yếu là đỉnh rộng, sườn thoải, các lưu vực sông tạo nên các bồn địa trũng, đồng
bằng ven biển nhỏ hẹp và vùng đầm phá có diện tích 22.000 ha, vùng đồng
bằng và trung du có 129.620 ha, chiếm 25,6% đất tự nhiên.
* Khí hậu: Tỉnh Thừa Thiên - Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa,
mang tính chất chuyển tiếp từ á xích đới lên nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh
hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta.
Thời tiết chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa trùng với mùa bão, bắt đầu từ
tháng 8 đến tháng 11 có lượng mưa trung bình từ 2.500 - 2.700mm. Mùa khô
kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7, mưa ít, lượng nước bốc hơi lớn, thường có
mưa giông. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 24
0
C, số giờ nắng trung bình là
2.000 giờ/năm, độ ẩm trung bình 84%, số lượng bão khá nhiều, thường bắt
đầu vào tháng 6, nhiều nhất vào tháng 9 đến tháng 11.
* Môi trường thiên nhiên: Tỉnh Thừa Thiên - Huế là một vùng có môi
trường thiên nhiên phong phú, đa dạng, bên cạnh có nhiều núi cao như núi
Truồi, Bạch Mã, Lăng Cô và nhiều núi đồi khác như Ngự Bình, Ngọc Trản,
Thiên Thai, Long Thọ, Thiên Mụ, Thúy Vân, Linh Thái, còn có nhiều đèo
như đèo Phước Tượng, Phú Gia và tiêu biểu nhất là đèo Hải Vân. Thừa Thiên

Huế cũng là một vùng quê có môi trường nước khá phong phú trong đó những
con sông lớn như Ô Lâu, sông Bồ, Hương Giang, Phú Bài, Nong, Truồi và
một hệ thống phụ lưu ngang dọc chia cắt dải đồng bằng hẹp chạy dọc theo bờ
biển. Cùng với hệ thống sông ngòi, nơi đây có nhiều đầm phá như Tam
Giang, An Truyền, Hà Trung, Cầu Hai như là những túi đựng nước trước khi
đổ ra các cửa biển Thuận An, Tư Hiền, Lăng Cô. Đặc biệt là sông Hương
không những dài mà nước trong quanh năm rất thơ mộng, trữ tình, soi bóng
núi Ngự Bình, tạo thành biểu tượng “Sông Hương - Núi Ngự” của Thừa
21
Thiên - Huế.
Bốn yếu tố núi, sông, đồng bằng, biển nơi đây đã sản sinh nhiều truyện dân
gian kỳ bí, nhiều thơ ca dân gian trữ tình, trong đó nổi bật là ca dao, tục ngữ.
1.2.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội
Xứ sở Thừa Thiên - Huế trong thời kỳ đầu gắn liền với Quảng Trị, có xưng
danh là châu Thuận, châu Hóa. Hai châu này chưa phân định rõ ràng và có quan
hệ với nhau về nhiều mặt nên thường được gọi chung là châu Thuận Hóa. Vùng
đất này là một phần lãnh thổ của vương quốc Chăm nên về mặt lịch sử Thuận
Hóa có mối tiền thân của vùng đất này. Thừa Thiên - Huế có tên gọi đầu tiên là
Hóa Châu trong châu Thuận Hóa, rồi Thừa Thiên dưới thời Minh Mạng (1822),
đến năm 1989 cũng còn gọi là Huế. Văn học dân gian Thừa Thiên - Huế, trong
đó có ca dao, tục ngữ chủ yếu được sinh ra từ xứ sở này.
Từ năm 1306, vùng đất này thuộc lảnh thổ của nước Chăm, vốn có tên là
Châu Ô, châu Lý, thuộc địa bàn của nước Việt Thường cổ đại khoảng trên
một thiên niên kỷ trước công nguyên (TCN). Năm 111 bị nhà Hán chiếm, đổi
làm quận Nhật Nam, rồi cư dân vùng này đánh đuổi quan Hán lập ra nước
Lâm Ấp. Năm 1306, vua của nước này là Chế Mân đã dâng cho vua Trần Anh
Tông làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, đến năm 1307 châu Ô được đổi
làm châu Hóa, châu Lý làm châu Thuận gọi chung là châu Thuận Hóa.
Trong khoảng thời gian kể từ khi châu Ô, châu Lý thuộc Đại Việt cho
đến năm Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558), lịch sử vùng dất này có

nhiều nét đặc thù. Sau khi vua Chế Mân mất, người Chăm thường xuyên quấy
rối Thuận Hóa, chủ yếu là Hóa Châu. Đến năm 1983 trở đi thì Thuận Hóa
mới dần dần ổn định. Dưới thời Hậu Trần (1413) Hóa Châu bị nhà Minh
chiếm, nhân dân vùng này kiên quyêt chống giặc Minh. Thời kỳ đầu nhà Lê,
Chiêm Thành thường xuyên quấy phá Hóa Châu, đến khi Lê Thánh Tông đem
quân đánh ChiêmThành, Thuận Hóa mới ổn định. Trong địa bàn của Thuận
Hóa có 3 huyện của Hóa Châu (Thừa Thiên - Huế) là Đan Điền (Quảng
22
Điền), Kim Trà (Hương Trà) và Tư Vinh (Phú Vang).
Thời hậu Lê kéo dài hơn 250 năm (1527 - 1788) nhưng các vua Lê
không nắm quyền hành, mà mọi việc tập trung trong tay chúa Nguyễn và chúa
Trịnh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và trấn Quảng
Nam, gọi chung là Thuận Quảng. Ông dựng dinh ở Ái Tử (Quảng Trị). Đến
thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), dinh dời về làng Phước
Yên (huyện Quảng Điền), chúa Nguyễn Phúc Lan lên nối ngôi (năm 1635),
dinh dời đến xã Kim Long (huyện Hương Trà), chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 -
1687), chúa Nguyễn Phúc Thái (1687 - 1691), dinh dời về Phú Xuân, chúa
Nguyễn Phúc Khoát (1739 - 1765), đổi dinh làm đô thành và sang thời chúa
Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), họ Trịnh chiếm Thuận Hóa. Năm 1786,
Tây Sơn Nguyễn Huệ đánh đuổi họ Trịnh, chiếm lại Thuận Hóa, đến năm
1787, Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang ở núi Bân (Hóa Châu), rồi hành quân ra
Bắc đánh đuổi quân Thanh, sau đó trở về Phú Xuân. Năm 1801, Nguyễn Phúc
Ánh đánh đuổi quân Tây Sơn, chiếm giữ Phú Xuân. Từ năm Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ, trải qua các đời chúa có công mở cõi về Phương Nam, đánh đuổi
thù trong giặc ngoài xây dựng phát triển Hóa Châu và Thuận Hóa nói chung.
Từ năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Phú Xuân,
trong giai đoạn này có sự biến đổi về địa giới, và có nhiều biến cố lịch sử
trọng đại xảy ra. Từ Hóa Châu của xứ sở Thuận Hóa đã trở thành một tỉnh
biệt lập, từ một vùng đất hoang sơ núi rừng hiểm trở đã hình thành một quê
hương non nước trữ tình, đồng thời từ một xứ sở Thừa Thiên gắn với vận

mệnh của đất nước và một trung tâm chính trị, văn hóa tiêu biểu ở xứ Đông
Dương đã biến thành thủ phủ miền Trung dưới thời Pháp thuộc, cho đến năm
1945 khi cách mạng thành công, với sự kiện vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng
của triều Nguyễn thoái vị, kinh đô Huế trở thành cố đô.
Từ 1945 đến 1954, nhân dân Thừa Thiên - Huế cùng với cả nước tiến
23
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với chiến thắng Điện Biên Phủ,
hiệp định Giơnevơ (1954) được ký kết, cả nước, trong đó có Thừa Thiên - Huế,
thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, Thừa Thiên - Huế nằm ở vĩ tuyến 17.
Giai đoạn từ 1954 đến 1975, Thừa Thiên - Huế là cái nôi của phong trào
học sinh, sinh viên, trong đó có cả tăng ni Phật tử đấu tranh chống đế quốc
Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm. Trước biến cố năm 1968, Thừa Thiên - Huế
chìm trong khói lửa, kinh thành bị tàn phá, nhân dân sống trong cảnh loạn lạc.
Giai đoạn từ 1975 đến nay nhân dân Thừa Thiên - Huế sống trong cảnh
hòa bình, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển quê hương.
Trong giai đoạn này, địa giới Thừa Thiên - Huế có sự thay đổi. Năm 1976 Thừa
Thiên - Huế sáp nhập vào Quảng Trị, Quảng Bình lập thành tỉnh có tên gọi
Bình Trị Thiên, đến năm 1989 lại tách ra như cũ.
Thừa Thiên - Huế là một địa phương đa tộc người, ngoài người Kinh
chiếm đa số, đồng thời là chủ thể văn hóa của địa phương, còn có những tộc
người thiểu số, họ cư trú thành từng địa bàn hoặc xen lẫn với người Việt.
Giai đoạn đầu của Thuận Hóa (1306 - 1558), bên cạnh đa số cư dân Bắc
Trung Bộ đến định cư, nơi đây còn một ít người Chăm cư trú. Họ cộng cư với
nhau trên đất Hóa Châu ở 3 huyện Đan Điền (Quảng Điền), Kim Trà (Hương
Trà), Tư Vinh (Phú Vang) phân bố trong 180 xã. Đến giai đoạn sau (1558-
1801), lưu dân địa phương này ngày mỗi gia tăng, Hóa Châu có thêm
222 xã, 32 thôn, 84 phường, 1 giáp. Dưới triều Nguyễn, dân số ngày một phát
triển, bên cạnh người Việt, người Chăm, còn có người Hoa, ngoài 3 huyện cũ,
Thừa Thiên - Huế có thêm 3 huyện mới là Phong Điền, Hương Thủy, Phú

Lộc. Theo địa bạ triều Nguyễn, giai đoạn sau này Thừa Thiên - Huế có 6
huyện, 31 tổng, 475 làng. Sau năm 1975, Thừa Thiên - Huế có một thành phố
và 8 huyện, ngoài 6 huyện cũ còn có hai huyện miền núi là Nam Đông và A
Lưới. Tại 2 huyện này, ngoài người Kinh còn có những tộc người thiếu số
24
như Bru-Vân Kiều, Tà-Ôi, Cờ-Tu thuộc ngữ hệ Môn-khmer.
Như vậy, trong quá trình hình thành và phát triển, Thừa Thiên - Huế có
bước thăng trầm của lịch sử. Thừa Thiên - Huế là nơi đặt thủ phủ của đất
Đằng Trong, đến thời Gia Long (1802), là kinh đô của Việt Nam kéo dài cho
đến năm 1945 thì trở thành cố đô. Sau 1975, tên gọi Thừa Thiên - Huế ra đời.
Cư dân và các tổ chức cộng đồng tăng trưởng như góp phần vào sự phong phú
của văn học dân gian Thừa Thiên - Huế. Từ thời Nguyễn xây dựng kinh đô
trở đi, văn hóa Huế phát triển song song với hiện tượng đa dạng và phong phú
của văn học dân gian Thừa Thiên - Huế, từng bước đi lên vững chắc, trở
thành một địa phương có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu,
trở thành biểu tượng hàm chứa trong văn hóa và văn học dân gian, trong đó
nổi bật là ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế.
1.2.2. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế - tấm gương phản chiếu đời
sống kinh tế - xã hội của Thừa Thiên - Huế
Ca dao, tục ngữ là một bộ phận hợp thành của hình thái ý thức xã hội
văn học nghệ thuật. Theo quan điểm của triết học Mác, ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội, vì ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã hội. Ca dao, tục
ngữ Thừa Thiên - Huế là tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế - xã hội và
các quan hệ xã hội của quần chúng nhân dân lao động Thừa Thiên - Huế trong
những giai đoạn lịch sử khác nhau. Có thể thấy các nội dung phản ánh chủ
yếu của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế về các điểm chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. Về quê hương đất nước
Quê hương đất nước là một đề tài phổ biến trong ca dao, tục ngữ Thừa
Thiên - Huế. Nói đến quê hương đất nước, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
không chỉ miêu tả, giới thiệu, mà còn gắn vào đó một tình cảm thiêng liêng,

sâu nặng. Cũng như mảng ca dao này ở các vùng quê khác, tên chợ, tên núi,
tên sông đặc biệt có sức gợi cảm. Phong phú, sâu lắng, trữ tình, hồn nhiên
25

×