Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬCỦA TÒA ÁN VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚICÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.79 KB, 23 trang )

Đề tài:

MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Hà Nội, tháng 4/2012
NỘI DUNG
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. Tìm hiểu chung về thẩm quyền của tịa án quốc gia đối với các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài.
I. Khái quát về tố tụng dân sự quốc tế
1.Khái niệm
2. Nguyên tắc khi tham gia tố tụng dân sự quốc tế
2.1 Ngun tắc tơn trọng và bình đẳng chủ quyền quốc gia
2.2. Nguyên tắc có đi có lại
2.3. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tố tụng


2.4. Nguyên tắc luật tòa án
II. Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế và các quy tắc xác định thẩm quyền
chung
1.Khái niệm
2. Căn cứ xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quốc gia theo PL các nước
2.1. Dấu hiệu quốc tịch
2.2. Dấu hiệu nơi cư trú
2.3. Dấu hiệu nơi hiện diện của bị đơn hay nơi có tài sản của bị đơn
2.4. Dấu hiệu về mối liên hệ của vụ việc đối với lãnh thổ của quốc gia có tịa án
2.5 Dấu hiệu về khả năng thực tế trao cho bị đơn lệnh gọi ra tòa án (writ)
2.6 Dấu hiệu theo sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng


2.7 Dấu hiệu theo nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại.
B. Cơ chế tác động của việc xác định thẩm quyền đối với việc xác định luật áp
dụng.
C. Xác định thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi của
Tịa án Việt Nam.
I. Theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia
II. Theo pháp luật Việt Nam
1.Thẩm quyền chung quy định tại Điều 410 luật Tố tụng dân sự 2004.
2. Thẩm quyền riêng qui định tại Khoản 2, Điều 411 Luật Tố tụng dân sự 2004.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế thì
các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi xảy ra ngày càng tăng, kéo theo đó là các
tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi cũng nhiều hơn. Khi một tranh chấp dân sự
có yếu tố nước ngồi được khởi kiện tại Tòa án của một quốc gia, vấn đề đầu tiên
là Tòa án phải xác định xem mình có thẩm quyền thụ lý giải quyết hay khơng? Và
sẽ áp dụng cơ chế pháp luật nào? Ở Việt Nam, thẩm quyền xét xử các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngồi của Tịa án trước hết được xác định theo các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên; trong trường hợp khơng có điều ước quốc tế
điều chỉnh thì xác định theo các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 có những quy định về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A.Tìm hiểu chung về thẩm quyền của tòa án quốc gia đối với các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài.
Trong quan hệ dân sự quốc tế, tranh chấp xảy ra là điều khơng tránh khỏi. Với

xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ hợp
tác quốc tế về các lĩnh vực đầu tư, thương mại, kinh tế, dân sự, lao động… các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi có xu hướng ngày càng tăng.
Khi một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi phát sinh thì tịa án của hai hay
nhiều nước khác nhau có liên quan đến vụ việc đều có thể có thẩm quyền giải
quyết. Điều này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia.
Do đó nếu tranh chấp liên quan đến công dân, pháp nhân mang quốc tịch nước
mình , hoặc cư trú tại nước mình, hay liên quan đến tài sản có trên lãnh thổ quốc
gia mình … thì tịa án quốc gia đó có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ: Tranh chấp
phát sinh từ một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa hai doanh nghiệp của
VN và Pháp, nguyên đơn có thể khởi kiện tại tịa án của VN hoặc Pháp. Vì tịa án
của cả VN (trong trường hợp này, tịa án VN có thẩm quyền theo mục g, khoản 2,
Điều 410, BL TTDS 2004) và Pháp (tịa án Pháp có thẩm quyền theo Điều 14 và
Điều 15, Bộ luật dân sự Pháp) đều có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên.
4


Do tịa án của các nước có liên quan đều có thể có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp dân sự có yếu tố nước ngồi nên việc ngun đơn lựa chọn tịa án có ý nghĩa
quan trong trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi lẽ quy tắc
giải quyết xung đột ở các nước khác nhau dẫn đến việc lựa chọn hệ thống PL để áp
dụng là khác nhau.
Pháp luật của tất cả các quốc gia đều quy định cụ thể các căn cứ xác định thẩm
quyền của tịa án nước mình đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi. Ngồi
các quy định về thẩm quyền chung, PL các nước còn quy định về các vụ việc dân
sự cụ thể thuộc thẩm quyền riêng biệt của tịa án nước mình. Bên cạnh PL quốc
gia, một số điều ước quốc tế cũng được kí kết nhằm quy định các căn cứ xác định
thẩm quyền tòa án của các nước thành viên đối với các vụ việc dân sự.
Việc xác định tòa án quốc gia có thẩm quyền giải quyết một vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngồi và việc xác định được luật áp dụng đóng một vai trị hết sức

quan trọng, là điều kiện tiên quyết để thực hiện những hành vi tố tụng tiếp theo.
Việc xác định đúng thẩm quyền của tịa án trong trường hợp này khơng chỉ có ý
nghĩa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong việc đảm bảo
thi hành án và kết quả giải quyết tranh chấp mà còn bảo vệ chủ quyền quốc gia,
thúc đẩy sự phát triển bền vững các quan hệ quốc tế. Sau khi đã xác định được vụ
việc đó thuộc thẩm quyền của tịa án nước mình thì tịa án nhận đơn kiện mới xem
xét tiếp vụ việc đó có thuộc thẩm quyền của mình hay không (thẩm quyền theo vụ
việc, theo cấp, theo lãnh thổ..).
I. Khái quát về tố tụng dân sự quốc tế:
1.Khái niệm:
Tố tụng dân sự quốc tế là những trình tự thủ tục tố tụng được thực hiện trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Điều 405, Chương 34
Bộ luật Tố tụng dân sự VN 2004 quy định chung về thủ tục giải quyết các vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngồi:
“Điều 405. Nguyên tắc áp dụng
1.Tòa án áp dụng các quy định tại Chương XXXIV và Chương XXXV của Bộ luật
này để giải quyết cấc vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Trường hợp trong các
5


chương này khơng có quy định thì được áp dụng các quy định khác có liên quan
của Bộ luật này để giải quyết.
2.Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các
đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các
quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi, phát
sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.”1
Vụ viêc dân sự có yếu tố nước ngồi có thể là các vụ việc phát sinh từ quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động có yếu
tố nước ngồi do tịa án giải quyết.

Những trình tự thủ tục tố tụng trong tố tụng dân sự quốc tế ln diễn ra trong
tịa án của quốc gia và các tòa án quốc tế chỉ giải quyết các quan hệ quốc tế giữa
các quốc gia. Những trình tự thủ tục tố tụng trong tố tụng dân sự quốc tế được quy
định trước hết trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia và trong các điều ước quốc
tế. Hoạt động tố tụng dân sự quốc tế luôn được diễn ra trong những khuôn khổ
pháp lý nhất định để đảm bảo khơng xâm hại đến lợi ích của quốc gia liên quan (là
chủ thể đặc biệt được pháp luật quốc tế bảo vệ, tôn trọng chủ quyền).
2. Nguyên tắc khi tham gia tố tụng dân sự quốc tế :
Khi tham gia qua hệ dân sự có yếu tố nước ngồi cần phải tơn trọng các ngun
tắc sau:
2.1 Ngun tắc tơn trọng và bình đẳng chủ quyền quốc gia:
Chủ quyền quốc gia là tuyệt đối, không thể bị xâm hại hay phân biệt nếu không
hoạt động tố tụng dân sự quốc tế đó sẽ bị xem là hành vi vi phạm pháp luật quốc
tế. Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Tơn trọng và bình
đẳng chủ quyền quốc gia là công việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của quốc gia
trong lĩnh vực đối nội, đối ngoại như: quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp, tự chủ
tự quyết trong đường lối đối ngoại.
1 Bộ luật tố tụng dân sự, số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004, Điều 405, Chương34

6


2.2. Nguyên tắc có đi có lại:
Quy định về cách thức hành xử của quốc gia trên cơ sở tương ứng với cách thức
hành xử của quốc gia khác. Tố tụng dân sự quốc tế bao gồm nhiều hoạt động tố
tụng: ủy thác tư pháp quốc tế, thi hành phán quyết của tịa án nước ngồi v.v. ảnh
hưởng trực tiếp đến tính khả thi, hiệu quả của hoạt động tố tụng, khả năng đạt được
kết quả cuối cùng.
2.3. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tố tụng:
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động tố tụng dân sự, cho dù

quan hệ có yếu tố nước ngồi hay khơng nhằm đảm bảo sự bình đẳng về địa vị
pháp lý, quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Nếu khơng thì ngun tắc tơn trọng
pháp chế của hoạt động tố tụng bị phá vỡ làm cho phán quyết khơng có giá trị pháp
lý và khơng được các quốc gia thừa nhận.
2.4. Nguyên tắc luật tòa án:
Khi tòa án của quốc gia thụ lý giải quyết vụ việc thì hệ thống pháp luật tố tụng
của quốc gia đó sẽ được áp dụng do trình tự thủ tục tố tụng được các cơ quan tư
pháp thực hiện nhằm thực thi quyền tư pháp của quốc gia: là việc cụ thể hóa chủ
quyền quốc gia. Nếu áp dụng thủ tục tố tụng nước ngồi sẽ có thể làm xâm hại ảnh
hưởng đến chủ quyền của quốc gia.
II. Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế và các quy tắc xác định thẩm quyền
chung:
1.Khái niệm:
- Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế (không đương nhiên liên quan đến quyền lực,
cùng với việc được nhà nước trao cho quyền lực thì cũng là trách nhiệm nghĩa vụ
ràng buộc kèm theo khơng có quyền từ chối xét xử) là khả năng của pháp luật các
quốc gia qui định cho tòa án của mình có trách nhiệm và nghĩa vụ xét xử các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế trước hết được qui định trong pháp luật tố
tụng của các quốc gia. Tuy nhiên mỗi quốc gia lại có những quy định riêng và có
thể có những xung đột về thẩm quyền xét xử. “Xung đột thẩm quyền xét xử là hiện
7


tượng có hai hay nhiều cơ quan tư pháp của các quốc gia khác nhau cùng có thẩm
quyền giải quyết đối với một vụ việc dân sự cụ thể.”2
2. Căn cứ xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quốc gia theo PL các nước:
Là các cách thức các quốc gia đưa ra để giải quyết hiện tượng xung đột thẩm
quyền xét xử, và phải thể hiện được mối liên hệ giữa nội dung vụ việc và tòa án
quốc gia thông qua các dấu hiệu sau đây:

2.1. Dấu hiệu quốc tịch:
Cách thức xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi dựa trên dấu hiệu quốc tịch của đương sự đó
là: đương sự mang quốc tịch của quốc gia nào thì tịa án của quốc gia đó có thẩm
quyền giải quyết, xuất phát từ quyền tài phán đương nhiên của quốc gia đối với
công dân của mình. Cũng có thể xác định theo ngun đơn, bị đơn hay quốc tịch
chung (trong quan hệ hôn nhân gia đình) của các bên nên có thể có hai tịa án có
thẩm quyền.
Một số điểm cần lưu ý: Nếu đương sự khơng có quốc tịch thì khơng áp dụng
quy tắc này; Nếu đương sự có nhiều quốc tịch thì tất cả các tịa án có quốc tịch đều
có thẩm quyền xác định theo nơi đương sự khởi kiện.
Việc xác định thẩm quyền theo quy tắc quốc tịch được áp dụng phổ biến trên
thế giới, nhằm xác định thẩm quyền của tịa án trong các vụ việc có yếu tố nước
ngồi. Đây là nguyên tắc riêng đặc thù của tư pháp quốc tế, thường được áp dụng
nhằm xác định thẩm quyền của tòa án trong các vụ việc liên quan đến các dấu hiệu
nhân thân.
2.2. Dấu hiệu nơi cư trú:
Cách thức xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong việc giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài dựa trên dấu hiệu nơi cư trú của đương sự là:
Đương sự cư trú ở đâu thì tịa án ở đó có thẩm quyền giải quyết. Chủ yếu là xác
định theo nơi cư trú của bị đơn. Nguyên tắc này được áp dụng phổ biến trong pháp
luật trong nước nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi quá trình tố
2 Nguyễn Bá Diến,

Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb.ĐHQGHN, Hà Nội, 2005, tr.338.
8


tụng cũng như khả năng thi hành của bản án. Tuy nhiên trong một số trường hợp cá
biệt, có thể áp dụng dấu hiệu nơi cư trú của nguyên đơn khi bảo vệ khẩn cấp quyền

lợi của nguyên đơn. Với điều kiện đó phải là nơi cư trú ổn định, hợp pháp và có
đầy đủ cơ sở để xác minh. Nếu đương sự khơng có nơi cư trú thì khơng thể áp
dụng được. Nếu có nhiều nơi cư trú thì xác định theo nơi nguyên đơn khởi kiện.
Đối với các vụ việc phát sinh từ quan hệ thương mại quốc tế, quy tắc này thường
được áp dụng.
2.3.Dấu hiệu nơi hiện diện của bị đơn hay nơi có tài sản của bị đơn:
Cách thức xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong việc giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi dựa trên dựa trên dấu hiệu nơi tài sản đang tranh
chấp tồn tại (thường là bất động sản). Áp dụng cho các vụ việc liên quan đến tài
sản: tranh chấp về tài sản trong thừa kế, trong hôn nhân, trong ly hôn ... Tại một số
nước như Đức và các nước thuộc hệ thống Common Law, đây là căn cứ cơ bản
được áp dụng để xác định thẩm quyền của tòa án. Căn cứ này cho phép ngun
đơn có quyền u cầu tịa án của bất kì quốc gia nào thụ lý vụ việc, nếu bị đơn có
tài sản ở nước đó.
Cách thức xác định thẩm quyền xét xử của tòa án theo nơi hiện diện của bị đơn
tại thời điểm phát sinh quan hệ tố tụng giúp các cơ quan có thẩm quyền thực hiện
các biện pháp tài phán nhanh chóng kịp thời và ngăn ngừa trường hợp bị đơn trốn
khỏi nơi vi phạm. Dấu hiện nơi hiện diện của bị đơn thường không trùng với dấu
hiệu nơi cư trú. Cách thức xác định thẩm quyền xét xử của tòa án theo nơi bị đơn
có tồn bộ hay phần lớn tài sản đảm bảo cho việc thực hiện quá trình tố tụng và
việc thi hành án. Cần lưu ý rằng, tài sản ở đây không đương nhiên là tài sản đang
bị tranh chấp. Tài sản đó phải đạt được mức độ giá trị nào đó so với nội dung tranh
chấp thì mới đủ cơ sở để xác lập thẩm quyền xét xử thường là bất động sản.
2.4. Dấu hiệu về mối liên hệ của vụ việc đối với lãnh thổ của quốc gia có tòa án:
Cách thức xác định thẩm quyền xét xử của tòa án theo mối liên hệ mật thiết
giữa các bên đương sự với quốc gia có tịa án giải quyết hay giữa nội dung vụ việc
với quốc gia có tịa án giải quyết. Mối liên hệ này rất phong phú đa dạng. Ví dụ,
Mối liên hệ trong quan hệ hợp đồng là nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng,
nơi đặt trụ sở của nguyên đơn, bị đơn… Dấu hiệu này có thể được sử dụng một
9



cách độc lập để xác định thẩm quyền xét xử của tịa án, nhưng cũng có thể sử dụng
như là dấu hiệu bổ sung cho các dấu hiệu khác. Các quốc gia có thể sử dụng kết
hợp các dấu hiệu trong những trường hợp cần thiết.
2.5 Dấu hiệu về khả năng thực tế trao cho bị đơn lệnh gọi ra tòa án (writ):
Căn cứ này được sử dụng rộng rãi ở các nước theo hệ thống Common Law.
Theo đó, lệnh gọi ra tịa án có thể được trao cho bị đơn khi bị đơn có mặt tại lãnh
thổ quốc gia có tịa án thì tịa án quốc gia đó có thẩm quyền cho dù bị đơn chỉ lưu
trú ngắn ngày tại nước đó và tranh chấp khơng liên quan với nước có tịa án.
2.6 Dấu hiệu theo sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng:
Căn cứ này được thừa nhận và sử dụng trong quan hệ thương mại quốc tế. Ví
dụ, ở Anh tịa án tư pháp có thẩm quyền đối với những vụ việc dân sự nếu các bên
đương sự thỏa thuận đưa ra tòa án Anh để giải quyết, dù không hề tồn tại bất kì
một mối liên hệ nào giữa vụ việc với bản thân nước Anh.
2.7 Dấu hiệu theo nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại.
Đây là căn cứ được áp dụng phổ biến cho các vụ kiện về bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng.
Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật các nước đều đưa ra những căn cứ để xác
định thẩm quyền tòa án của quốc gia đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi. Khi đưa ra những căn cứ này, PL các nước đều cố gắng mở rộng khả năng
để tịa án nước mình có thẩm quyền giải quyết nếu các vụ việc đó có một yếu tố
nào đó có quan hệ đến quốc gia mình.
B. Cơ chế tác động của việc xác định thẩm quyền đối với việc xác định luật áp
dụng.
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi trong khn khổ pháp luật cho phép. Những quy định của pháp luật Việt
Nam tương đối phù hợp với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế, góp phần
tạo điều kiện thuận lợi để Tịa án Việt Nam tham gia vào tồn bộ cơ chế điều chỉnh
của pháp luật Việt Nam đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, tránh

xung đột pháp luật.
10


- Tòa án Việt Nam nên giải quyết những vụ việc có liên quan đến hoạt động ở
Việt Nam của chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức
nước ngồi; cịn những trường hợp khác, Tịa án Việt Nam khơng có thẩm quyền.
Chỉ có trong quá trình hoạt động, các quyền và nghĩa vụ liên quan đến chức năng
của cơ quan, tổ chức mới phát sinh và cũng chỉ khi tiến hành các hoạt động tại Việt
Nam hoặc có liên quan đến Việt Nam thì mới có cơ sở và điều kiện để Tịa án Việt
Nam giải quyết các tranh chấp có liên quan.
- Trong điều kiện tồn cầu hóa như hiện nay, bất kỳ quốc gia nào khi xây dựng hệ
thống pháp luật của quốc gia đều phải xem xét đến các chuẩn mực pháp lý chung
của thế giới hoặc các điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia.
Một phần quan trọng các quy phạm pháp luật của tư pháp quốc tế chứa đựng
trong các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương được ký kết giữa các
quốc gia. Nếu có sự khác biệt giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia thì quy
định của điều ước quốc tế ln được ưu tiên áp dụng. Chính vì vậy, việc ban hành
các quy định pháp luật quốc gia tương thích, phù hợp với nội dung của các điều
ước quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia là một yêu cầu quan trọng trong
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là đối với Việt Nam khi
hệ thống pháp luật cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn
hình thành và phát triển. Từ đó, góp phần hạn chế sự khác biệt giữa hệ thống pháp
luật Việt Nam với các cam kết quốc tế của Việt Nam thể hiện trong các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam được hiểu và áp dụng chính
xác, thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án trong việc lựa chọn pháp luật
áp dụng. Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi theo
hướng sau: “Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng

các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị
đơn là cơ quan, tổ chức Việt Nam có trụ sở chính tại Việt Nam, cơng dân Việt
Nam có nơi cư trú tại Việt Nam” thì tịa án VN có thẩm quyền giải quyết.(Điểm đ,
khoản 2, Điều 410, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004).
- Cũng có trường hợp pháp luật tố tụng dân sự của các quốc gia có đưa ra các tiêu
chí khác nhau khi xác định thẩm quyền của tịa án nước mình đối với một vụ việc.
Chẳng hạn, với một tranh chấp về ly hơn có yếu tố nước ngồi mà pháp luật quốc
gia A lấy tiêu chí quốc tịch các bên cịn quốc gia B thì lấy tiêu chí nơi thường trú
chung của vợ chồng để xác định thẩm quyền xét xử. Khi đó, một vụ việc ly hơn có
sự tham gia của cơng dân nước A nhưng cả hai vợ chồng lại thường trú chung ở
nước B hồn tồn có thể được xét xử ở cả quốc gia A và quốc gia B, cũng có nghĩa
là có thể có hai bản án của tịa án hai nước về cùng một vụ ly hôn.

11


Các cơ chế pháp lý trên đây phần nào tác động tới việc xác định thẩm quyền của
tòa án và việc xác định luật áp dụng đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi.
C. Xác định thẩm quyền đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi của
Tịa án Việt Nam.
Thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi của Tòa án Việt
Nam trước hết được xác định theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên; trong trường hợp khơng có điều ước quốc tế điều chỉnh thì xác định theo các
quy định của PL Việt Nam(Chương III BLTTDS). Khoản 3 Điều 2 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 (BLTTDS) quy định “Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối
với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi; trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.” Quy định trên cho thấy, về nguyên
tắc , thẩm quyền của tòa án VN được xác định theo các quy định của BLTTDS

2004, cụ thể là quy định tại Chương XXXV và XXXVI của Bộ luật. Đặc biệt,
Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS đã có những quy định chung về thẩm quyền của
Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
I. Theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia:
Để xác định thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam đối với một vụ tranh chấp
dân sự có yếu tố nước ngồi cụ thể thì trong trường hợp đã có Điều ước quốc tế
giữa VN với các quốc gia khác thì việc xác định thẩm quyền xét xử sẽ áp dụng quy
định của Điều ước quốc tế đó.
Hiện nay các điều ước quốc tế mà VN là thành viên có quy định về thẩm quyền
của tịa án đối với vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài chỉ giới hạn ở các Hiệp định
tương trợ tư pháp giữa VN và các nước. Đó là các Hiệp định tương trợ tư pháp trên
các lĩnh vực dân sự, thương mại, hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án, với
các nước như: Ba Lan 1993, Cu Ba 1984, Bungary 1986, Nga 1998, Trung Quốc
1998, Pháp 1999, Hàn Quốc 2003… Tính đến tháng 9/2010 Việt Nam đã ký 26
hiệp định tương trợ tư pháp 3 .Trong các Hiệp định này, nhìn chung việc phân định
thẩm quyền xét xử của tòa án trong đại đa số các trường hợp được xác định dựa
3

Quốc Hà, Tổng kết 3 năm thực hiện Luật Tương trợ tư pháp, báo điện tử chính phủ VN ,13/01/2011

/>
12


trên mối liên hệ quốc tịch.4 Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc là tòa án của
nước mà một hoặc các bên đương sự mang quốc tịch. Ngoài căn cứ quốc tịch của
đương sự, một số căn cứ khác cũng được sử dụng như: căn cứ nơi thường trú của
đương sự, nơi có tài sản là đối tượng của tranh chấp…
Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà VN kí với các nước đều có quy định
về thẩm quyền xét xử của tịa án các bên kí kết. Qua việc tìm hiểu các Hiệp định

tương trợ tư pháp, ta có thể thấy sự khác nhau trong nguyên tắc xác định thẩm
quyền của tịa án các bên kí kết. Chẳng hạn như Hiệp định giữa VN với Trung
Hoa, Ucraina quy định các quy tắc chung trong việc xác định thẩm quyền xét xử
của tịa án; trong khi đó các Hiệp định tương trợ tư pháp khác giữa VN với Ba Lan,
Liên Bang Nga, Cu Ba thì xác định thẩm quyền của tịa án các bên kí kết đối với
từng vụ việc cụ thể.
Theo Điều 18, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa VN- CHND Trung Hoa thì tịa
án của một trong hai bên kí kết sẽ có thẩm quyền đối với vụ việc dân sự trong các
trường hợp sau õy:
1) Bị đơn có nơi thờng trú hoặc tạm trú trên lÃnh thổ của Bên ký kết đó tại thời
điểm bắt đầu tiến hành trình tự tố tụng;
2) Bị đơn có cơ quan đại diện trên lÃnh thổ của Bên ký kết đó tại thời điểm bắt đầu
trình tự tố tụng;
3) Bị đơn đà chấp nhận một cách rõ ràng bằng văn bản về thẩm quyền của Toà án
của bên ký kết đó;
4) Bị đơn tham gia tranh tụng mà không có ý kiến về thẩm quyền của Toà án;
5) Trong trờng hợp tranh chấp về hợp đồng, mà hợp đồng đà đợc ký kết trên lÃnh
thổ của Bên ký kết đó hoặc đà hay sẽ đợc thực hiện ở đó hoặc đối tợng đợc tranh
chấp hiện có trên lÃnh thổ của Bên ký kết đó;
6) Trong trờng hợp phát sinh trách nhiệm ngoài hợp đồng, hành vi gây thiệt hại
hoặc hậu quả của hành vi này xảy ra trên lÃnh thổ của bên ký kết đó;
7) Trong trờng hợp liên quan đến quy chế nhân thân, đơng sự có nơi thờng trú hoặc
tạm trú trên lÃnh thổ của Bên ký kết đó;
8) Trong trờng hợp liên quan đến nghÜa vơ cÊp dìng, ngêi cã nghÜa vơ cã n¬i thờng
trú hoặc tạm trú trên lÃnh thổ của Bên ký kÕt ®ã;

4 Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb.ĐHQGHN, Hà Nội, 2005, tr.345.

13



9) Trong trờng hợp thừa kế, ngời chết có nơi thờng trú hoặc có phần lớn di sản trên
lÃnh thổ của bên ký kết đó tại thời điểm ngời này chết;
10) Bất động sản là đối tợng của vụ tranh chấp nằm trên lÃnh thổ của Bên ký kết
đó.
So sỏnh các quy đinh trên đây với các Hiệp định tương trợ tư pháp khác mà VN
kí kết, có thể nhận thấy quy tắc quốc tịch đã không được sử dụng mà được thay thế
bằng quy tắc nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của bị đơn. Hiệp định tương trợ tư
pháp giữa VN- Ucraina có quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền của tịa án
các bên kí kết. Điều 20 Hiệp định quy định: “Tòa án của bên kí kết nơi bị đơn là
cá nhân thường trú, hoặc bị đơn là pháp nhân có trụ sở, có thẩm quyền giải quyết
các vụ việc dân sự.” Bên cạnh quy tắc chung đó, Hiệp định có một số điều khoản
quy định về thẩm quyền của tòa án đối với một số vụ việc cụ thể. Cụ thể là: Điều
26 quy định về thẩm quyền của tòa án đối với việc ly hơn; Điều 27 quy định về
thẩm quyền của tịa án đối với quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con.
Trong phần lớn các Hiệp định tương trợ tư pháp cịn lại, thẩm quyền của tịa án
các bên kí kết được xác định theo từng loại vụ việc, cụ thể như sau:
- Đối với các vụ việc về tuyên bố/ hủy bỏ quyết định một người bị hạn chế năng
lực hành vi hoặc mất năng lực hành vi thì thẩm quyền thuộc về tịa án của nước kí
kết mà người đó mang quốc tịch. Trong một số trường hợp nhất định, tịa án của
nước kí kết mà đương sự cư trú cũng có thể có thẩm quyền.
VD: Tại Khoản 1,Điều 18, Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề
dân sự và hình sự giữa VN và Lào quy định: “ViƯc tuyªn bè mét ngêi mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tuân theo pháp luật và phụ
thuộc vào thẩm quyền của Cơ quan t pháp của Nớc ký kết mà cá nhân trên là
công dân.
- Căn cứ quốc tịch của đương sự cũng được ưu tiên áp dụng để xác định thẩm
quyền của tòa án trong việc tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.
VD: Tại Khoản 1, Điều 23, Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề
dân sự và hình sự giữa VN và Liên Bang Nga quy nh: Việc tuyên bố một ngời

mất tích hoặc là ®· chÕt, cịng như viƯc x¸c nhËn sù kiƯn chÕt đợc thực hiện theo
pháp luật và thuộc thẩm quyền của Toà án của Bên ký kết mà theo những tin tức
cuối cùng ngời đó là công dân khi còn sống.
- Đối với vụ việc về vấn đề xin ly hôn, thì thẩm quyền giải quyết thuộc về tịa án
của nước mà hai vợ chồng có quốc tịch chung hoặc nơi cư trú chung vào thời điểm
14


nộp đơn xin ly hơn. Nếu vợ chồng có quốc tịch của hai nước khác nhau và khơng
có nơi cư trú chung thì tịa án của cả hai nước đều có thẩm quyền giải quyết .
- Những vụ việc về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy tắc được sử dụng
chủ yếu là quy tắc tòa án của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Ngoài ra cũng
có thể áp dụng căn cứ nơi thường trú của bị đơn để phân định thẩm quyền của tòa
án.
- Đối với các tranh chấp về quan hệ hợp đồng, quy tắc tòa án nơi thường trú của
bị đơn được ưu tiên áp dụng.
VD: Khoản 2 Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề
dân sự và hình sự giữa VN và Liên Bang Nga quy định: Các tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng “thuéc thẩm quyền giải quyết của Toà án của Bên ký kết nơi bị đơn
thờng trú hoặc có trụ sở. Toà án của Bên ký kết nơi nguyên đơn thờng trú hoặc có
trụ sở cũng có thẩm quyền giải quyết, nếu trên lÃnh thổ của nớc này có đối tợng
tranh chấp hoặc tài sản của bị đơn.
- i vi cỏc tranh chấp về quan hệ lao động, quy tắc nơi thực hiện hành vi hoặc
nơi thường trú của đương sự được áp dụng.
- Một số trường hợp khác…
II. Theo pháp luật Việt Nam:
1. Thẩm quyền chung quy định tại Điều 410 luật Tố tụng dân sự 2004.
Bộ luật đặt ra các quy định chung để xác định thẩm quyền: không có tính loại
trừ, các quốc gia khác cũng có thể có thẩm quyền xét xử theo những qui định này.
Khoản 1 Điều 410 luật tố tụng dân sự xác định tịa án cụ thể nào của Việt nam sẽ

có thẩm quyền giải quyết.
“Điều 410. Quy định chung về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi
1. Thẩm quyền của Tịa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi được xác định theo quy định tại Chương III của Bộ luật này, trừ trường hợp
Chương này có quy định khác.”

15


Tại khoản 2, Điều 410 của BLTTDS đã liệt kê những trường hợp mà Tịa án
Việt Nam có thẩm quyền giải quyết đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài, bao gồm các trường hợp:
a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngồi có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị
đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Ở đây, Tịa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết quan hệ dân sự có cơ quan,
tổ chức nước ngồi tham gia khi cơ quan, tổ chức nước ngoài là bị đơn và phải có
trụ sở chính hoặc cơ quan quản lý tại Việt Nam. Quy định này là cần thiết trong
điều kiện hiện nay khi có nhiều cơ quan, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam và phát sinh tranh chấp trong quá trình tham gia các quan hệ pháp luật tại
Việt Nam. Theo Khoản 20, Điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2005, doanh
nghiệp có quốc tịch Việt Nam khi thành lập, đăng ký kinh doanh tại Việt Nam.
Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở nước ngồi (có
quốc tịch nước ngồi) nhưng có trụ sở chính hoặc cơ quan quản lý ở Việt Nam thì,
các đối tác của doanh nghiệp vẫn có quyền khởi kiện doanh nghiệp tại Tòa án Việt
Nam.
Quy định trên cũng cho thấy, Tịa án Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết
trong trường hợp này khi phía khởi kiện là bên Việt Nam; còn nếu cơ quan, tổ chức
nước ngồi, chi nhánh, văn phịng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước
ngồi khởi kiện, Tịa án Việt Nam khơng có thẩm quyền giải quyết. Tịa án Việt

Nam cũng có quyền giải quyết vụ việc khi bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngồi
có chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam.
Tuy nhiên, luật khơng nói rõ là Tịa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết đối
với tất cả các vụ việc phát sinh có liên quan đến chi nhánh, văn phịng đại diện ở
Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài hay chỉ trong một số trường hợp cụ thể.
Cách quy định của điều luật cho ta hiểu rằng, Tòa án Việt Nam có quyền giải quyết
tất cả các vụ việc mà bị đơn là tổ chức nước ngồi có chi nhánh, văn phịng đại
diện ở Việt Nam. Theo chúng tơi, quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế và
thiếu tính khả thi bởi nhiều trường hợp khơng có một mối liên hệ nào giữa tư cách
bị đơn của cơ quan, tổ chức nước ngoài với các chi nhánh, văn phòng đại diện của
cơ quan, tổ chức nước ngồi đó tại Việt Nam. 5
Ví dụ: Một cơng ty của Thái Lan có chi nhánh tại Việt Nam. Trong q trình
hoạt động, cơng ty này có th nhà tại Thái Lan của công dân Thái Lan làm trụ sở
của Cơng ty và trong q trình thực hiện hợp đồng đã phát sinh tranh chấp. Công
5 Bành Quốc Tuấn, Từ một quy định về thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi của tịa án,
Thongtinphapluatdansu, 8/1/2010.
/>
16


dân Thái Lan khởi kiện công ty Thái Lan. Vụ việc này Tịa án Việt Nam khơng thể
có thẩm quyền giải quyết dù cơng ty Thái Lan có chi nhánh tại Việt Nam và là bị
đơn trong vụ việc.
b) Bị đơn là cơng dân nước ngồi, người khơng quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh
sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam.
Trường hợp thứ nhất, bị đơn người nước ngồi có nơi cư trú, làm ăn, sinh
sống lâu dài tại Việt Nam: Khoản 2 Điều 9 của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hơn nhân
và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi quy định:
“Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là cơng dân nước ngồi và người

khơng quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam”. Như vậy, người
nước ngồi có nơi cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam được xem là
người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. Và theo quy định trên, khi bị đơn nước
ngồi chỉ có nơi tạm trú tại Việt Nam mà khơng có tài sản trên lãnh thỗ Việt Nam,
Tịa án Việt Nam khơng có thẩm quyền giải quyết. Quy định này trái với một số
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Ví dụ: Khoản 1, Điều 18 của Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân
sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa quy định: “Tòa án của một trong hai bên ký kết ra quyết định sẽ được
coi là có thẩm quyền đối với vụ việc, nếu bị đơn có nơi thường trú hoặc tạm trú
trên lãnh thổ của bên ký kết đó tại thời điểm bắt đầu tiến hành trình tư tố tụng”.
Trong trường hợp này, quy định của điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng nên sẽ
có những trường hợp Tịa án Việt Nam có thẩm quyền xét xử dù bị đơn nước ngồi
chỉ có nơi tạm trú tại Việt Nam.
Trường hợp thứ hai, người nước ngồi khơng thường trú tại Việt Nam thì phải
có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Với việc hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào hoạt
động kinh tế quốc tế, việc mở rộng phạm vi các quan hệ người nước ngoài được
tham gia tại Việt Nam, việc phát sinh ngày càng nhiều tài sản của người nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam là điều tất yếu. Trong trường hợp này, khi người
nước ngoài là bị đơn trong vụ tranh chấp mà có tài sản tại Việt Nam, vụ việc sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Nếu người nước ngồi là bị
đơn mà tài sản khơng nằm trên lãnh thổ Việt Nam và cũng khơng có nơi thường trú
ở Việt Nam, Tịa án Việt Nam khơng có cơ sở và cũng khơng thể thực hiện được
quyền tài phán của mình. Tài sản của người nước ngồi trên lãnh thổ Việt Nam
theo điều luật không phân biệt là động sản hay bất động sản. Quy định này khác
biệt so với nguyên tắc xác định Tòa án theo lãnh thổ tại điểm c, khoản 1, Điều 35
của BLTTDS: Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh
chấp về bất động sản; nếu tài sản liên quan đến tranh chấp không phải là bất động
17



sản, thẩm quyền sẽ thuộc Tòa án nơi cư trú của bị đơn mà khơng cần biết tài sản đó
đang ở đâu.
c) Ngun đơn là cơng dân nước ngồi, người không quốc tịch cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp
dưỡng, xác định cha mẹ.
Khi bên nước ngồi là ngun đơn, Tịa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết
vụ việc trong các trường hợp cụ thể là yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ
và người nước ngoài phải cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Quy định
trên là hợp lý vì những vụ việc này liên quan đến nhân thân của các đương sự trong
vụ việc cũng như những chủ thể khác có liên quan nên khi vụ việc xảy ra, các chủ
thể hiện đang có mặt tại Việt Nam, bên người nước ngồi có quyền khởi kiện tại
Tòa án Việt Nam để yêu cầu giải quyết. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi để bên
nước ngồi bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, Tịa án Việt Nam có thể xác minh vụ
việc, điều tra, thu thập chứng cứ cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần
thiết trong quá trình giải quyết vụ việc.
d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng
có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài. Trường hợp này được chia thành:
+ Quan hệ theo pháp luật Việt Nam: trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết khi bên nước ngồi khơng có trụ sở chính, cơ quan quản lý,
chi nhánh, văn phịng đại diện tại Việt Nam (đối với cơ quan, tổ chức) hoặc khơng
có nơi thường trú ở Việt Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam. Quy định này là hợp lý vì nếu trong
trường hợp cơ quan, tổ chức có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn
phịng đại diện ở nước ngồi hoặc cá nhân có nơi thường trú ở nước ngồi mà căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó khơng theo pháp luật Việt Nam, Tịa
án Việt Nam sẽ khơng có cơ sở để giải quyết và cũng khơng có điều kiện để giải
quyết.

Trong trường hợp này, trước khi xác định thẩm quyền xét xử, Tòa án Việt Nam
cần phải xác định luật áp dụng cho quan hệ này có là pháp luật Việt Nam hay
khơng, bởi nếu căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ khơng theo pháp luật
Việt Nam, Tịa án Việt Nam khơng có thẩm quyền giải quyết. Khi áp dụng quy
định trên dường như chúng ta đã đi ngược lại nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật và giải quyết xung đột thẩm quyền xét xử. Ở đây, Tòa án phải biết luật nội
dung áp dụng cho quan hệ có phải là luật Việt Nam hay không rồi mới xác định

18


thẩm quyền xét xử. Nếu luật nội dung áp dụng là luật Việt Nam, Tịa án Việt Nam
mới có thẩm quyền xét xử.6
+ Quan hệ xảy ra ở Việt Nam: cũng tương tự như trường hợp trên, Tòa án Việt
Nam có thẩm quyền giải quyết khi bên nước ngồi khơng có trụ sở chính, cơ quan
quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam (đối với cơ quan, tổ chức)
hoặc khơng có nơi thường trú ở Việt Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ phải xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.
Ví dụ: Cơng ty du lịch Thái Dương tổ chức chương trình du lịch cho một số
cơng dân của Hà Lan (gồm A, B, C, D) tại Việt Nam theo hình thức đi thuyền trên
sơng Cửu Long. Chẳng may, du thuyền bị đắm, ông B là công dân Hà Lan bị chết
đuối. Ơng E là con ơng B hiện đang làm việc tại Việt Nam muốn kiện công ty Thái
Dương ra Tòa án Việt Nam để được bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trong trường
hợp này, sự việc đã xảy ra ở Việt Nam và có ít nhất một bên đương sự (ơng E) là
người nước ngồi nên Tịa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Quy định này là một bước tiến bộ của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền xét xử
của Tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong điều
kiện Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế,
những quan hệ dân sự mà một bên hoặc cả hai bên tham gia đều là nước ngoài
được thực hiện tại Việt Nam diễn ra ngày càng phổ biến.

đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngồi, nhưng các
đương sự đều là cơng dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị
đơn cư trú tại Việt Nam.
Trong trường hợp này, căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài nhưng
các chủ thể tham gia đều là chủ thể Việt Nam và có ít nhất một bên cư trú tại Việt
Nam. Ví dụ: A là công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam, sang Ba Lan du lịch. B
cũng là công dân Việt Nam nhưng cư trú, làm ăn ở Ba Lan. Trong một lần lưu
thông tại nước này, xe của B va vào xe xủa A gây ra thiệt hại. Sự việc này xảy ra ở
nước ngoài, cả hai đương sự đều là công dân Việt Nam và một bên cư trú tại Việt
Nam nên Tịa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, trong quy định trên, chủ thể Việt Nam tham gia có thể là cá nhân
hoặc tổ chức nhưng Luật sử dụng thuật ngữ “cư trú”. Đối với trường hợp nguyên
đơn hoặc bị đơn hoặc cả hai đều cư trú ở Việt Nam là hợp lý. Nhưng nơi cư trú chỉ
dành cho cá nhân chứ không dành cho tổ chức. Do đó, đối với trường hợp vụ việc
6 TS. Đỗ Văn Đại, TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2006, tr.51.

19


dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công
dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn (hoặc cả hai) lại là cơ
quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam thì,Tịa án Việt Nam nên chăng có thẩm
quyền giải quyết, nhưng lại khơng chính xác với ngơn từ được quy định tại điểm đ,
khoản 2, Điều 410 của BLTTDS vì cơ quan, tổ chức khơng có nơi cư trú mà chỉ có
nơi đặt trụ sở chính, nơi đặt trụ sở của chi nhánh, văn phịng đại diện.
Ngồi các trường hợp nêu trên, điểm e, g, Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS

còn đưa ra các trường hợp Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngồi trong trường hợp: Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện
toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam; vụ việc ly hôn mà
nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam.
2. Thẩm quyền riêng qui định tại Khoản 2, Điều 411 Luật Tố tụng dân sự
2004:
Là thẩm quyền riêng và duy nhất chỉ xác định cho tòa án Việt nam và loại trừ
thẩm quyền xét xử của các tòa án của các quốc gia khác (Phán quyết của tịa án
nước ngồi sẽ khơng được cơng nhận để thi hành tại Việt Nam). Đối tượng xét xử
là những quan hệ có mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước Việt Nam.
Những việc dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết
riêng biệt của Tòa án Việt Nam:
- Xác định một sự kiện pháp lý, nếu sự kiện đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
- Tun bố cơng dân nước ngồi, người không quốc tịch bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự nếu họ cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt
Nam và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên
lãnh thổ Việt Nam;
- Tuyên bố cơng dân nước ngồi, người khơng quốc tịch mất tích, đã chết nếu họ
có mặt ở Việt Nam tại thời điểm có sự kiện xảy ra mà sự kiện đó là căn cứ để tun
bố một người mất tích, đã chết và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập
quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
- Yêu cầu Tòa án Việt Nam tuyên bố cơng dân Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc
tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt
Nam;

20


- Cơng nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận quyền sở
hữu của người đang quản lý đối với bất động sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam.

Trong trường hợp chưa có các quy định của Điều ước quốc tế giữa VN với
nước ngoài về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế, thì về nguyên tắc, để
xác định thẩm quyền xét xử quốc tế của Tòa án VN phải tuân theo các quy định
của pháp luật trong nước của VN.

KẾT LUẬN
Việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là một nội dung quan trọng của
quá trình giải quyết xung đột pháp luật trong luật pháp quốc tế. Chính vì vậy, việc
tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm
quyền giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi là u
cầu cần thiết trong q trình hồn thiện pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu cách thức
xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng như tính hợp pháp của
việc chọn luật áp dụng dứt khoát phải được đặt trong một bình diện tổng thể - với
sự đan xen của tư pháp quốc tế nhiều nước trên thế giới. Bài viết trên đây cũng cho
thấy một điều rõ ràng rằng, xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
và tính hợp pháp của việc chọn luật áp dụng cần phải được tìm hiểu một cách đồng
thời và gắn bó với nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Bá Diến (Chủ biên), Giáo trình Luật thương mại quốc tế,
Nxb.ĐHQGHN, Hà Nội, 2005.
21


2.

Nguyễn Bá Diến (Chủ biên), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb.ĐHQGHN,


3.

Hà Nội, 2001.
Nơng Quốc Bình, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Trường đại học Luật

4.

Hà Nội, Nxb. Tư pháp, 2006.
TS. Đỗ Văn Đại, TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 51.

5.
6.

Bộ luật tố tụng dân sự, số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004.
Bộ luật dân sự Việt Nam, số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.

7.

Nguyễn Bá Bình, Xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và
tính hợp pháp của việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngồi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc hội số 06 tháng 5/2008.

8.

Quốc Hà, Tổng kết 3 năm thực hiện Luật Tương trợ tư pháp, báo điện tử
chính phủ VN ,13/01/2011.

9.


Bành Quốc Tuấn, Từ một quy định về thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự

có yếu tố nước ngồi của tịa án, Thongtinphapluatdansu, 8/1/2010.
Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định Hướng dẫn Bộ luật
Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
10. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Hơn nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngồi.
11. Các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký với nước ngoài: Liên bang
Nga (25/8/1998); Cu Ba (ngày 30/11/1984); Bungari (ngày 3/10/1986); Ba
Lan (22/3/1993); Lào (6/7/1998); CHND Trung Hoa (19/10/1998); Pháp
(24/2/1999); CHDCND Triều Tiên (4/5/2002); Mông cổ (17/4/2000);
Ucraina (6/4/2000)…
12. Các trang web:
- Báo điện tử chính phủ VN: />- Trang thông tin pháp luật dân sự:
-


Thông tin Pháp luật Việt Nam:
22


-

Tòa án nhân dân tối cao: />Các trang web khác…

23




×