Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.56 KB, 20 trang )

Mục lục:
A. Đặt vấn đề……………………………………………….…..…….2
B. Giải quyết vấn đề…………………………………….…………..…2
I. Một số khái niệm về thừa kế………………………………….….2
1. Thừa kế theo pháp luật….……………………….………..…2
2. Diện và hàng thừa kế…………………………..………….....3
a. Diện thừa kế.……………………………..…….……………….….3
b. Hàng thừa kế…………………………………………………….….3
II. Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế……………………..….4
1. Diện thừa kế……………………….…………………….…..4
a) Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân…………6
b) Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống….…...8
c) Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ nuôi dưỡng…….…10
2. Hàng thừa kế:………………………….……….……………11
a) Hàng thừa kế thứ nhất………………….…………….…………….11
b) Hàng thừa kế thứ hai………………………….……….…………..14
c) Hàng thừa kế thứ ba…………………………….……….…………16
III. Một số điểm hạn chế về diện và hàng thừa kế………….…….17
C. Kết thúc vấn đề…………………………………….………………19
D. Danh mục tài liệu tham khảo……………….................................20

1


A. Đặt vấn đề:
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện
ngay trong thời kì sơ khai của xã hội lồi người. Từ đó đến nay, quyền để lại
thừa kế và quyền thừa kế luôn được pháp luật các nước quan tâm, bảo hộ, đặc
biệt là vấn đề thừa kế theo pháp luật. Ở Việt Nam cũng vậy, ngày nay phần
lớn các vụ việc thừa kế được giải quyết theo quy định của pháp luật. Trong
vấn đề thừa kế theo pháp luật, vấn đề diện và hàng thừa kế là hai vấn đề vơ


cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của
những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá
chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm hạn chế cần khắc phục, bởi vậy
em xin chọn đề tài: “Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo quy định của
pháp luật hiện hành” làm đề tài nghiên cứu. Nghiên cứu vấn đề diện thừa kế
và hàng thừa kế sẽ cho ta cái nhìn tồn diện hơn, sâu sắc hơn, từ đó có những
kiến thức thực tế vận dụng vào đời sống và công việc sau này.

B. Giải quyết vấn đề:
I. Một số khái niệm về thừa kế:
1. Thừa kế theo pháp luật:
Theo Điều 674 Bộ luật dân sự về thừa kế theo pháp luật thì: “Thừa kế
theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do
pháp luật quy định.”
Sau khi người để lại di sản qua đời, số tài sản còn lại được chia đều cho
những người thừa kế. Những người thừa kế theo pháp luật là những người có
quan hệ huyết thống, quan hệ hơn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với người đã
chết.

2


Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không
phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc
hưởng di sản thừa kế của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa
thực hiện trong phạm vi di sản nhận.
Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người
thừa kế thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất
là những người có quan hệ hộn nhân, quan hệ huyết thống gần gũi nhất so với
các hàng khác. Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị, chỉ được hưởng di

sản nếu như khơng cịn ai ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận
hoặc không được quyền nhận.
2. Diện và hàng thừa kế:
a. Diện thừa kế:
Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di
sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người
thừa kế được xác định dựa trên ba mối quan hệ với người để lại di sản: quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
b. Hàng thừa kế:
Theo quy định của pháp luật, di sản của người chết sẽ được chia cho
những người thân thiết, có quan hệ gần gũi với người đã chết. Tuy nhiên mức
độ gần gũi của mỗi người lại khác nhau khiến việc phân chia di sản của người
chết gặp nhiều khó khăn và thường dẫn đến tranh chấp. Chính vì vậy mà để
giải quyết vấn đề này, diện những người thừa kế sẽ được xếp thành các hàng
thừa kế.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần
gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa
kế mà người chết để lại.
Theo khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005, pháp luật Việt Nam
chia những người trong diện thừa kế ra làm ba hàng:

3


“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau
đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà

người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột, chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
II. Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế:
1. Diện thừa kế:
Diện những người thừa kế được căn cứ xác định theo các mối quan hệ
như sau:
- Quan hệ hôn nhân xuất phát từ việc kết hôn (giữa vợ và chồng).
- Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng một gốc “ông
tổ”, giữa những người cùng dịng máu (cụ với ơng, bà; ơng, bà với cha, mẹ;
cha mẹ với các con,…).
- Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ dựa trên cơ sở nuôi con nuôi, được
pháp luật thừa nhận giữa cha, mẹ nuôi và con ni.
Ở Việt Nam thời kì phong kiến, diện thừa kế được xác định hết sức
rộng rãi do thời đó gia đình thường sống chung gồm rất nhiều thế hệ (ông bà,
cha mẹ, con cái và cháu chắt cùng sống chung dưới một mái nhà). Theo sự
ghi nhận của các bộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc của
người chết dù xa hay gần, dù thân hay sơ đều thuộc diện thừa kế theo luật của
người đó. Khi khơng cịn ai bên nội tộc cịn sống thì di sản được chuyển dịch
sang bên ngoại.
4


Đến khi quân dân ta giành được chính quyền, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa được thành lập, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp
luật xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật:
Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19/8/1956 quy định diện
những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ hoặc chồng, các con đẻ, các

con nuôi, cháu, chắt, cha mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế
khác. Nhưng thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là ai
nên trong thời kỳ này anh, chị, ông, bà không thuộc diện thừa kế.
Thông tư 594/NCPD xác định diện thừa kế bao gồm: vợ góa (cả vợ cả
và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông
bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã thêm được anh
chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt ra khỏi diện thừa
kế.
Thông tư 81/TANDTC xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo
pháp luật là ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng. Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vì
vậy, diện thừa kế được quy định trong thông tư bao gồm: vợ góa (vợ cả và vợ
lẽ) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông
bà nội ngoại; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha và anh chị em ni. Ngồi ra thơng tư này cịn quy định “người thừa tự”
cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa kế của ông
bà nếu cha mẹ khơng cịn.
Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng Nhà nước ban hành vào ngày
30/8/1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở rộng hơn so với thông tư
81/TANDTC. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại
tài sản theo trực hệ được xác định đến tận bốn đời (từ đời cụ xuống đời chắt).
Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo
bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột, bác ruột, cô

5


ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế
bác bỏ quyền thừa kế của anh chị em nuôi.
Đến Bộ luật dân sự 1995 tuy không quy định trực tiếp về diện thừa kế

nhưng dựa vào hàng thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì
đã xác định được diện thừa kế bao gồm: vợ hoặc chồng; các con đẻ và các con
nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất); bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội
ngoại; anh chị em ruột (thuộc hàng thừa kế thứ hai); cụ nội, cụ ngoại của
người chết; bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị).
Cho đến nay Bộ luật dân sự 2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định
như năm 1999. Tuy nhiên có một điểm khác biệt là chắt được liệt thêm vào
hàng thừa kế thứ ba.
a) Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân:
Để có cơ sở đảm bảo quyền lợi và thể hiện trách nhiệm đối với nhau,
pháp luật thực định chỉ chấp nhận gia đình phải dựa trên nền tảng hơn nhân
hợp pháp. Theo quy định tại khoản 6 Điều 8 Luật hơn nhân và gia đình, thì
“Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Tại khoản 2 của
điều luật nói trên cịn quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ
vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn”. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ giữa vợ và chồng khi
kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và các thủ tục pháp luật quy định. Vợ chồng
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau, khi quan hệ hơn nhân của họ tính
đến thời điểm mở cửa thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định
là hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp thừa kế của vợ, chồng trong
nhận di sản của nhau được bảo vệ bằng pháp luật. Quan hệ hôn nhân hợp
pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua đăng ký kết hôn. Thủ tục
đăng ký kết hôn được quy định trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Tại
Điều 8 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã giải thích: “Kết hôn là
6


việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều

kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Để được đăng ký kết hơn, thì hai bên nam,
nữ phải thỏa mãn các điều kiện kết hơn do luật hơn nhân và gia đình quy định
tại các điều 9, 10, 11 và 14 về độ tuổi kết hơn, ý chí tự do, tự nguyện trong kết
hôn, không vi phạm chế độ một vợ một chồng, không vi phạm các quan hệ
huyết thống trong phạm vi ba đời, và không vi phạm các điều cấm khác của
pháp luật như: Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha mẹ,
cha nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với
con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; giữa những người cùng giới
tính hay người mất năng lực hành vi không được kết hơn.
Cịn đối với vấn đề hơn nhân thực tế, trước đây (trước năm 2000) do
hoàn cảnh lịch sử, kinh tế đất nước thì vấn đề hơn nhân thực tế được tịa thừa
nhận cũng coi là hơn nhân hợp pháp. Như vậy, hôn nhân của vợ chồng là hôn
nhân hợp pháp từ thời điểm kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được tịa án thừa
nhận, thì vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là
người thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào di chúc.
Sau này nhằm giải quyết dứt điểm những quan hệ vợ chồng không tuân
thủ những quy định của luật hơn nhân và gia đình, chính phủ đã ban hành
Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết về
đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35 /2000/QH10 của Quốc hội về thi hành
luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tại điều 2 có quy định: “Quan hệ vợ
chồng chưa đăng ký mà được xác lập trước 3/1/1987, thì việc kết hơn khơng
bị hạn chế về thời gian. Nhưng nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng từ 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hơn theo quy
định của luật hơn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết
hôn. Từ sau ngày 1/1/2001 mà họ khơng đăng ký kết hơn ,thì pháp luật khơng
cơng nhận họ là vợ chồng.”
Như vậy, pháp luật không thừa nhận hôn nhân thực tế đối với quan hệ
nam và nữ trên thực tế đã chung sống với nhau như vợ chồng từ 3/1/1987 đến
7



ngày 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của luật hơn nhân và
gia đình năm 2000, thì phải đăng ký kết hơn. Pháp luật quy định trong thời
hạn hai năm từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003, mà họ khơng đăng ký kết
hơn thì quan hệ của họ không phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vấn đề hơn
nhân thực tế khơng những đã có Nghị định số 35/2000/QH10 quy định thời
hạn giải quyết cho đến ngày 1/1/2003, mà trong Luật hơn nhân và gia đình
cũng đã quy định không thừa nhận hôn nhân thực tế: “Nam, nữ không đăng
ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì khơng được pháp luật
cơng nhận là vợ chồng”
Như vậy có thể thấy được với quy định tại Điều 11 luật hơn nhân và gia
đình năm 2000 đã đoạn tuyệt hẳn với hôn nhân thực tế. Bởi lẽ, trong sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ trở nên đa dạng và phức tạp
nên quy định về “hơn nhân thực tế” hồn tồn khơng cịn phù hợp với xu thế
xã hội hiện đại. Do đó những quy định trên là hồn tồn phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
b) Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống:
- Mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đẻ:
Pháp luật về hơn nhân và gia đình Việt Nam ln bảo vệ lợi ích chính
đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa
vụ của người làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con
không phụ thuộc vào hình thức hơn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của
người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú
hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay khơng có năng lực
hành vi dân sự, theo quy định của pháp luật, họ đều thuộc diện thừa kế theo
pháp luật của nhau.
Điều 11 Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em cũng quy định: “Trẻ em
có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Trẻ em chưa xác định được cha, mẹ
nếu có u cầu thì được cơ quan có thẩm quyền giúp đỡ xác định cha, mẹ
theo quy định của pháp luật”. Luật hôn nhân và gia đình cũng đã quy định về

8


quyền xin xác nhận con của cha, mẹ là nhằm bảo vệ những quyền dân sự
chính đáng của cơng dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản.
Việc xác định quan hệ huyết thống không những là cơ sở để xác định
quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ gia đình mà
cịn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa cha, mẹ và các con trong trường
hợp có người chết.
- Mối quan hệ giữa cụ, ông và và các cháu, chắt:
Cũng như cha mẹ, ông bà phải là người thừa kế theo quy định của pháp
luật. Tuy vậy, ông bà không thể là người được thừa kế ưu tiên hay cùng hàng
so với cha, mẹ đối với cháu, chắt được.
Theo Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 thì ơng nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại của người chết được hưởng thừa kế theo pháp luật
của cháu, chắt, nhưng cháu, chắt không phải là người thừa kế theo pháp luật
của họ. Quy định này đi ngược với thứ tự ưu tiên hưởng thừa kế theo quan hệ
huyết thống xi của cháu chắt. Vì thế, cháu, chắt khơng được hưởng di sản
của ông, bà và cụ là điều hợp lý. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự năm 2005 đã
sửa đổi bổ sung thêm tại điều 676. Ngoài ra, nếu cha mẹ, cháu, chắt chết
trước hoặc cùng thời điểm với ơng, bà, các cụ thì cháu, chắt được hưởng thừa
kế thế vị tại điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005.
- Mối quan hệ giữa những người thân thuộc bàng hệ:
Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định anh, chị, em ruột là những
người thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau cùng với ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại của người chết. Con của anh, chị, em được xếp vào hàng thứ
ba bên cạnh cụ nội, cụ ngoại.
- Mối quan hệ giữa những người thân thuộc bàng hệ khác:
Ngoài anh, chị, em ruột và con của anh, chị, em ruột, pháp luật hiện
hành chỉ thừa nhận những người nào mà người chết gọi cô ruột, bác ruột, chú

ruột, cậu ruột hoặc dì ruột là người thừa bàng hệ và được xếp vào hàng thứ ba
(Điểm c Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự). Như vậy, họ hưởng di sản cùng
9


với cụ nội, cụ ngoại của người chết cũng như với con của anh chị em của
người chết.
Tóm lại, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống quy định tại Bộ luật
dân sự năm 2005 đã được mở rộng đến ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em
ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội, ngoại của người
chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người
chết là bác ruột, chú ruột, dì ruột, cơ ruột, cậu ruột; chắt ruột của người chết
mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Tuy nhiên, pháp luật cũng loại trừ quyền
thừa kế của những người trong diện thừa kế nếu có hành vi trái pháp luật
được quy đinh tại điều 643 Bộ luật dân sự.
c) Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ nuôi dưỡng:
Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, ni
dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Nếu
những người trong quan hệ huyết thống mà vi phạm nghĩa vụ ni dưỡng,
chăm sóc, giáo dục nhau thì sẽ bị Tòa án kết án bằng một bản án có giá trị
pháp lý, cụ thể người đó sẽ bị tước quyền thừa kế theo pháp luật.
- Quan hệ nuôi dưỡng được thể hiện giữa anh, chị, em ruột đối với nhau
trong hồn cảnh mồ cơi cha, mẹ hoặc cha, mẹ cịn nhưng khơng có khả năng
lao động hoặc đều khơng có năng lực hành vi dân sự.
- Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ngoại với các cháu nội, ngoại:
Ơng bà nội, ơng bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trơng nom, chăm sóc, giáo
dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp
cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi
dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình mà
khơng có người ni dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật hơn nhân và

gia đình thì ơng bà nội, ơng bà ngoại có nghĩa vụ ni dưỡng cháu. Ngược lại
cháu cũng có bổn phận kính trọng, chăm sóc phụng dưỡng ơng bà. Với lý do
như trên, ngoài mối quan hệ huyết thống, dựa trên quan hệ ni dưỡng thì ơng
bà và các cháu thuộc diện thừa kế của nhau.
10


- Quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng: Theo quy
định của pháp luật thì giữa những người con riêng với bố dượng, mẹ kế đã thể
hiện được nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng nhau. Điều 38 Luật hơn nhân và
gia đình quy định bố dượng ,mẹ kế có quyền và nghĩa vụ ni dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con riêng cùng chung sống với mình và đã thể hiện được nghĩa
vụ của người cha, người mẹ đối với con thì theo quy định của pháp luật họ
thuộc diện thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, của chồng mà chết trước
bố dượng, mẹ kế, con của họ sẽ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế
khi qua đời.
- Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi: Mối quan hệ thừa kế này
được xác định trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng. Trong trường hợp nhận nuôi
một người làm con ni thì người con ni đó đương nhiên trở thành một
thành viên trong gia đình cha, mẹ ni. Khi mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha
mẹ nuôi với con nuôi được thiết lập thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ chăm
sóc, ni dưỡng con ni, ngược lại người con ni phải biết u thương kính
trọng, chăm sóc, phụng dưỡng cha, mẹ nuôi. Điều 678 Bộ luật dân sự năm
2005 quy định ngoài việc được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ nuôi, người
con nuôi vẫn được thừa kế di sản của cha mẹ đẻ và những người trong gia
đình cha mẹ đẻ. Ngồi ra, giữa con đẻ và con ni khơng có sự phân biệt.
Theo đó, quyền thừa kế theo pháp luật của con đẻ và con nuôi là ngang nhau
khi hưởng di sản thừa kế của cha mẹ. Điều này cịn phù hợp với mục đích
nhận và ni con ni nhằm thể hiện lịng nhân đạo, u thương của mọi
người đối với trẻ em, bù đắp cả về vật chất lẫn tinh thần cho con nuôi.

2. Hàng thừa kế:
a) Hàng thừa kế thứ nhất:
Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có
quyền hưởng di sản của nhau:
- Quan hệ thừa kế giữa vợ chồng:

11


Theo điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “Hơn nhân
là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hơn”. Vì thế vào thời điểm
mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn cịn tồn tại
được thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau. Tuy nhiên do có nhiều thay
đổi trong luật pháp nên việc xác định quyền thừa kế của vợ chồng cần chú ý
một số trường hợp sau:
+ Thứ nhất: Nếu vợ chồng đã ly thân hoặc đã chia tài sản chung hoặc
một người bỏ đi sống như vợ chồng với người khác một cách bất hợp pháp
nhưng vẫn chưa ly hơn thì theo pháp luật họ vẫn là vợ chồng, quan hệ hôn
nhân vẫn tồn tại và vẫn được quyền thừa kế di sản của nhau nếu người kia
chết.
+ Thứ hai: Vợ chồng đang xin ly hơn mà chưa được tịa án chấp nhận
hoặc đã được chấp nhận nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hơn chưa có
hiệu lực pháp luật thì một người chết. Khi đó người cịn lại vẫn được quyền
hưởng di sản của người chết.
+ Thứ ba: nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hơn nhân đều
tiến hành trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc (ngày Luật hơn nhân và gia đình
năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam
(ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên tồn quốc) thì việc người
đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất cả các
bà vợ (cịn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng thứ

nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các
bà vợ qua đời.
+ Thứ tư: Nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra
Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án
có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ
nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế thuộc hàng
thứ nhất nếu những người vợ đó qua đời.

12


+ Thứ năm: Nếu vợ chồng khơng đăng kí kết hôn nhưng được công
nhận là hôn nhân thực tế (hôn nhân tiến hành trước ngày Luật Hơn nhân và
gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện kết hơn nhưng khơng
đăng ký kết hơn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận nên họ là
người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất của nhau.
+ Thứ sáu: hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung
với nhau trước ngày Luật Hơn nhân gia đình 1986 có hiệu lực mà cuộc sống
chung đó khơng bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng
đó vẫn được chấp nhận. Và họ vẫn là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau
khi một người chết.
- Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con cái:
Mối quan hệ này được xác định bằng quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng. Cụ thể như sau:
Đối với quan hệ huyết thống: Quyền thừa kế theo pháp luật của con
không phụ thuộc vào hình thức hơn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của
người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú
hay ngồi giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay khơng có năng lực hành vi
dân sự, theo quy định của pháp luật, họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật
của nhau; vì giữa họ với cha, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống. Như vậy việc

quy định họ là hàng thừa kế thứ nhất của nhau là hợp lý.
Đối với quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ ni
dưỡng ở đây có thể là của bố mẹ đẻ với con đẻ cũng có thể là của bố mẹ ni
với con ni và ngược lại.
Trong mối quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con cái cái cần chú ý một số
trường hợp sau:
+ Thứ nhất: Trường hợp một người vừa có con ni, vừa có con đẻ thì
người này được hưởng thừa kế ở hàng nhất đối với cả hai người con và ngược
lại, cả con nuôi và con đẻ đều là người thừa kế hàng thứ nhất nếu cha nuôi
hoặc cha đẻ chết. Trong trường hợp người này có con ni mà chưa đăng ký
13


việc nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp luật thì quyền thừa kế giữa
họ sẽ khơng được cơng nhận cho đến khi họ đăng ký.
+ Thứ hai: Việc chia di sản của người chết cho con dâu, con rể. Theo
quy định của pháp luật thì con dâu, con rể không nằm trong diện thừa kế.
Nhưng trong trường hợp con dâu, con rể tham gia lao động chung trong gia
đình, xây dựng khối tài sản trong gia đình cha, mẹ thì khi cha mẹ chết đi họ
vẫn được hưởng một phần tài sản xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra nhưng
không phải với tư cách người thừa kế mà là người đồng sở hữu tài sản. Việc
chia tài sản cho con dâu, con rể sẽ được chia ngay từ lúc xác định tài sản của
người chết trong khối tài sản chung, rút phần của người chết ra để chia cho
những người thừa kế, phần của con dâu, con rể và những người khác (nếu có)
nằm trong khối tài sản chung chưa bị chia kia.
+ Thứ ba: Đối với mối quan hệ của con riêng đối với bố dượng, mẹ kế.
Theo Điều 679 Bộ luật dân sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng,
mẹ kế thì: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.”

Sở dĩ có điều luật này là để tránh trường hợp tranh chấp di sản người chết
trong các trường hợp như: mẹ kế sống với bố còn con riêng sống với mẹ đẻ
như vậy hai người này khơng có quan hệ huyết thống mà cũng chẳng có quan
hệ ni dưỡng; hoặc là các trường hợp con riêng sống với bố dượng, mẹ kế
nhưng bị ghét bỏ, không nhận được sự quan tâm, chăm sóc ni dưỡng. Như
vậy là trong trường hợp pháp luật xác định được chắc chắn mối quan hệ nuôi
dưỡng của con riêng với bố dượng, mẹ kế là mối quan hệ ni dưỡng như cha
con hoặc mẹ con thì họ mới được hưởng thừa kế của nhau và còn được hưởng
thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc thừa kế thế vị.
b) Hàng thừa kế thứ hai:

14


Ở hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Mối quan hệ thừa kế giữa ông bà nội, ngoại và cháu:
Ông bà nội là người sinh ra cha của cháu, ông bà ngoại là người đã sinh
ra mẹ của cháu. Nếu cháu ruột chết thì ơng bà nội, ơng bà ngoại sẽ ở hàng
thừa kế thứ hai của cháu và ngược lại, nếu ơng bà nội, ngoại chết thì cháu sẽ
là người thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà nội, ông bà ngoại. Trước đây,
Bộ luật dân sự 1995 chỉ quy định ông bà nội, ông bà ngoại ở hàng thừa kế thứ
hai của cháu ruột chứ không quy định cháu ruột ở hành thừa kế thứ hai của
ông bà. Sở dĩ Bộ luật dân sự năm 1995 quy định như vậy vì cho rằng nếu cha
mẹ của cháu cịn sống khi ơng bà chết thì cha mẹ cháu sẽ được hưởng thừa
kế. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp ơng bà chết nhưng cha mẹ của cháu
khơng được hưởng thừa kế mặc dù vẫn cịn sống (bị truất quyền thừa kế,
khơng có quyền hưởng di sản), trong trường hợp này cháu ruột của ông bà
cũng không được hưởng di sản vì khơng thuộc hàng thừa kế của ông bà. Xuất

phát từ lý do này, để đảm bảo quyền lợi cho những người cháu ruột, pháp luật
đã quy định cháu ruột là người thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà nội,
ngoại nếu ông bà nội, ngoại chết.
- Mối quan hệ thừa kế giữa anh chị ruột với em ruột và ngược lại:
Mặc dù pháp luật khơng quy định cụ thể nhưng có thể hiểu anh chị em
ruột là anh chị em, cùng cha hoặc cùng mẹ sinh ra nên căn cứ để xác định mối
quan hệ này là quan hệ thuyết thống. Trong gia đình, nếu khơng cịn bố mẹ thì
các anh, chị, em phải u thương chăm sóc ni dưỡng nhau. Trước đây, theo
thơng tư 594/NCPD và thông tư 81/TANDTC quy định anh, chị, em nuôi
được thừa kế của nhau. Nhưng trên thực tế, khái niệm anh chị, em nuôi chưa
bao giờ tồn tại nên pháp luật đã loại trừ và bãi bỏ quy định này. Do vậy, nếu
anh chị ruột chết trước em ruột thì em ruột được hưởng thừa kế của anh, chị
ruột và ngược lại.
15


Ngồi ra pháp luật cịn quy định rõ con riêng của vợ hoặc chồng không
phải là anh em ruột của nhau; con nuôi không phải là anh chị em ruột đối với
con đẻ của bố hoặc mẹ nuôi nên không được nhận thừa kế từ những anh chị
em đó những vẫn được nhận thừa kế từ anh chị em ruột của chính mình và
ngược lại.
c) Hàng thừa kế thứ ba:
Ở hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
- Mối quan hệ thừa kế giữa cụ nội với chắt nội, cụ ngoại với chắt ngoại
và ngược lại:
Cụ nội là người thân sinh ra ông nội hoặc bà nội, cụ ngoại là người thân
sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người chết. Nên mối quan hệ giữa cụ nội,

cụ ngoại với chắt là mối quan hệ huyết thống. Trường hợp cụ nội, cụ ngoại
chết mà khơng có người thừa kế là con hoặc cháu hoặc có người thừa kế
nhưng họ từ chối nhận di sản hoặc khơng có quyền hưởng di sản thì chắt sẽ
được hưởng di sản của cụ. Tương tự như qua hệ thừa kế giữa ông, bà (nội,
ngoại) với cháu ruột, cụ nội ngoại sẽ thuộc hàng thừa kế thứ ba của chắt ruột
và ngược lại.
- Mối quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột,cậu ruột với cháu
ruột và ngược lại:
Quan hệ thừa kế giữa những người này với nhau cùng là dựa trên mối
quan hệ huyết thống. Bác ruột là anh hoặc chị của cha hoặc mẹ người chết,
chú ruột là em trai của cha người chết, cô ruột là em gái của cha người chết,
cậu ruột là em trai của mẹ người chết, dì ruột là em gái của mẹ người chết.
Nhưng ở mỗi nơi có một cách dùng từ khác nhau ví dụ ở miền trung thì bác
chỉ có nghĩa là anh trai của bố nên ta có thể hiểu tóm gọn lại bác ruột, cơ ruột,
dì ruột, cậu ruột, chú ruột là những anh chị em ruột của bố hoặc mẹ và từ đó
16


xác định ngược lại được cháu ruột phải là con đẻ của những anh chị em ruột
của người chết. Những người này theo pháp luật được xếp hưởng thừa kế vào
hàng thứ ba của nhau.
III. Một số điểm hạn chế về diện và hàng thừa kế:
Trong những năm qua, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
các tranh chấp dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng. Trong số đó, các
tranh chấp về thừa kế chiếm một tỷ lệ đáng kể và chủ yếu xoay quanh việc
chia di sản thừa kế. Đây là những tranh chấp chủ yếu địi hỏi cơng bằng về
quyền lợi nên cần phải xác định một cách thấu tình đạt lý, vì thế, địi hỏi các
cấp Tịa án có thẩm quyền phải xác định đúng những người được quyền
hưởng thừa kế và theo thứ tự ưu tiên nhất định, tránh trường hợp nhầm lẫn để
đảm bảo quyền lợi của đương sự.

Một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu khi giải quyết tranh chấp thừa
kế là việc xác định diện và hàng thừa kế. Nếu xác định sai về những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật không những không giải quyết dứt điểm vụ
án mà còn kéo dài thời gian, tiêu tốn công sức và tiền bạc của các bên liên
quan. Ngoài việc xác định đúng người thừa kế theo pháp luật, Tòa án nhân
dân còn phải kết hợp hài hòa giữa thực tiễn và lý luận để có sự linh hoạt mềm
dẻo nhằm ổn định đời sống, trật tự xã hội.
Những năm gần đây, hiệu quả xét xử của tòa án nhân dân các cấp ngày
càng nâng cao. Thực tế xét xử của tòa án nhân dân các cấp đã có gắng trong
việc nâng cao trình độ, bám sát các quy định của Bộ luật dân sự và các văn
bản pháp luật của các ngành có liên quan để xác định đúng hướng trong việc
giải quyết các tranh chấp thừa kế để đạt hiệu quả cao.Tuy nhiên, theo em còn
nhiều quy định trong Bộ luật dân sự về thừa kế chưa thực sự phù hợp với tình
hình thực tế hay chưa rõ ràng khiến các Tồ án gặp nhiều khó khăn khi áp
dụng. Cụ thể như sau:

17


Thứ nhất, ở hàng thừa kế thứ hai, cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất có một người thừa kế là
cha đẻ (mẹ đẻ) bị mất quyền hưởng di sản hoặc có nhiều người thừa kế nhưng
tất cả đều khơng có quyền hưởng di sản hoặc khơng nhận di sản,thì cháu cùng
với anh chị em ruột của người chết sẽ được hưởng di sản của ông bà. Tuy
nhiên, trong thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt khác, quan hệ giữa
cháu nội với ông nội, bà nội là quan hệ huyết thống trực hệ và nếu xét về quan
hệ gia đình truyền thống thì giữa ông nội, bà nội và cháu nội là một gia đình,
cháu phải ni dưỡng thờ cúng ơng bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản
trước anh chị em ruột của người chết. Trường hợp khơng có cháu hoặc chắt
thì anh chị em ruột được hưởng di sản của người chết.

Thứ hai, theo quy định tại Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì
cháu ở hàng thứ hai chỉ được nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại khi hàng thứ nhất có một người thừa kế duy nhất còn. Trường hợp này
nếu cha đẻ, mẹ đẻ của cháu khơng nhận hoặc khơng có quyền nhận di sản của
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì di sản chia cho người thừa kế hàng
thứ hai là cháu. Ngược lại, nếu hàng thứ nhất nhiều người thừa kế trong đó có
một người là cha hoặc mẹ cháu khơng nhận di sản, khơng có quyền nhận di
sản…thì phần di sản lẽ ra cha mẹ cháu được hưởng sẽ chia cho những người
thừa kế cùng hàng là cơ, dì, chú, bác ruột của cháu. Trường hợp này vơ hình
chung những người thừa kế hàng thứ nhất được hưởng nhiều hơn một suất
theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền lợi của các cháu, pháp luật
nên cho phép cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu không được
hưởng.
Thứ ba, khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự quy định những người thừa
kế hàng sau chỉ được hưởng di sản nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do
đã chết…Quy định này mâu thuẫn với Điều 677 là cháu thừa kế thế vị khi bố
hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại, vì
vậy nếu cháu thế vị thì hàng thứ hai hoặc thứ ba khơng được hưởng di sản.
18


Pháp luật dân sự Việt Nam về thừa kế tuy đã chặt chẽ những vẫn còn
một số điểm chưa thực sự hợp lí như trên. Hi vọng những điểm này sẽ được
khắc phục trong thời gian sớm nhất.

C. Kết thúc vấn đề:
Như vậy, có thể thấy trong việc thừa kế theo pháp luật thì diện và hàng
thừa kế là hai vấn đề vơ cùng quan trọng vì nó xác định phạm vi và thứ tự
được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Nếu khơng có
những quy định về diện và hàng thừa kế sẽ dẫn đến nhiều tranh chấp liên

quan, ảnh hưởng không tốt đến những giá trị đạo đức truyền thống lâu đời và
tình cảm cha con, vợ chồng, anh em… Chính vì vậy mà diện và hàng thừa kế
luôn được pháp luật quan tâm, bảo hộ. Hiện nay quy định của pháp luật về
vấn đề này tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc
phục. Hi vọng những điểm hạn chế này sẽ được sửa đổi và bổ sung trong thời
gian sớm nhất.

19


D. Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn.
2. Thông tư số 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19/8/1956.

3. Thơng tư số 594/NCPL của Tịa án nhân dân tối cao, ban hành ngày
27-8-1968
4.Thơng tư số 81/TANDTC của Tịa án nhân dân tối cao, ban hành
ngày 24/7/1981.
5. Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng Nhà nước ban hành vào ngày
30/8/1990.
6. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm được Quốc hội khóa XI
thơng qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
7. Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
8. Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội nagỳ 9/6/2000.
9. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/10/2001.

20




×