Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.81 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ…………… ……………………………..................................3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……… …………………………………………….3
I.Khái quát chung về người bào chữa trong TTHS………………..……………..3
1. Khái niệm về người bào chữa trong TTHS…………….…………..………….3
2. Phân loại người bào chữa…………………………..…….…..………………..4
3. Ý nghĩa việc quy định về sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình
sự…………………………………………………………………………………6
II. Địa vị pháp lý của người bào chữa…………………..………………………..7
1. Khái niệm…………………..…………………………………………………7
2. Địa vị pháp lý của người bào chữa theo BLTT 2003……………………...…..7
2.1. Quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền của người bào chữa trong
TTHS……………………………………………………………………………..7
2.2. Quy định của BLTTHS năm 2003 về nghĩa vụ của người bào chữa trong
TTHS…………………………………………………………...……………….12
III. Thực tiễn thực hiện những quy định của BLTTHS năm 2003 về địa vị pháp
lý của người bào chữa và những giải pháp nhằm nâng cao đại vị pháp lý của
người bào chữa…………………………………………………………………15
1. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người
bào chữa…………………………………………………………………………15
2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của người bào
chữa…………………………………………………………………………….17
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ………………………………………………………..19
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………….………………………19

1


A.

ĐẶT VẤN ĐỀ.



Kể từ khi giành được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự (TTHS). Để
bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp, pháp luật cho phép họ có quyền mời người
khác bào chữa hoặc tự bào chữa. Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành
một chế định pháp lý về người bào chữa và địa vị pháp lý của người bào chữa.
Trong TTHS địa vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và hiệu quả của
công việc bào chữa. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề này, em xin được giải quyết
đề bài “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Tố tụng hình sự”.

2


B.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

I. Khái quát chung về người bào chữa trong TTHS.
1.

Khái niệm về người bào chữa trong TTHS.

Người bào chữa có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người có nguy cơ bị buộc tội. Theo Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người
bào chữa có thể là: luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, bào chữa viện nhân dân. Như vậy, ta có thể hiểu người bào chữa là người tham
gia tố tụng được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ lựa
chọn hoặc được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu chỉ định và cấp giấy chứng nhận,

tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm chứng minh người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Phân loại người bào chữa.
Người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình
nếu họ có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, sử dụng các quyền mà
pháp luật quy định để bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
mình. Tuy nhiên, không phải bất kì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nào cũng có khả
năng tự thực hiện quyền này. Do trong nhiều trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo còn hạn chế về kiến thức pháp luật, do tâm lý lo lắng, căng thẳng về hậu quả
mình có thể gánh chịu của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng mà không thể thực
hiện quyền bào chữa cho mình có hiệu quả. Vì vậy, để đảm bảo quyền bào chữa cho
người bị buộc tội, bên cạnh việc quy định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền
nhờ người khác bào chữa.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 56 BLTTHS năm 2003, người bào chữa có
thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào
chữa viên nhân dân.


Luật sư:

3


Khái niệm luật sư được quy định tại Điều 2 Luật luật sư năm 2006 như sau:
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật
này, thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
Muốn trở thành người bào chữa trong TTHS với tư cách là luật sư thì theo
quy định của Luật luật sư năm 2006 và BLTTHS, người đó phải đáp ứng đủ tiêu

chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của Luật luật sư và được người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn, hoặc được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu chỉ định. Muốn trở thành người bào
chữa trong vụ án hình sự, luật sư phải được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận và
cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.
Luật luật sư năm 2006 quy định về tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề
luật sư là như sau: Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe đảm bảo hành
nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư, phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và phải
gia nhập một Đoàn luật sư.
Luật sư chỉ trở thành người bào chữa khi họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Luật sư là người bào chữa
được đào tạo để hoạt động một cách chuyên nghiệp, tham gia tố tụng bbaor vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thực tiễn hoạt động
TTHS ở nước ta cũng cho thấy sự hiện diện của luật sư với tư cách là người bào
chữa trong các vụ án hình sự ngày càng phổ biến. Luật luật sư năm 2006 ra đời là cơ
sở pháp lý trong hoạt động nghề nghiệp luật sư, góp phần nâng cao chất lượng và số
lượng đội ngũ luật sư, giúp cho việc thực hiện tốt hơn công tác bào chữa và các dịch
vụ pháp lý khác.


Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Tại điểm c, Khoản 1, Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa
có thể là : “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Trên
tinh thần của Nghị quyết số 05/2005/ NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng
4



thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của BLTTHS
năm 2003 quy định tại Điểm 1.1 Mục 1 có hướng dẫn là: “Bị cáo, người đại diện
hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo là người chưa thành niên, có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định
sơ thẩm”. Và căn cứ theo Điều 144 Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cá gồm cha, mẹ, người giám hộ đương nhiên và
người giám hộ được cử.
Theo quy định của BLTTHS thì người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong các trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Do đó, sẽ không có
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên
nếu người này không có nhược điểm về tâm than hoặc thể chất.
Như vậy, theo các quy định về người đại diện hợp pháp trong TTHS, người
đại diện hợp pháp của người bị tạm gữ, bị can, bị cáo trong TTHS có vai trò rất quan
trọng. Họ là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người mà họ đại diện,
góp phần vào việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Người đại diện hợp pháp
còn là người giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về kiến thức pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án.


Bào chữa viên nhân dân.

Theo quy định tại điểm c, Khoản 1, Điều 56 BLTTHS năm 2003, bên cạnh
luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì bào chữa
viên nhân dân cũng có thể tham gia bào chữ trong tố tụng hình sự. Theo Khoản 2,
Khoản 3 BLTTHS năm 2003 có thể hiểu: Bào chữa viên nhân dân là người được Ủy
ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam , các tổ chức thành viên của mặt trận cử ra để bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Theo quy định trên có thể hiểu rằng những người không phải là thành viên

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cá tổ chức thành viên của mặt trận thì không được làm
người bào chữa và những người này tuy là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
5


Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận không được cử làm bào chữa viên nhân
dân tham gia tố tụng thì cũng không được làm người bào chữa.
3. Ý nghĩa việc quy định về sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng
hình sự.
3.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội.
* Ý nghĩa chính trị.
Thứ nhất, việc pháp luật quy định sự tham gia của người bào trong TTHS thể
hiện bản chất dân chủ của nhà nước trong TTHS.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bởi vậy mà Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm và nêu cao việc bảo vệ quyền công dân nói chung và quyền
bào chữa nói riêng. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào cữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo được ghi nhận tại Điều 11 BLTTHS thể hiện quan điểm của Nhà nước ta
nhằm tôn trọng và đề cao quyền con người hơn nữa, quy định này nhằm đảm bảo
cho những người trình bày quan điểm của mình đối với việc buộc tội, đảm bảo cho
quyền lợi của công dân không bị xâm phạm do hành vi trái pháp luật hoặc bị hạn
chế do những hành vi vi phạm từ cơ quan tiến hành tố tụn, đó cũng là điều kiện cần
cho việc giải quyết vụ án.
Thứ hai, việc tham gia của người bào chữa góp phần quan trọng trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một trong những nội dung cơ
bản của quyền con người, được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Người bào chữa
tham gia TTHS giúp cơ quan nhà nước đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu
quả, góp phần xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện
nay.
Người bào chữa tham gia tố tụng thể hiện quyền năng của mình trên cơ sở
những quy định của pháp luật để quyền công dân được đảm bảo, đó cũng là yếu tố

quan trọng để Nhà nước được phát triển vững mạnh.
* Ý nghĩa xã hội.

6


Pháp luật quy định việc tham gia tố tụng hình sự cho người bào chữa thể hiện
tính nhân đạo sâu sắc của Nhà nước. Pháp luật quy đinh trong trường hợp bị can, bị
cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất,
người phạm tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình các cơ quan tiến hành tố
rụng có trách nhiệm phải đảm bảo người bào chữa trong trường họp bị can, bị cáo
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, để đảm bảo các
quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Việc tham gia tố tụng hình sự của người bào chữa giúp việc nâng caao ý thức
pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật trong cộng đồng góp phần không nhỏ vào công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của công dân.
3.2. Ý nghĩa pháp lý.
Thứ nhất, người bào chữa tham gia quá trình giải quyết vụ án đảm bảo thực
hiện nguyên tắc cơ bản “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, người bào chữa tham gia quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng góp
phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện và xử lý công minh, khách quan mọi
hành vi phạm tội.
II. Địa vị pháp lý của người bào chữa.
1.

Khái niệm.

Theo từ điển luật học thì: “Địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật thể hiện
thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như

giới hạn khả năng của các chủ thể trong các hoạt động của mình”. Thông qua địa vị
pháp lý có thể phân biệt chủ thể này với chủ thể pháp luật khác đồng thời cũng có
thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ
pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu địa vị pháp lý của của người bào chữa là tổng thể các
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người bào chữa khi tham gia quá trình

7


tố tụng vụ án hình sụ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.
2. Địa vị pháp lý của người bào chữa theo BLTT 2003.
2.1.

Quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền của người bào chữa trong
TTHS.

Quyền của người bào chữa được quy định tại Khoản 2, Điều 58 BLTTHS
năm 2003. Cụ thể, người bào chữa có các quyền sau đây:
-

Quyền tham gia tố tụng hình sự của người bào chữa từ khi có quyết

định tạm giữ.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì luật sư bào chữa tham gia vào quá
trình tố tụng kể từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang truy nã hay trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81, 82 BLTTHS
năm 2003). Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh
quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định để người bào chữa tham gia từ

khi kết thúc giai điều tra. Quy định này thể hiện sự dân chủ và tiến bộ trong tố tụng
hình sự, đảm bảo cho việc tạm giữ của cơ quan điều tra là đúng pháp luật và có căn
cứ, tránh sự lạm quyền từ phía cơ quan điều tra bắt tạm giam, tạm giữ không cần
thiêt, việc thực hiện quyền này cũng giúp cho người bào chữa được tiếp xúc với vụ
việc ngay từ đầu, tạo thuận lợi cho việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can ở các giai đoạn sau.
Đối chiếu với BLTTHS 1988 thì BLTTHS 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung về
quyền của người bào chữa thể hiện sự tiến bộ và dân chủ trong tố tụng hình sự trước
hết thể hiện ở quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa: Trường
hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa
tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Việc tham gia tố tụng của người bào
chữa từ giai đoạn này là rất cần thiết, bởi một công dân tham gia vào quá trình tố
tụng trở thành đối tượng của các hoạt động tố tụng bắt đầu từ giai đoạn này thì họ
cũng có quyền được bào chữa, bảo vệ từ khi đó. Đặc biệt trong giai đoạn này, tâm lý

8


của nguoiwd bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn hoang mang, chưa ổn định nên rất cần
những ngường hiểu biết pháp luật giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can
và nếu điều tra viên cho phép thì được hỏi cung người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có mặt trong các hoạt động điều tra khác, xem xét về các biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người
mình bào chữa.
Đây là một quy định mới của BLTTHS 2003 so với BLTTHS năm 1988, là sự
mở rộng thêm quyền cho người bào chữa. Việc người bào chữa có quyền được có
mặt trong các hoạt động điều tra sẽ giúp cho họ theo dõi được quá trình điều tra và
tình hình thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra, từ đó phát hiện ra những tình tiết
có lợi và cần thiết cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng tại phiên

tòa.
Sự có mặt của người bào chữa sẽ giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ổn
định hơn về mặt tâm lý và đồng thời cũng góp phần ngăn ngừa được vi phạm pháp
luật có thể xuất hiện từ phía các cán bộ điều tra như hạn chế các quyền của họ, có
hành vi bức cung, dung nhục hình.
Người bào chữa còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và có mặt
trong các hoạt động điều tra khác, xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia
của mình và các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa.
- Quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi
cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Đây là một quy định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988.
Quy định mới này giúp cho người bào chữa chủ động về thời gian có thể tham dự
cuộc hỏi cung, kịp thời nắm bắt nội dung vụ án ngay từ đầu. Điều này tạo điều kiện
thuận lợi cho người bào chữa thu thập tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc bào chữa.
- Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng. người giám định, người
phiên dịch

9


Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật địn và xét thấy việc những
người này tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người mà mình bào chữa. Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định mở rộng
quyền cho người bào chữa, trước đây khi BLTTHS năm 2003 chưa có hiệu lực thi
hành, người bào chữa chỉ có quyền yêu cầu thay đổi thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân… chứ không có quyền đề nghị thay đổi Điều tra viên. Việc mở rộng quyền
này làm cho người bào chữa góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được
vô tư, khách quan, đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến lợi ích của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo được công bằng, chính xác.

- Quyền thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ
cơ quan, tổ chức cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của bị can bị cáo. Vì vậy, việc người bào chữa thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa không phải là hoạt động tố tụng, không có giá trị bắt
buộc những người, tổ chức, cơ quan được yêu cầu cung cấp tài liệu, đồ vật, hay
những tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa là hoàn toàn tự nguyện. Đây là
biện pháp nghiệp vụ cần thiết để người bào chữa có tài liệu, chứng cứ để thực hiện
nhiệm vụ bào chữa có hiệu quả. Những tài liệu, đồ vật, tình tiết mà người bào chữa
thu thập sẽ được Cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm chứng cứ để chứng minh sự vô
tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp cho
việc đánh giá các tình tiết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm xử
lý đúng người, đúng tội.
- Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu theo hướng có lợi
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
10


án đánh giá một vấn đề nào đó thuộc nội dung vụ án được khách quan và toàn diện.
Người bào chữa có quyền đưa ra yêu cầu như: triệu tập thêm người làm chứng,
trưng cầu giám định… nếu xét thấy điều đó là cần thiết và phải có lợi cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Những yêu cầu này một mặt đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mặt khác giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án làm sang tỏ sự thật của vụ án.
- Quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
Quy định này sẽ giúp cho người bào chữa được gặp trực tiếp người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo, tạo điều kiện cho hai bên trao đổi thông tin, giúp người bào chữa
thu thập thêm những tình tiết của vụ án từ người mà họ đảm nhận việc bào chữa,
nắm được thêm các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, cũng như tâm tư,
nguyện vọng của người được bào chữa. Đây là cơ sở để người bào chữa thu thập
những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. Mặt khác,
qua việc gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa sẽ có sự giải thích, tư vấn cần thiết về
pháp luật cho bị can, bị cáo để tránh họ có những hành động đáng tiếc, giúp họ có
thái độ khai báo thành khẩn để có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi Tòa án xét
xử.
- Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Qua việc đọc hồ sơ, người bào chữa sẽ nắm được toàn bộ nội dung vụ án,
nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng
nặng, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người mà họ nhận bào
chữa. Trong khi đọc hồ sơ, người bào chữa còn có quyền ghi chép và sao chụp
những tài liệu cần thiết cho việc bào chữa. Qua đó, người bào chữa cũng kịp phát
hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, trên cơ sở
đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nài cần thiết đối với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
- Quyền tham gia xét hỏi, trình bày lời bào chữa, tranh luận tại phiên tòa.

11


Việc tham gia hỏi và tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong toàn bộ quá trình bào chữa. Tại phiên tòa vai trò của người
bào chữa được thể hiện rõ nét nhất qua chính hoạt động này. Bởi vì, chính tại phiên
tòa, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử được thể hiện một cách đồng thời.
Người bào chữa có quyền lựa chọn hỏi về những vấn đề gì và hoirnhuwngx người
tham gia tố tụng nào trong số những người tham gia tố tụng được tòa án triệu tập.

Khi tranh luận. người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ nhằm
làm sáng tỏ những tình tiết, chứng cứ theo hướng gỡ tội, hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho bị cáo, tranh tụng bình đẳng với Kiểm sát viên để bảo vệ quyền lợi của
bị cáo.
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
Khi tham gia tố tụng, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật trong các quyết
định hay hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc những người có
thẩm quyền, người bào chữa có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi tố tụng
đó. Người bào chữa có quyền khiếu nại theo những trình tự và thủ tục được quy định
tại Chương XXXV quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Pháp luật
quy định cho người bào chữa có quyền này nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng
luôn mang tính khách quan và toàn diện, tránh được những oan sai ảnh hưởng đến
quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó việc quy định người bào
chữa có quyền này nhằm đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong tố
tụng hình sự.
- Quyền xem biên bản phiên tòa , yêu cầu ghi những sửa đổi bổ sung vào
biên bản phiên tòa và kí xác nhận.
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người
chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo
quy định của tại điểm b, Khoản 2, Điều 57 BLTTHS năm 2003.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa thực hiện quyền
kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp
12


của bị cáo. Tất nhiên, kháng cáo đó phải theo hướng có lợi cho bị cáo đúng như
nhiệm vụ bào chữa của họ tại phiên tòa. Người bào chữa chỉ được kháng cáo đối với
những bản án mà bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất theo quy định tại Khoản 2, Điều 57 BLTTHS năm 2003. Vì những đối

tượng này chưa có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, không thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vì vậy,
người bào chữa giúp đỡ họ về mặt pháp lý sẽ đảm bảo được tính công bằng, nhân
đạo của pháp luật nước ta.
2.2. Quy định của BLTTHS năm 2003 về nghĩa vụ của người bào chữa trong
TTHS.
Theo Điều 58, BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có các nghĩa vụ sau
đây:
- Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do luật định để làm
sang tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cô tội những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trong phạm vi mà pháp luật cho phép người bào chữa có nghĩa vụ thực hiện
các hành vi tố tụng khác nhau để bào chữa có hiệu quả cho người bị buộc tội. Người
bào chữa không được làm bất cứ việc gì làm xấu đi tình trạng của người bị buộc tội.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, nếu thu thập được tài liệu, đồ vật có liên quan đến
vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát,
Tòa án. Việc giao nhận các tài lieuj, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến
hành tố tụng phải lập thành biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS năm 2003.
- Người bào chữa có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Không phải bất kì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nào cũng có kiến thức về
pháp luật. Thực tế có những người khi thực hiện hành vi phạm tội do hiểu biết về
pháp luật hạn chế nên họ rất hoảng loạn có thể dẫn đến những hành động đáng tiếc.
Trong những trường hợp này, người bào chữa có vai trò rất quan trọng không chỉ là
người tư vấn, giúp đỡ về mặt pháp lý mà họ còn là nguồn động viện giúp cho những
13


người này có tâm lý ổn định, nhận thức được hành vi của mình, từ đó có thái độ ăn
năn, hối hận và tin tưởng vào sự khoan hồng của pháp luật.

-

Người bào chữa không được từ chối cho người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không có lý do chính đáng.
Người bào chữa nhận lời bào chữa khi được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời, hoặc theo yêu cầu chỉ định của Cơ quan
tiến hành tố tụng thì không được quyền từ chối bào chữa khi không có lý do chính
đáng. Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bởi vì, người bào chữa là người có thể tham gia suốt quá trình giải quyết vụ án, họ
là người nắm bắt được chứng cứ, tình tiết vụ án, nếu từ chối bào chữa có người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ làm cho quá trình thu thập chứng cứ bị gián đoạn gây ảnh
hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như gây ảnh hưởng
đến quá trình giải quyết vụ án.
-

Người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; không

được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp
tài liệu sai sự thật.
Người bào chữa là người có kiến thức và hiểu biết về pháp luật. Vì vậy, khi
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì trước
hết họ phải tôn trong sự thật và pháp luật, sử dụng pháp luật làm phương tiện thực
hiện mục đích bào chữa. Nếu họ mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật thì không những không bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn dẫn đến hành
vi bi phạm pháp luật tố tụng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của
pháp luật.
-


Người bào chữa có nghĩa vụ có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập

của Tòa án.
Người bào chữa có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Mọi sự
chuẩn bị của người bào chữa là nhằm bào chữa cho bị cáo trước tòa. Sự giúp đỡ và
bảo vệ của người bào chữa tại phiên tòa là không thể thiếu được đối với bị cáo. Tại
14


phiên tòa, trong quá trình xét hỏi, tranh luận, người bào chữa có thể phát hiện hoặc
cung cấp thêm những tình tiết mới có lợi cho bị cáo, nếu họ vắng mặt thì đây có thể
coi là môt bất lợi cho bọ cáo mặc dù có thể họ đã gửi trước bản bào chữa cho Tòa
án. Còn trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo Khoản 2, Điều 57
BLTTHS năm 2003, sự vắng mặt của người bào chữa sẽ làm chậm quá trình giải
quyết vụ án.
-

Người bào chữa có nghĩa vụ không được tiết lộ bí mật điều tra mà

mình đã biết được khi thực hiện việc bào chữa , không được sử dụng tài liệu đã
ghi chép, sao chụp được trong vụ án hình sự vào mục đích xâm phạm lợi ích của
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức cá nhân.
Pháp luật quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật điều tra mà
mình biết được khi thực hiện nhiệm vụ. Nhằm đảm bảo những bí mật thuộc vè nội
dung vụ án được xác định trong quá trình điều tra nói riêng và quá trình giải quyết
vụ án nói chung. Quy định nghĩa vụ này cho người bào chữa là cần thiết trong việc
bảo vệ bí mật quốc gia và lợi ích chung của toàn xã hội.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt

hại theo quy định của pháp luật.
III. Thực tiễn thực hiện những quy định của BLTTHS năm 2003 về địa vị
pháp lý của người bào chữa và những giải pháp nhằm nâng cao đại vị pháp lý
của người bào chữa.
1. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của người bào chữa.
- Những kết quả đã đạt được trong thời gian vừa qua khi thực hiện những
quy định của BLTTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của người bào chữa.
Theo thống kê của các cơ quan chức năng, tính đến thời điểm hiện nay, trong
cả nước đã thành lập được 62/63 Đoàn luật sư với 5714 luật sư, hơn 2771 người tập

15


sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 2000 tổ chức hành nghề luật sư. Trong các
năm 2006-2010 đã có sự thay đổi rõ rệt về tỷ lệ các vụ án có người bào chữa tham
gia.
Bảng: Số vụ án hình sự có sự tham gia của người bào chữa.
Năm

Số vụ án

Số vụ có người bào chữa tham gia

Tỷ lệ (%)

2006

61 643


6 007

9.6

2007

61 822

5 933

9.5

2008

65 073

7 355

11.3

2009

68 425

7 255

10.6

2010


67 421

7 513

11.0

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tối cao
-

Một số hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quy định của

BLTTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của người bào chữa.
Thứ nhất, người bào chữa còn gặp khó khăn khi thực hiện quyền có mặt khi
lấy lời khai, hỏi cung và tham gia hỏi cung.
Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung và được tham gia
xét hỏi nhưng cũng bị hạn chế do luật quy định phải được sự đồng ý của Điều tra
viên. Thông thường ngay việc gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã gặp cản trở
nên việc lấy lời khai, được tham gia trong các buổi hỏi cung cũng rất hạn chế, hơn
nữa pháp luật lại quy định người bào chữa chỉ được hỏi cung khi Điều tra viên đồng
ý.
Thứ hai, người bào chữa còn gặp vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện
quyền được báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung, quyền được gặp bị can, bị cáo
đang bị tạm giam. Luật quy định người bào chữa có quyền được báo trước thời gian
địa điểm hỏi cung, quyền được gặp mặt người bị tamh giữ, bị can, bị cáo nhưng trên
thực tế quyền này vẫn chưa được đảm bảo do các quy định của pháp luật chưa thật
rõ ràng và các sự hợp tác của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa cao.
16


Thứ ba, vướng mắc khó khăn trong việc người bào chữa thực hiện quyền

đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau
khi kết thúc giai đoạn điều tra. Bởi vì trong nhiều trường hợp, cơ quan tiến hành tố
tụng không hợp tác giúp đỡ người bào chữa trong quá trình tìm kiếm, thu thập
chứng cứ, tài liệu. Mặt khác, khái niệm “tài liệu liên quan đến vụ án” vẫn chưa được
giải thích cụ thể.
Thứ tư, quy định của pháp luật cho phép người bào chữa vắng mặt tại phiên
tòa xét xử làm hạn chế hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ năm, người bào chữa thực hiện quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại
phiên tòa còn gặp nhiều khó khăn vì trong một số trường hợp tranh luận tại phiên
tòa, ý kiến có căn cứ của người bào chữa đưa ra tranh luận với phía buộc tội lại
không được Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên chấp nhận bà vệc không chấp
nhận cũng không đưa ra được lý do thỏa đáng và hợp lý.
Có thể thấy nguyên nhân của những vướng mắc trên là do:
Một là do có sự hạn chế của các quy định pháp luật, chưa có cơ chế bảo đảm
để người bào chữa thực hiện các quyền của mình.
Hai là do các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự tạo điều kiện cho người
bào chữa thực hiện quyền theo quy định của pháp luật.
2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của
người bào chữa.
- Kiến nghị sửa đổi điểm a, Khoản 2, Điều 58: Quy định phải có sự đồng ý
của Điều tra viên thì người bào chữa mới có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Như đã nói ở trên, để người bào chữa được tham gia hỏi cung bị can cần phải
có sự đồng ý của Điều tra viên, điều này làm hạn chế quyền của người bào chữa.
Như vậy, có thể sửa điểm a, Khoản 1, Điều 58 như sau: “2. Người bào chữa có
quyền: a. Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can về các vấn đề của vụ
án mà Điều tra viên không được hạn chế và có mặt trong những hoạt động điều tra
khác…”.

17



- Kiến nghị sửa đổi điểm b, Khoản 2 Điều 58 quy định người bào chữa có
quyền: Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để
có mặt khi hỏi cung bị can. Mặc dù điều này đã được quy định trong Luật nhưng
vẫn chưa cụ thể, thời hạn báo trước chậm nhất là bao nhiêu ngày…
- Kiến nghị bổ sung quy định tại Điều 190 BLTTHS 2003 quy định người bào
chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Như đã phân tích ở trên, nên sửa đổi điều luật
thành: “Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa, nếu người bào chữa vắng
mặt nhưng gửi trước bản bào chữa và được bị cáo đồng ý thì Tòa án vẫn mở phiên
tòa xét xử. Trường hợp bị cáo đề nghị hoãn phiên tòa thì hội đồng xét xử phải hoãn
phiên tòa”.
Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa:
-

Cần tích cực tuyên truyền ý thức pháp luật của người dân, để họ hiểu

rõ hơn vị trí, vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự, nhằm tăng cường hơn
nữa những vụ án người bào chữa tham gia theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo hay người đại diện của họ.
-

Tiếp đó có những biện pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của người tiến

hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng.
-

Các trại giam, trại tạm giữ cần nâng cấp về phương tiện để đảm bảo

cho việc người bào chữa có thể giao tiếp một cách tốt nhất đối với người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.


C.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ.

18


Trên đây là một số nét cơ bản về địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự và cơ chế bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trên thực tế.
Mặc dù các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người bào chữa trong
BLLTHS năm 2003 là rất tiến bộ nhưng vẫn còn một số vướng mắc cần được quy
định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn. Mặt khác, muốn tăng hiệu quả về việc
thực hiện quyền và lợi ích của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay thì trước hết
người bào chữa cần củng cố thêm kiến thức pháp luật, nâng cao hiểu biết pháp
luật…sau đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện của họ cũng cần
nhận thức rõ vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự. .. Tiến tới xây dựng
đội ngũ người bào chữa chuyên nghiệp, thông thạo chuyên môn, am hiểu pháp luật,
mẫu mực về đạo đức, có trình độ pháp lý cao.

D.
1.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Đỗ Đình Nghĩa, Địa vị pháp lý của người bào chữa trong TTHS Việt

Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2004.
2.


Đỗ Thị Loan, Địa vị pháp lý của luật sư bào chữa trong tố tụng hình

sự, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011.
3.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

19



×