Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN VÀ THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.38 KB, 11 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế thể hiện thái độ của Nhà
nước đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử
phạt sẽ là người thay mặt nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước quyết định áp dụng
biện pháp xử phạt thích hợp với một chủ thể vi phạm trên thực tế. Các hoạt động của
Nhà Nước đều có đặc tính chung là phải tuân theo đúng thủ tục pháp lí nhất định. Nghĩa
là phải tuân theo các quy định của pháp luật về thứ tự các công việc phải tiến hành, nội
dung cụ thể của từng công việc và thực hiện công việc đó. Việc đặt ra các thủ tục pháp lí
nhằm xác đinh nội dung và quy trình thực hiện các công việc một cách hợp lí giúp cho
hoạt động của Nhà Nước tiết kiệm được thời gia, công sức mà lại có kết quả cao. Vì thế,
thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là một trong những nội dung quan
trọng của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

NỘI DUNG
I.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN VÀ THỦ TỤC XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH

1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền XPVPHC thuộc về các cơ quan: UBND
các cấp, cơ quan CAND, bộ đội biên phòng, cơ quan cảnh sát biển, cơ quan hải quan, cơ
quan kiểm lâm, cơ quan thuế, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thanh tra chuyên
ngành, giám đốc cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thủy nội địa, giám đốc cảng vụ
hàng không, TAND và cơ quan thi hành án dân sự. Đồng thời, pháp luật cũng quy định
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể của mỗi cán bộ có thẩm quyền xử phạt
trong các cơ quan này.
Ví dụ: theo quy định khoản 4 điều 31 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm
2002, Trưởng công an cấp huyện có quyền:
-


Phạt cảnh cáo;

-

Phạt tiền đến 10.000.000 đồng;

-

Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền;

-

Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;

-

Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra quy
định tại các điểm a, b, và d khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành
chính năm 2002.

Cần lưu ý rằng mức phạt tiền mà pháp luật quy định cho những người có thẩm
quyền xử phạt như trên là mức phạt cho một hành vi vi phạm hành chính. Tuy nhiên,

2


trong các van bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính được ban hành trước Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 điều này không được quy định rõ ràng. Và để
khắc phục tính thiếu rõ ràng trong các quy định về thẩm quyền xử phạt như đã phân tích
ở trên và bảo đảm cho việc thực hiện đúng thẩm quyền xử phạt, Điều 42 Pháp lệnh xử lí

vi phạm hành chính năm 2002 quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền XPVPHC: Chủ
tịch UBND là người có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản lí nhà nước ở địa
phương; người có thẩm quyền trong các cơ quan chuyên môn như hải quan, kiểm lâm,
thuế vụ, thanh tra chuyên ngành, lực lượng cảnh sát…có thẩm quyền xử phạt với những
hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành quản lí.
2. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
2.1.

Thủ tục đơn giản

Gọi là thủ tục đơn giản vì theo thủ tục này, khi phát hiện hành vi vi phạm hành
chính, người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt ngay. Điều kiện để áp dụng áp
dụng thủ tục này là hành vi vi phạm thì người có thẩm quyền đã được xác định được đó
là hành vi vi phạm nào, tính chất, mức độ vi phạm đồng thời người phát hiện vi phạm
phải có đủ thẩm quyền quyết định xử phạt tại chỗ. Chính vì vậy, pháp luật quy định thủ
tục này được áp dụng trong trường hợp phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000 đồng đến
100.000 đồng. Đó là những hành vi đơn giản và mức phạt được áp dụng phù hợp với
thẩm quyền của hầu hết các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
2.2.

Thủ tục xử phạt có lập biên bản

Thủ tục này khác thủ tục đơn giản ở chỗ, khi phát hiện hành vi vi phạm, người có
thẩm quyền xử phạt không ra quyết định ngay mà phải lập biên bản vi phạm hành chính,
sở dĩ trong trường hợp này cần phải lập biên bản vì:
- Hành vi vi phạm phức tạp nên trong thời gian ngắn ( ngay khi phát hiện vi
phạm) và với những biểu hiện bên ngoài của vi phạm được phân biệt một cách trực tiếp
thường không đủ để đánh giá chính xác loại vi phạm, tính chất, mức độ của vi phạm nên
không thể ra quyết định xử phạt ngay. Trong khi đó, xử phạt vi phạm hành chính phải
đúng người, đúng vi phạm nên viêc ghi lại các sự kiện, hiện tượng, tình tiết số liệu liên

quan đến vi phạm ( lập biên bản ) làm căn cứ để sau đó xử phạt là rất cần thiết.
- Hành vi vi phạm hành chính được phát hiện nhưng người phát hiện không đủ
thẩm quyền lại xử phạt, người có thẩm quyền lại không có mặt tại “ hiện trường” chứng
kiến hành vi vi phạm xảy ra nên cần lập biên bản để cung cấp thông tin cho người có
thẩm quyền ra quyết định xử phạt.
Như vậy, nếu thủ tục đơn giản tạo điều kiện xử lí vi phạm hành chính nhanh, gọn
thì thủ tục có biên bản đảm bảo xử phạt có cơ sở. Mặt khác, biên bản vi phạm hành
3


chính cũng là cơ sở để người xử phạt khiếu nại, khởi kiện cơ quan Nhà Nước có thẩm
quyền giải quyết vụ việc khiếu nại và xét xử vụ kiện đối với quyết định xử phạm vi
phạm hành chính. Việc quy định hai hình thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tạo sự linh
hoạt trong xử phạt, vừa nhanh chóng vừa chính xác trong những khả năng và điều kiện
cho phép. Tuy nhiên, xét về yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính nói
chung, việc quy định và áp dụng hai thủ tục nói trên có một số vấn đề chưa hoàn toàn
thỏa đáng.
II.

TÍNH HỢP LÍ CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN VÀ THỦ TỤC
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

1. Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền
Nghiên cứu hệ thống các quy định hiện hành liên quan đến thẩm quyền XPVPHC
cho thấy các chức danh có thẩm quyền đã được quy định tương đối đầy đủ. Ở các cấp,
các ngành, các lĩnh vực quản lí nhà nước đều có các chức danh được trao thẩm quyền
tiến hành hoạt động này. Đó là điều kiện quan trọng bảo đảm phát hiện nhanh chóng và
xử lí kịp thời mọi trường hợp vi phạm.
Thẩm quyền XPVPHC thể hiện tập trung và tương đối đầy đủ, rõ ràng trong Pháp
lệnh XLVPHC là căn cứ quan trọng và điều kiện thuận lợi để quy định cụ thể trong các

nghị định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lí nhà nước. Các nghị định này về cơ bản
đã bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ cảu hệ thống pháp luật quy định về thẩm quyền xử
phạt.
Việc quy định thêm chức danh có thẩm quyền XPVPHC trong một số đạo luật đã
phần nào đáp ứng đòi hỏi của quản lí nhà nước, kịp thời trao thẩm quyền XPVPHC trong
một số lĩnh vực quản lí chuyên ngành cho các chức danh mà Pháp lệnh XLVPHC chưa
quy định.
Có thể thấy rõ sự phân hóa trong các quy định về thẩm quyền XPVPHC: người
giữ chức vụ cao hơn được giữ thẩm quyền rộng hơn (đương nhiên là trách nhiệm cũng
nặng nề hơn); thẩm quyền của chủ tịch UBND được quy định tương đối toàn diện hơn
các chức danh hoạt động trong từng ngành hoặc lĩnh vực quản lí cùng cấp; mức tiền phạt
trong các lĩnh vực quản lí khác nhau cũng được quy định khác nhau cho phù hợp với đặc
thù của lĩnh vực.
Nhìn chung, các quy định hiện hành đi theo hướng trao thẩm quyền XPVPHC gắn
với thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra (trừ
các chức danh có thẩm quyền XPVPHC ở cấp thấp). Điều đó góp phần quan trọng trong
việc giáo dục, răn đe người vi phạm, đảm bảo khắc phục hậu quả của vi phạm đồng thời
nâng cao hiệu quả công tác dấu tranh chống vi phạm hành chính.
4


Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giúp người có thẩm quyền xử
phạt đỡ lung túng trong việc xác định vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình hay không và giúp cấp trên của họ dễ dàng hơn trong đánh giá kết quả hoạt động
XPVPHC nói chung cũng như xác định trách nhiệm của cấp dưới trong nhưng vụ việc cụ
thể.
Các quy định về ủy quyền được đặt ra tương đối hợp lí. Pháp lệnh XLVPHC quy
định rõ người có thẩm quyền xử phạt chỉ ủy quyền trong trường hợp vắng mặt; nghị định
của Chính phủ số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 đặt ra những đòi hỏi rất khắt khe
khi tiến hành ủy quyền, đó là người có thẩm quyền xử phạt chỉ được ủy quyền cho cấp

phó trực tiếp của mình, việc ủy quyền phải được thể hiện thành văn bản và người được
ủy quyền không được ủy quyền tiếp.
2. Tính hợp lí của pháp luật về thủ tục XPVPHC
Thủ tục XPVPHC được quy định chủ yếu tại Chương VI Pháp lệnh XLVPHC
năm 2002. Trên cơ sở Pháp lệnh, ngày 14/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số
134/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm
2002, trong đó có các quy định về thủ tục XPVPHC (Chương IV Nghị định). Các Nghị
định quy định XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước chủ yếu viện dẫn các quy
định về thủ tục xử phạt của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Nghị định số
134/2003/NĐ-CP.
So với Pháp lệnh XLVPHC năm 1995, Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008 đã có nhiều quy
định cụ thể hơn về thủ tục xử phạt, bổ sung thêm một số quy định mới để đáp ứng yêu
cầu thực tế như: Điều 65 quy định thủ tục về hoãn chấp hành quyết định phạt tiền; Điều
68 quy định về chuyển quyết định XPVPHC để thi hành. Nói cách khác, những quy định
về thủ tục XPVPHC của Pháp lệnh XLVPHC đã thể hiện rõ hơn tính minh bạch của
pháp luật, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cải cách thủ tục hành chính.
2.1.

Đối với thủ tục đơn giản

Cho đến nay, Pháp lệnh XLVPHC vẫn duy trì hai loại thủ tục xử phạt: thủ tục đơn
giản và thủ tục có lập biên bản; tuy nhiên mức tiền xử phạt theo thủ tục đơn giản đã
được nâng từ 20.000 đồng (Pháp lệnh XLVPHC năm 1995) lên 200.000 đồng (Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung năm 2008). Việc nâng mức tiền phạt theo thủ tục đơn giản là cần thiết
để khắc phục tình trạng vụ việc vi phạm phải dồn lên cấp trên giải quyết. Thủ tục đơn
giản có hiệu quả không nhỏ trong việc xử phạt đối với những vi phạm nhỏ, đơn giản
trong một số lĩnh vực như trật tự, an toàn giao thông đô thị, vệ sinh đường phố vì thông
thường thủ tục đơn giản được áp dụng đối với vi phạm nhỏ, rõ ràng, không có tình tiết
5



phức tạp, cần phải xác minh thêm như vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược chiều. Đối với
những trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay,
cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết nhanh chóng,
trật tự quản lý cũng được nhanh chóng khôi phục.
2.2.

Đối với thủ tục xử phạt có biên bản

- Về người có thẩm quyền lập biên bản: quy định tại Điều 55 Pháp lệnh XLVPHC
(sửa đổi, bổ sung năm 2008). Theo quy định mới, người có thẩm quyền lập biên bản là
người có thẩm quyền đang thi hành công vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ,
ngành, địa phương mình. Quy định mới đã khắc phục được điểm chưa hợp lý với yêu
cầu “khi phát hiện vi phạm phải kịp thời lập biên bản” (Khoản 1 Điều 55 Pháp lệnh năm
2002) trong trường hợp người đang thi hành công vụ là những người không có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính (như kiểm hoá viên, nhân viên hải quan…) khi bổ
sung: “Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có trách nhiệm lập biên bản đối với
vi phạm mà mình phát hiện. Trong trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm
quyền xử phạt của người lập biên bản thì phải chuyển tới ngay người có thẩm quyền xử
phạt để tiến hành xử phạt”.
- Về nội dung của biên bản: được quy định tại Khoản 2 Điều 55 Pháp lệnh
XLVPHC. Điều 55 quy định nội dung của biên bản đã thể hiện rõ tính khoa học, chặt
chẽ và phù hợp với thực tế.
- Quyết định xử phạt, nội dung của quyết định xử phạt: quy định tại Điều 56 của
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002. Đây là một trong những điều của Pháp lệnh được sửa
đổi, bổ sung cơ bản theo quan điểm tạo điều kiện cho cơ quan, người có thẩm quyền xử
phạt trong việc quyết định xử phạt nhưng cũng phải bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân,
tổ chức (vụ việc vi phạm, dù phức tạp, cũng không thể quá kéo dài, gây ảnh hưởng
không tốt đến sinh hoạt, đời sống, đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tổ

chức). Điều 56 Pháp lệnh quy định ba loại thời hạn: 10 ngày đối với vụ việc đơn giản; 30
ngày đối với vụ việc phức tạp; đối với vụ việc phức tạp, cần có thời gian xác minh thêm,
thì người có thẩm quyền xử phạt được xin gia hạn thêm 30 ngày nữa. Quá các thời hạn
này, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử
phạt trục xuất. Điều 21 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP còn quy định cụ thể các trường
hợp mà quá thời hạn, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt:
trường hợp đã quá các thời hạn ra quyết định xử phạt, đã hết thời hạn mà người có thẩm
quyền xử phạt không xin gia hạn hoặc đã xin gia hạn nhưng không được cấp có thẩm
quyền cho phép gia hạn. Quá trình thực hiện pháp luật XPVPHC đã cho thấy, quy định
này là phù hợp với thực tế.

6


- Về xử lý tang vật, phương tiện bị tịch thu: Điều 61 Pháp lệnh XLVPHC năm
2002 đã quy định theo hướng: đối với tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị dưới 10
triệu đồng thì người quyết định tịch thu phải chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện tổ
chức bán đấu giá; tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên thì
người quyết định tịch thu phải giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh để bán
đấu giá theo quy định của pháp luật. Quy định này đảm bảo tính công khai, khách quan
và chính xác trong khi xử lý tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu.
III.

NHỮNG ĐIỂM HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN VÀ
THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

1. Mặt hạn chế của pháp luật về thẩm quyền
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, hệ thống quy định về thẩm quyền XPVPHC
cũng bộc lộ không ít hạn chế. Các quy định loại này được thể hiện trong một số lượng
lớn văn bản quy phạm pháp luật khiến cho việc theo dõi để thực hiện không đơn giản.

Hơn nữa, các văn bản này do nhiều cơ quan và người có thẩm quyền ban hành vào
những thời điểm khác nhau, dưới những hình thức khác nhau, có hiệu lực pháp lý khác
nhau và phạm vi thi hành khác nhau cho nên mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp trong hệ
thống là không thể tránh khỏi.
Pháp lênh XLVPHC đã quy định bằng cách liệt kê các chức danh có thẩm quyền
xử phạt và với mỗi chức danh cụ thể Pháp lệnh quy định rõ hình thức, mức xử phạt và
những biện pháp cưỡng chế khác mà chủ thể đó được áp dụng trong khi XPVPHC. Theo
cách quy định này, những chức danh nào được chỉ rõ trong Pháp lệnh mới có quyền xử
phạt. Cách quy định này có điểm tích cực là giúp cho việc xác đinh các chủ thể có thẩm
quyền một cách rõ ràng, đơn giản nhưng lại không linh hoạt để theo kịp với những thay
đổi về tổ chức trong các cơ quan quản lí và thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống vi
phạm hành chính.
Theo như Luật Thanh tra 2004 thì cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành gồm có thanh tra bộ và thanh tra sở, Pháp lệnh XLVPHC cúng quy định như vậy
nhưng một số văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí thấp hơn lại quy định thẩm quyền xử
phạt cho thanh tra cấp cục. Các quy định loại này có thể đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn
quản lí nhà nước trong một số lĩnh vực nhưng hiển nhiên là trái với Luật Thanh tra.
Các quy định hiện hành về thẩm quyền XPVPHC chưa thực sự gắn thẩm quyền
xử phạt của các chức danh với hành vi hoặc nhóm hành vi nhất định. Hạn chế này khiến
các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong những ngành có vi phạm quản lí bao gồm
nhiều lĩnh vực rất lung túng trong xác đinh thẩm quyền trong vụ việc cụ thể. Trong cải

7


cách tổ chức bộ máy hành chính theo hướng xây dựng các bộ quản lí đa ngành, đa lĩnh
vực thì hạn chế này càng thể hiện rõ.
Việc soạn thảo nghị định về XPVPHC trong từng lĩnh vực được giao cho cơ quan
quản lí nhà nước theo ngành, lĩnh vực chủ trì và hệ quả đương nhiên là nhiều nghị định
chỉ quy định thẩm quyền xử phạt cho các chức danh trong phạm vi ngành, lĩnh vực

tương ứng, không có những quy định về phân định thẩm quyền cũng như về thẩm quyền
của các chức danh thuộc ngành, lĩnh vực khác mà hoạt động quản lí có liên quan chặt
chẽ với nhau và đòi hỏi sự phối hợp thường xuyên. Đó là một trong những nguyên nhân
dẫn đến quá tải về số lượng vụ việc trong một số ngành, lĩnh vực và khó khăn trong việc
phối hợp giữa các chức danh có thẩm quyền xử phạt thuộc các ngành, lĩnh vực khác
nhau.
Nghiên cứu các quy định về ủy quyền XPVPHC cho thấy Pháp lệnh XLVPHC
không xác định rõ hình thức ủy quyền (bằng văn bản hay hình thức khác), cách thức ủy
quyền (theo vụ việc hay theo thời gian); nghị định 134/2003/NĐ-CP xác định việc ủy
quyền phải được thể hiện bằng văn bản nhưng không quy định ủy quyền theo vụ việc
hay theo thời gian dẫn đến sự không thống nhất trong cách hiểu và lúng túng trong thực
hiện. Pháp lệnh 04/2008UBTVQH12 đã bổ sung yêu cầu ủy quyền bằng văn bản nhưng
vẫn không quy định theo vụ việc hay theo thời gian.
2. Mặt hạn chế của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Điều 55 quy định nội dung của biên bản đã thể hiện rõ tính khoa học, chặt chẽ và
phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, một số quy định của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP
(hướng dẫn thi hành Pháp lệnh XLVPHC năm 2002) và mẫu biên bản để xử phạt (ban
hành kèm theo Nghị định) lại quá dài, mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến kết quả xử lý
vi phạm. Trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử lý đã chuyển vụ việc về giải
quyết theo thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều để tránh thủ tục lập biên bản,
dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thoả đáng. Qua thực tiễn thi hành
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, nhiều Bộ, ngành, địa phương cho rằng, các mẫu
quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm, mẫu quyết định xử phạt, mẫu biên bản
đều rườm rà, chưa phù hợp với thực tế; biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, theo quy định phải có hai người làm chứng, trên thực tế áp dụng rất khó, đề
nghị chỉ nên quy định một người làm chứng. Mẫu biên bản vi phạm hành chính chưa
hợp lý, vừa thừa, vừa thiếu, cụ thể: phần nội dung về điều, khoản quy định hành vi vi
phạm của tổ chức, cá nhân chỉ in một dòng nên khi có hai hành vi vi phạm thì phải lập
hai biên bản.


8


Quy định về việc quá thời hạn cũng có ý kiến cho rằng, thời hạn 30 ngày là quá ít
vì nhiều vụ việc cần phải có thời gian để xác minh, thu thập tài liệu liên quan đến nhiều
đối tượng, nhiều địa bàn hoặc một số đối tượng vi phạm hành chính sau khi lập biên bản
vi phạm hành chính đã bỏ đi khỏi địa phương trong thời gian dài, gây khó khăn cho việc
xử lý.
Một khó khăn khi thực thi Điều 56 là việc Pháp lệnh và Nghị định số
134/2003/NĐ-CP chưa quy định cụ thể thủ trưởng trực tiếp có quyền gia hạn thêm thời
hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm. Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh
cần gia hạn thời hạn ban hành quyết định xử phạt thì cần xin phép Thủ tướng Chính phủ
hay Bộ trưởng? Đây là vấn đề không phức tạp nhưng cũng cần được xem xét và quy
định rõ khi nghiên cứu, xây dựng Luật XLVPHC.
Quy định về xử lí tang vật, phương tiện bị tịch thu cũng có những điểm hạn chế:
Thứ nhất, làm thế nào xác định được giá trị tang vật, phương tiện vi phạm để chuyển cho
cơ quan tài chính cấp huyện hoặc Trung tâm bán đấu giá cấp tỉnh?; Thứ hai, trong một
số trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu khó vận chuyển lên cấp tỉnh, nơi
có trung tâm bán đấu giá để bán đấu giá (như trường hợp tang vật là gỗ bị tịch thu).
Việc cưỡng chế thi hành XPVPHC cũng gây vướng mắc. Mặc dù các biện pháp
cưỡng chế cũng như thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế đã được quy định cụ thể tại
Điều 66 và Điều 67 Pháp lệnh XLVPHC, nhưng việc cưỡng chế vẫn gặp những khó
khăn nhất định do chưa có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện
các biện pháp cưỡng chế, như biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng. Theo ý
kiến của nhiều Bộ, ngành, địa phương thì việc trừ tiền tại ngân hàng gặp khó khăn do các
ngân hàng vì mục đích kinh doanh, để bảo vệ khách hàng nên thường không muốn phối
hợp, thực hiện việc cưỡng chế nộp tiền phạt qua ngân hàng. Mặt khác, cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là công việc khó khăn, phức tạp, trong khi
đó trình tự, thủ tục cưỡng chế chưa được ban hành cũng là vấn đề gây khó khăn, lúng
túng cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt. Mặc dù Pháp lệnh XLVPHC được ban hành

lần đầu tiên vào năm 1989 (sau đó là các pháp lệnh năm 1995 và 2002) nhưng mãi đến
ngày 18/03/2005, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 37/2005/NĐ-CP quy định thủ
tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC.
IV.

HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN VÀ THỦ TỤC XPVPHC

1. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền
- Vi phạm hành chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra trong mọi
lĩnh vực, vì vậy không nên đặt vấn đề giới hạn lĩnh vực có các chức danh có thẩm quyền
9


xử phạt. Mọi lĩnh vực quản lí nhà nước đều cần có các chức danh được trao thẩm quyền
XPVPHC và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
- Quy định về các chức danh có thẩm quyền XPVPHC cũng như hình thức và mức
phạt mà họ có quyền áp dụng phải được thể hiện chủ yếu trong luật hoặc bộ luật về
XPVPHC nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và bảo vệ hiệu quả
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
- Quy định về các chức danh có thẩm quyền xử phạt phải được thể hiện rõ ràng,
cụ thể; bên cạnh đó, trong những trường hợp có thể, cần áp dụng các quy định theo
hướng mở để đảm bảo khi có chức danh mới với vị trí tương đương và phạm vi quyền
hạn, nhiệm vụ tương tự như các chức danh đang hiện hữu thì không nhất thiết phải sửa
đổi, bổ sung quy định.
- Thẩm quyền XPVPHC cần gắn với thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả.
- Không nên quy định thẩm quyền xử phạt của chủ tịch UBND phường cao hơn
thẩm quyền xử phạt của chủ tịch UBND xã (tương tự đối với cấp quận – huyện) bởi xét
từ góc độ tổ chức bộ máy nhà nước thì các chức danh đó có địa vị pháp lí ngang nhau.

- Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định thẩm quyền xử phạt cần giảm bớt số
lượng các chức danh có cùng thẩm quyền xử phạt đối với một loại hành vi vi phạm.
- Cần dành sự quan tâm thích đáng đối với việc giải thích thuật ngữ để đảm bảo tính
thống nhất trong nhận thức và thực hiện.
2. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục XPVPHC
- Mức tiền được xử phạt theo thủ tục đơn giản cần nâng lên, có thể đến 500.000
đồng vì các khung tiền phạt được quy định cho thủ tục đơn giản là rất ít hoặc không có.
Chỉ có một số ít nghị định như Nghị định số 150/2005/NĐ-CP quy định XPVPHC trong
lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Nghị định số 146/2007/NĐ-CP ngày 14/3/2007
quy định XPVPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ có nhiều mức phạt tiền có thể xử
phạt theo thủ tục đơn giản[2]. Nếu không nâng mức tiền xử phạt theo thủ tục đơn giản
thì phần lớn các vụ vi phạm sẽ bị xử phạt theo thủ tục có lập biên bản và như vậy, thủ
tục đơn giản có cũng như không, không đảm bảo được yêu cầu của cải cách thủ tục hành
chính.
- Về mẫu biên bản và mẫu quyết định xử phạt, mẫu tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm. Chúng tôi đồng tình với kiến nghị của nhiều Bộ, ngành, địa phương là không
nên tiếp tục ban hành các loại mẫu, mà nên giao cho Bộ, ngành, căn cứ quy định của
pháp luật để ban hành các loại mẫu cho phù hợp với lĩnh vực, ngành mình quản lý vừa
đảm bảo yêu cầu của thực tiễn, vừa đúng pháp luật. Pháp lệnh chỉ nên quy định nội dung
10


bắt buộc đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn việc xây dựng mẫu cụ thể
do từng ngành hướng dẫn thực hiện.
- Về vấn đề cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC nhận thấy sự phối hợp của
các cơ quan có thẩm quyền trong việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt chưa cao
(trên thực tế, các cơ quan này cũng phải thực hiện nhiệm vụ của mình, ít có điều kiện để
giúp đỡ, phối hợp với các cơ quan khác), do đó, kiến nghị của một số cơ quan có thẩm
quyền xử phạt về sự cần thiết tổ chức lực lượng chuyên trách để cưỡng chế thi hành
quyết đinh XPVPHC là có cơ sở.

- Cần quy định rõ hơn việc gia hạn quyết định XPVPHC theo hướng: người được
quyền cho phép gia hạn là thủ trưởng trực tiếp của người xin gia hạn, trường hợp Chủ
tịch UBND cấp tỉnh xin gia hạn thì Bộ trưởng quản lý ngành sẽ là người có quyền gia
hạn, không nhất thiết phải chuyển xin Thủ tướng Chính phủ để xin gia hạn.
- Ngoài một số vấn đề vừa nêu, khi nghiên cứu soạn thảo Luật XLVPHC, cần
nghiên cứu quy định các nội dung: thứ nhất, cụ thể hơn thủ tục xử phạt như quy định về
trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vụ việc; xác
định tính chất, mức độ của vụ vi phạm, nhân thân người vi phạm để quyết định xử phạt
được khách quan, chính xác. Thứ hai, khi xem xét, quyết định xử lý, người có thẩm
quyền phải giải quyết một số vấn đề: vụ việc có đúng thẩm quyền xử phạt hay không;
biên bản và các tài liệu của vụ vi phạm đã chính xác hay không, có cần phải xác minh
thêm hay không; các tình tiết loại trừ việc xem xét, xử lý hành chính (như trường hợp
không có dấu hiệu cấu thành trách nhiệm hành chính, người vi phạm thực hiện vi phạm
trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng); trách nhiệm thu thập chứng cứ để chứng
minh vụ vi phạm.

KẾT LUẬN
Trên đây là một số đánh giá về các quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ
tục XPVPHC. Những hạn chế nêu trên đã gây ra ùn tắc trong việc xử phạt và làm cho
hiệu quả của xử phạt không cao. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền và thủ tục
XPVPHC là nhu cầu cấp thiết hiện nay vì vi phạm hành chính xảy ra rất phổ biến, gây
nhiều tác hại về kinh tế – xã hội. Cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp luật là
trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính, nhằm tác
động đến nhiều chủ thể gồm người có thẩm quyền xử phạt cũng như các tổ chức, cá
nhân.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội – “Giáo trình Luật hành chính Việt Nam” –
NXB CAND – Hà Nội 2009.
2. Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội – “Giáo trình Luật hành chính Việt
Nam” – NXB ĐHQG – Hà Nội 2005.
3. Nghị định số 145/2006/NĐ-CP ngày 30/11/2006 về thẩm quyền và thủ tục
XPVPHC.
4. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày
2/7/2002 có hiệu lực thi hành ngày 1/10/2002.
5. Th.S Nguyễn Ngọc Bích – “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và
những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành” – Tạp chí Luật học số
8/2007.
6. TS Trần Minh Hương – “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính – thực
trạng quy định, thực tiến áp dụng và hường hoàn thiện” – Tạp chí Luật học
số 8/2008.
7. Nguyễn Thị Nhàn – “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” – Tạp chí
Khoa học pháp luật số 4/2001.
8. Trương Khánh Hoàn – “Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính – thực trạng
và hướng hoàn thiện” – tạp chí Nghiên cứu lập pháp.

12



×