ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày 25/02/2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại (TTTM) ra đời, tạo cơ sở
pháp lý cho hoạt động của các Trung tâm TTTM thay cho hoạt động của các Trọng
tài kinh tế,đáp ứng nhu cầu của hoạt động trọng tài trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh này đã bộc lộ không ít những hạn
chế như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; chủ thể của các
tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài về
mặt nội dung và hình thức; việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; … Trên cơ
sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy định mới, hoàn
chỉnh hơn, Luật TTTM 2010 đã thể hiện sự vượt trội về mặt lập pháp so với Pháp
lệnh TTTM 2003. Nhóm chúng tôi xin lựa chọn đề tài: “Phân tích những điểm
mới trong quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
theo Luật Trọng tài thương mại 2010”, qua đó chỉ rõ sự đầy đủ và thuận lợi về
mặt pháp lý cho việc lựa chọn Trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010 để
giải quyết các tranh chấp.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trên thế giới có nhiều khái niệm về trọng tài. Luật Trọng tài mẫu của
UNCITRAL đưa ra khái niệm trọng tài rất mở “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức
trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực”
(Điều 2.a). Pháp luật Việt Nam hiện hành có quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật
TTTM năm 2010: “trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do
các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”.
1
Như vậy, với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp, TTTM có
thể được hiểu một cách chung nhất là phương thức mà các bên tranh chấp tự
nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát
sinh giữa họ cho TTTM. Trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, TTTM
được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này
có giá trị bắt buộc đối với các bên.
Bên cạnh đó, với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp, TTTM có thể
được tổ chức thành các cơ quan chuyên biệt, có trụ sở làm việc, danh sách nhân sự,
điều lệ cũng như quy tắc hoạt động riêng của mình.
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
Theo quy định tại Điều 2 của Luật TTTM 2010, TTTM có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp sau:
“a. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
b. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt
động thương mại;
c. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng trọng tài.”
Điểm mới của Luật TTTM 2010 là không chỉ giới hạn vào phạm trù "hoạt
động thương mại" theo Luật thương mại 2005 và Điều 1 của Pháp lệnh TTTM
2003 mà đã mở rộng thêm các trường hợp liên quan đến chỉ một bên có hoạt động
thương mại, cũng như những trường hợp không phát sinh từ hoạt động thương mại
nhưng được các Luật khác điều chỉnh.
Lý do mở rộng tới những trường hợp không phát sinh từ hoạt động thương
mại dựa trên cơ sở có nhiều tranh chấp ngoài hợp đồng, như đền bù thiệt hài ngoài
hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng, hàng hải, vận tải … cũng có thể được giải quyết
bằng trọng tài theo ý chí của các bên liên quan, mặc dù các tranh chấp như vậy
hoàn toàn không xuất phát từ hành vi thương mại của thương nhân theo Luật
2
thương mại 2005. Trên thực tế có hàng loạt các văn bản pháp luật của Việt Nam đã
xác định phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh chấp không mang tính
chất thương mại hoặc rộng hơn thương mại. Bộ luật tố tụng dân sự, tại Điều 342 đã
đặt sự khác nhau giữa các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động;
Luật doanh nghiệp năm 2005 ; Luật hàng không Dân dụng Việt Nam năm 2006 tại
Điều 32 và Điều 173 khi nói về quyết định của Trọng tài và việc hủy bỏ thế chấp
tàu bay; Luật các công cụ chuyển nhượng tại Điều 3 và Điều 79;... đều đã có quy
định những trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài mà không mang
tính thương mại.
Như vậy, ngoài việc có thẩm quyền đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại, Luật còn để mở khả năng trọng tài có quyền giải quyết các tranh
chấp không phát snh từ hoạt động thương mại nhưng được pháp luật có liên quan
quy định sẽ được giải quyết bằng trọng tài.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Việc giải quyết vụ việc tranh chấp thương mại tại cơ quan trọng tài phải tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài;
- Trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan;
- Trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật;
- Trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên;
- Nguyên tắc giải quyết một lần.
4. Trình tự giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại
Tranh chấp có thể được giải quyết tại hội đồng trọng tài do trugn tâm trọng
tài tổ chức hoặc tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Lựa chọn hình thức nào
là do các bên thỏa thuận quyết định.
Trình tự về giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài của trung tâm
trọng tài gồm các bước chính sau: Đầu tiên, nguyên đơn phải nộp đơn kiện đến
3
trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài sẽ xem xét và thụ lí đơn kiện, gửi bản sao
đơn kiện cho bị đơn cùng các giấy tờ khác. Bị đơn gửi bản tự bảo vệ tới trung tâm
trọng tài, trong đó có quyền kiện lại nguyên đơn về các yêu cầu mà nguyên đơn nêu
trong đơn kiện. Sau đó, hội đồng trọng tài được thành lập tại trung tâm trọng tài để
xử lý vụ kiện. Bước hòa giải cũng được tiến hành. Nếu hòa giải không thành, phiên
họp giải quyết tranh chấp mới được tổ chức và kết quả cuộc họp là việc đưa ra
quyết định trọng tài.
Trình tự giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập
có phần rút gọn hơn, bao gồm các bước cơ bản là: nguyên đơn gửi đơn kiện, bị đơn
gửi bản tự bảo vệ, thành lập hội đồng trọng tài, tổ chức phiên họp giải quyết tranh
chấp và ra quyết định trọng tài.
Những thay đổi về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài sẽ được trình bày cụ thể trong phần tiếp theo.
II. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TTTM THEO LUẬT TTTM 2010
1. Về khởi kiện, thụ lý, bản tự bảo vệ và quyền kiện lại của bị đơn
Nhìn một cách sơ bộ, có thể thấy rằng các quy định của Luật TTTM năm 2010
về khởi kiện, thụ lý, bản tự bảo vệ cũng như quyền kiện lại của bị đơn đều đã được
kế thừa từ các quy định của Pháp lệnh TTTM năm 2003 và được tách ra thành một
chương riêng với tên gọi là “Khởi kiện” trong Luật TTTM 2010. Trong những quy
định mới tại chương này, cần đặc biệt chú ý tới quy định về thời hiệu khởi kiện:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Pháp lệnh TTTM 2003: “Đối với vụ tranh
chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải
quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ
trường hợp bất khả kháng. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính
từ ngày xảy ra sự kiện cho đến khi không còn sự kiện bất khả kháng”. Với quy định
4
này, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là thời điểm xảy ra tranh chấp. Tuy
nhiên, trên thực tế, thời điểm này rất khó xác định; có sự không thống nhất với quy
định về thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Luật Thương
mại năm 2005.
Khắc phục bất cập đó, Điều 33 Luật TTTM năm 2010 đã quy định: “Trừ
trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục
trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”. Quy
định mới này đã loại bỏ được những bất cập trong thủ tục tố tụng trọng tài, tạo ra
sự đồng bộ thống nhất với các quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho các chủ thể
bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể nộp đơn sớm hơn để đảm bảo quyền làm
nguyên đơn của mình khi thực hiện khởi kiện tại Trọng tài.
Ngoài quy định mới về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng
tài, đối chiếu với Pháp lệnh TTTM 2003, có thể thấy Luật TTTM năm 2010 đã quy
định rõ ràng, chi tiết và đầy đủ hơn về phần khởi kiện, thụ lý, bản tự bảo vệ cũng
như quyền kiện lại của bị đơn, tạo điều kiện dễ dàng cho các chủ thể khác nhau
trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật.
2. Thành lập Hội đồng trọng tài
2.1. Tiêu chuẩn trọng tài viên
Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh TTTM 2003, tiêu chuẩn trọng tài viên
gồm: Là công dân Việt Nam có đủ các điều kiện: có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ; có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan; có bằng đại học và đã
qua thực tế công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên. Đồng thời, những
trường hợp không được làm trọng tài viên gồm: “Người đang bị quản chế hành
chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá
án tích...”. “Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức
đang công tác tại Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án...”.
5
So với quy định trên của Pháp lệnh TTTM năm 2003 thì Điều 20 Luật TTTM
năm 2010 cũng đã kế thừa và quy định rõ hơn về tiêu chuẩn này. Luật TTTM đã bỏ
đi quy định về phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan. Điều này là
hợp lí bởi quy định về các đức tính có tính chất định tính, trong thực tiễn áp dụng
không thể xác định được. Thay vào đó, Luật TTTM 2010 đã thêm một số tiêu
chuẩn mới đó là: Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học
từ 5 năm trở lên (điểm b khoản 1 Điều 20) hoặc chuyên gia có trình độ chuyên môn
cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nếu không đáp ứng được yêu cầu nêu tại
điểm b khoản 2 (điểm c khoản 1 Điều 20). Quy định này đã hướng tiêu chuẩn của
trọng tài viên sang hướng xác định về tính chuyên môn, uy tín… của trọng tài viên,
đồng thời thể hiện được sự tự do lựa chọn của các đương sự.
Hơn thế, với quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật TTTM 2010, Trung tâm trọng
tài có thể quy định thêm các tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn mà Luật TTTM đã quy
định tại khoản 1 Điều 20 đối với Trọng tài viên của tổ chức mình. Điều luật này đã
mở rộng quyền của các các trung tâm trọng tài trong việc tuyển chọn trọng tài viên,
tạo điều kiện phát triển và cạnh tranh giữa các trung tâm trọng tài, nâng cao chất
lượng trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Ngoài ra, đối chiếu với Pháp lệnh TTTM 2003, ta dễ dàng nhận thấy, Luật
TTTM đã sửa đổi về vấn đề quốc tịch của trọng tài viên. Nếu như trong Pháp lệnh
TTTM năm 2003 yêu cầu trọng tài viên phải là công dân Việt Nam, thì Luật TTTM
không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là
người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các
bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu
thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Thay đổi trọng tài viên
Thứ nhất, luật TTTM 2010 bổ sung về trường hợp "các bên có quyền yêu cầu
thay đổi trọng tài viên khi trọng tài viên đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư
6
của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ
trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản" (Điểm d khoản 1 Điều 42).
Quy định mới này nhằm nâng cao tính minh bạch, vô tư, khách quan trong giải
quyết tranh chấp.
Thứ hai, với quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM năm 2010, so với quy
định tại khoản 4 Điều 27 Pháp lệnh TTTM 2003, ta thấy đã có những thay đổi
trong quy định khi đã nêu rõ hơn các trường hợp giải quyết nếu các thành viên còn
lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay
trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp. Thời hạn 15 ngày được đưa ra
kể từ khi Tòa án nhận đơn yêu cầu cũng mới được quy định rõ nhằm mục đích đẩy
nhanh thủ tục. Ở luật mới cũng không quy định về Chánh án Tòa án cấp tỉnh như
Pháp lệnh TTTM năm 2003 mà để mở là Chánh án Tòa án có thẩm quyền.
Thứ ba, Luật TTTM 2010 đã nhấn mạnh rõ Quyết định của Chủ tịch Trung
tâm trọng tài hoặc của Toà án trong trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4
Điều này là quyết định cuối cùng (khoản 5 Điều 42). Quy định này mang tính
khẳng định hiệu lực của những quyết định tại khoản 3 và 4 Điều 42. Nó tạo điều
kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được
lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài
hoạt động có hiệu quả.
3. Chuẩn bị xét xử của Hội đồng trọng tài
Nhằm giúp cho cơ chế tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn, Luật TTTM
2010 đã cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân
chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (quy định tại Điều 47, 48, 49
và 50). Quy định này là sự tiếp thu những quy định mẫu của UNCITRAL được
thông qua 2006. Điều này cũng thể hiện sự tiếp thu và từng bước điều chỉnh của cơ
quan lập pháp Việt Nam để các quy định trọng tài thương mại Việt Nam hội nhập
với các thông lệ quốc tế.
7
3.1. Về cung cấp, thu thập chứng cứ cho vụ tranh chấp
Có thể nhận thấy rõ điểm mới của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh TTTM
2003 trong việc cung cấp, thu thập chứng cứ cho vụ tranh chấp. Khoản 1 điều 32
Pháp lệnh và khoản 1 Điều 46 Luật TTTM tuy cùng nói đến vấn đề cung cấp chứng
cứ cho Hội đồng trọng tài để chứng minh các sự việc có liên quan đến nội dung
đang tranh chấp nhưng nếu ở Pháp lệnh đó là "nghĩa vụ", thì ở Luật mới đó là
“quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp”. Khi trách nhiệm thu thập chứng cứ
trở thành quyền và nghĩa vụ của các bên thì các bên sẽ chủ động hơn trong việc đi
tìm chứng cứ cho vụ tranh chấp.
Bên cạnh đó, sự hạn chế quyền hạn của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải
quyết tranh chấp của Pháp lệnh TTTM 2003 đã được sửa đổi khi Luật TTTM 2010
quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài trong việc thu thập chứng cứ, tạo
điều kiện cho Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp chính xác và nhanh chóng
hơn: “Trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp nhưng không thu thập được
chứng cứ thì Hội đồng trọng tài có thể gửi văn bản đề nghị Tòa án nhân dân có
thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chứng, cá nhân cung cấp các chứng cứ.” (Điều
46).
Ngoài ra, Luật mới còn quy định cho Hội đồng trọng tài các quyền khác như
triệu tập người làm chứng (Điều 47). Trong quá trình giải quyết tranh chấp, có
những trường hợp có liên quan đến người thứ ba hoặc bên thứ ba. Trong khi Tòa án
có thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng tài
trong Pháp lệnh TTTM 2003 lại không có thẩm quyền. Khắc phục điều đó, Luật
TTTM 2010 đã quy định rất rõ, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm
chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp (khoản 1 Điều 47) hoặc đề nghị
Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của
Hội đồng trọng tài (khoản 2 Điều 47).
8
Qua đó, ta thấy, với những quy định mới, bằng sự hỗ trợ của Tòa án trong
việc thu thập chứng cứ đã cho thấy sự phù hợp của pháp luật để bảo đảm cho hội
đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp có hiệu quả, đồng thời cũng phù hợp với
thông lệ quốc tế và luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế.
3.2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong pháp luật Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 có một chương
riêng với 28 điều quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời (Chương VIII, các Điều
từ 99 đến 126). Về bản chất, các quy định mới về biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Luật TTTM 2010 cụ thể và chi tiết hơn so với Pháp lệnh TTTM 2003, hoàn toàn
phù hợp với các quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Nói cách khác,
trong tố tụng trọng tài phải áp dụng trước tiên các quy định của Luật TTTM 2010,
nếu các quy định đó thiếu, chưa rõ hoặc chưa cụ thể thì cần áp dụng các nguyên tắc
chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.
Về quy định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Điều 33 Pháp lệnh TTTM
2003 quy định, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được thực hiện
trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, với quy
định này, các biện pháp khẩn cấp tạm thời không phát huy được vai trò của nó bởi
mất đi khả năng được áp dụng nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời. Các biện pháp
này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của mình có
nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến khi khởi kiện hoặc Hội
đồng trọng tài được thành lập.Vì vậy, Điều 48 về quyền yêu cầu áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời của Luật TTTM 2010 đã khắc phục bằng cách không quy
định về thời hạn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Mặt khác, quy định chỉ có Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ
tranh chấp mới có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong Pháp lệnh TTTM 2003 là không phù hợp, nên đã bị bác bỏ trong Luật TTTM
2010. Thay vào đó, theo Luật TTTM 2010 thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án có
9
quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu
cầu. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Hội đồng trọng tài chỉ có quyền ra quyết định áp
dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời được liệt kê tại Điều 49 của Luật TTTM
và Hội đồng trọng tài chỉ có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
sau khi Hội đồng trọng tài đã thành lập. Các trường hợp khác do Tòa án thực hiện.
Từ đó, ta thấy, quy định Hội đồng trọng tài không chỉ có quyền yêu cầu Tòa án mà
có thể tự mình áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã nâng cao hơn vị pháp lý
của Hội đồng trọng tài. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều 17 Luật mẫu của Uỷ
ban Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) về trọng tài quốc tế
năm 1985 cũng như các văn bản pháp luật thương mại quốc tế của nhiều nước khác
trên thế giới.
4. Phiên họp giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài
Khác với Pháp lệnh TTTM năm 2003, Luật TTTM năm 2010 có quy định tối
đa về thời gian, địa điểm mở phiên họp cho các bên tranh chấp thỏa thuận. Trong
trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tuân theo quy tắc tố tụng trọng tài
hoặc theo quyết định của Hội đồng trọng tài trên cơ sở nguyên tắc đa số. Quy định
mới này đã bảo đảm được tính làm việc tập thể và nguyên tắc ra quyết định tập thể
của Hội đồng tròng tài.
Về thành phần tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp, tại khoản 2 Điều
55 Luật TTTM năm 2010 quy định: “Các bên có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho
người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời người làm
chứng; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Theo quy định này, các
bên có thể mời bất cứ ai mà các bên tin cậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình tại phiên họp chứ không nhất thiết phải là Luật sư như quy định tại Điều
39 Pháp lệnh TTTM 2003. Điều này cũng phù hợp hơn với giải quyết tranh chấp và
pháp luật các nước về trọng tài.
10
Về hoãn phiên họp, có thể nhận thấy quy định về hoãn phiên họp giải quyết
tranh chấp trong Pháp lệnh TTTM 2003 dường như đã vô tình làm kéo dài thời hạn
tố tụng. Tại khoản 1 Điều 41 pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định: “Trường hợp
có lý do chính đáng các bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài hoãn phiên họp giải
quyết tranh chấp”. Pháp lệnh không quy định rõ thủ tục yêu cầu, thời gian hoãn, số
lần được hoãn. Chính vì vậy, quy định này có thể bị lợi dụng để kéo dài tố tụng nếu
một trong các bên không có thiện chí. Khắc phục điểm bất lợi này, điều 57 Luật
TTTM năm 2010 quy định: “Khi có lý do chính đáng, một hoặc các bên có thể yêu
cầu Hội đồng trọng tài hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp. Yêu cầu hoãn phiên
họp giải quyết tranh chấp phải được lập bằng văn bản, nêu rõ lý do kèm theo
chứng cứ và được gửi đến Hội đồng trọng tài chậm nhất 07 ngày làm việc trước
ngày mở phiên họp giải quyết tranh chấp. Nếu Hội đồng trọng tài không nhận
được yêu cầu theo thời hạn này, bên yêu cầu hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp
phải chịu mọi chi phí phát sinh, nếu có. Hội đồng trọng tài xem xét, quyết định
chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu hoãn phiên họp và thông báo kịp thời cho
các bên. Thời hạn hoãn phiên họp do Hội đồng trọng tài quyết định.”. Như vậy,
theo quy định mới này thì lý do hoãn phiên họp chỉ có một đó là xuất phát từ yêu
cầu của các bên.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, khi các tranh chấp thuộc một trong các
căn cứ được quy định theo pháp luật thì trọng tài phải ra quyết định đình chỉ giải
quyết tranh chấp. So với các căn cứ trong Pháp lệnh TTTM 2003 thì Luật TTTM
2010 đã bổ sung thêm ba trường hợp mới tại các điểm a, b, đ Điều 59, đó là:
“a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không
được thừa kế;
b) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động, bị phá sản,
giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức mà
không có cơ quan, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó;
11
đ) Tòa án đã quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được theo quy định tại khoản 6 Điều 44 của
Luật này.”
Quy định mới này đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đối với nhiều vụ tranh
chấp khi gặp phải các sự cố như trên thì Hội đồng trọng tài vấp phải khó khăn khi
không có căn cứ pháp lí để ra quyết định đình chỉ.
Mặt khác, Luật TTTM 2010 cũng đã có quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc
xét xử một lần của tố tụng trọng tài. Theo đó, khi đã có quyết định đình chỉ giải
quyết vụ tranh chấp, các bên cũng không có quyền khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải
quyết lại vụ tranh chấp đó nếu việc khởi kiện vụ tranh chấp sau không có gì khác
với vụ tranh chấp trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp,
trừ các trường hợp quy định tại điểm c,đ khoản 1 Điều 59 Luật TTTM 2010. Đây
cũng là một điểm mới so với Pháp lệnh TTTM 2003.
5. Phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ
nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài” (Khoản 10 Điều 3 Luật
TTTM 2010).
Trước hết, về nguyên tắc ra phán quyết, tại Điều 42 Pháp lệnh TTTM 2003
quy định: “Quyết định của Hội đồng Trọng tài được lập theo nguyên tắc đa số...”.
Quy định này dẫn đến khó khăn khi xảy ra trường hợp các thành viên của Hội đồng
trọng tài có những ý kiến khác nhau, không quyết định được theo đa số. Chính vì
vậy, Luật TTTM năm 2010 đã bổ sung quy định còn thiếu sót trên của pháp lệnh
trọng tài. Cụ thể là tại điều 60 (Nguyên tắc ra phán quyết), có quy định:
“1. Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo
nguyên tắc đa số.
2. Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được
lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài”.
12
Qua đó, ta thấy Luật TTTM 2010 đã khắc phục được thiếu sót của Pháp lệnh
TTTM 2003 bằng cách quy định rất đầy đủ và cụ thể, đưa ra được ngoại lệ phán
quyết không thảo luận theo đa số thì có thể theo ý kiến của chủ tịch hội đồng trọng
tại . Đây chính là một điểm mới của Luật TTTM 2010.
Tiếp theo, về hình thức của phán quyết, Pháp lệnh trọng tài không quy định
cụ thể trong một điều luật nào mà chỉ có thể được suy ra từ Điều 44 (hình thức là
bằng văn bản). Khắc phục điều đó, Luật TTTM 2010 đã có một điều khoản quy
định hình thức của phán quyết trọng tài tại Điều 61: “Phán quyết trọng tài phải
được lập bằng văn bản….” và có các nội dung theo quy định. Điều này sẽ tránh
được tình trạng tùy tiện trong giải thích cũng như áp dụng điều khoản trong thực tế.
Hơn thế, về nội dung của phán quyết trọng tài, Luật TTTM 2010 đã quy định
thêm các nội dung cụ thể hơn cho phán quyết trọng tài và đồng thời Luật đã xóa bỏ
quy định cũ cho phép: “các bên có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài không đưa
các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định về vụ tranh chấp vào quyết định
trọng tài” (khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh TTTM 2003). Việc yêu cầu phán quyết
trọng tài phải rõ ràng, cụ thể là vô cùng cần thiết bởi phán quyết trọng tài có thể bị
Tòa án xem xét nếu có bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hoặc đăng ký phán
quyết trọng tài vụ việc tại Tòa án hay khi phải yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ
việc thi hành...
Ngoài ra, để hạn chế những sai lầm không đáng có trong phán quyết trọng tài
trước khi đưa vào thi hành cũng như bảo vệ tối đa quyền lợi của các bên tranh
chấp, nhà làm luật đã tăng thời hạn sửa chữa phán quyết từ 15 ngày như trong
Pháp lệnh TTTM 2003 lên 30 ngày trong Luật TTTM 2010, đồng thời quy định
thêm về vấn đề giải thích phán quyết cũng như phán quyết bổ sung. Đây cũng là
một điểm mới tiến bộ của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh TTTM 2003.
6. Thi hành và hủy phán quyết của trọng tài thương mại
Trong Pháp lệnh TTTM 2003 quy định tại Điều 54: “Tòa án ra quyết định
hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài
đã ra quyết định thuộc các trường hợp …” còn Luật TTTM 2010 lại quy định tại
13
Khoản 1 Điều 68: “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu
cầu của một bên”. Sửa đổi của luật là hoàn toàn hợp lý bởi theo quy định cũ, tố
tụng trọng tài sẽ trở nên rất rủi ro và dễ làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết
trọng tài. Sự xem xét của Tòa án có tính công minh và chính xác, đảm bảo hơn là
việc tự chứng minh của bên có yêu cầu.
Luật trọng tài thương mại 2010 đã có sự thay đổi quy định về các căn cứ hủy
phán quyết trọng tài. Cụ thể, Điều 54 Pháp lệnh TTTM 2003 quy định 6 căn cứ để
hủy phán quyết trọng tài. Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 đã xóa bỏ một căn cứ
để hủy phán quyết trọng tài là: “Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải
quyết vụ tranh chấp có Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên quy
định tại Khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh này”. Trên thực tế cho thấy, những tiêu
chí “vô tư”, “khách quan” vì không được quy định một cách rõ ràng để ứng chiếu,
nên có xảy ra hiện tượng lạm dụng nó để yêu cầu hủy phán quyết của trọng tài. Bởi
vậy, Luật TTTM xóa bỏ căn cứ trên là hoàn toàn hợp lý, giảm thiểu các trường hợp
phán quyết của trọng tài bị hủy không thỏa đáng.
14
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Những điểm mới trong quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp bằng TTTM
trong Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh TTTM 2003 đã tạo được cơ sở pháp lý
đầy đủ hơn cho hoạt động TTTM, khuyến khích các bên lựa chọn Trọng tài trong
giải quyết các tranh chấp, góp phần giảm tải hoạt động xét xử của Toà án ở nước ta
hiện nay. Do phạm vi vấn đề rộng, trình độ hiểu biết lại có hạn nên bài làm của
nhóm không tránh khỏi những hạn chế, mong được thầy cô và các bạn góp ý bổ
sung để bài làm của chúng em hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
15
MỤC LỤC
16