Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận xử lý tình huống về hoà giải trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn phường thanh trì quận hoàng mai hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.32 KB, 21 trang )

TRƢỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
LỚP BỒI DƢỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K6A - 2015

--- ---

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI

HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN: LƢU THỊ THANH HUYỀN
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: UBND PHƢỜNG THANH TRÌ –
QUẬN HOÀNG MAI – HÀ NỘI

Hà Nội, tháng 11 năm
2015


MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT
Lời nói chung

1

1. Lý do lựa chọn đề tài

2

2. Mục tiêu của đề tài

2


3. Phương pháp nghiên cứu

3

4. Bố cục tiểu luận

3
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG

1. Mô tả tình huống

4

2. Mục tiêu xử lý tình huống

6

3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả

6

3.1. Nguyên nhân

6

3.2. Hậu quả

7

4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống

4.1. Phương án 1

8

4.2. Phương án 2

8

4.3. Phương án 3

9

4.4. Lựa chọn phương án giải quyết

9

5. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện phương án giải quyết tình huống
5.1. Lập kế hoạch giải quyết tình huống

10

5.2. Căn cứ pháp lý giải quyết tình huống

12

5.3. Cách thức hòa giải

12

5.4. Diễn biến tổ chức thực hiện hòa giải


13

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Bài học kinh nghiệm

17

2. Kết luận

17

3. Kiến nghị, đề xuất

18


PHẦN THỨ NHẤT
Cấp cơ sở được hiểu là cấp chính quyền địa phương thấp nhất trong hệ
thống cơ quan hành chính Nhà nước. Ở nước ta hiện nay chính quyền cơ sở gồm
xã, phường, thị trấn gắn liền với ba tính chất khác nhau. Xã là chính quyền cơ sở
ở vùng nông thôn; thị trấn là chính quyền ở khu vực nông thôn nhưng là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một huyện; phường là chính quyền cơ sở
khu vực đô thị.
Chính quyền phường là cầu nối giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân
trong phường, đại diện cho Nhà nước để thực thi quyền lực Nhà nước, triển khai
tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước ở phường, vì vậy chính quyền phường phải đủ mạnh mới có thể thực hiện
chức năng nhiệm vụ đồng thời vừa phải mềm dẻo, linh hoạt khi tiếp xúc, làm việc
với dân, những người cùng sinh sống với những quan hệ cộng đồng gắn bó khăng

khít, bền chặt, chi phối, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi đa dạng của mỗi người dân sao
cho vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với truyền thống và điều kiện của mỗi người
dân. Chính quyền phường là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện những thắc mắc, bức
xúc của nhân dân, đồng thời cũng là nơi trực tiếp thu nhận, lắng nghe các ý kiến
đề xuất, kiến nghị của nhân dân để giải quyết hoặc phản ánh lên các cơ quan cấp
trên và đề xuất những giải pháp trong việc giải quyết những vướng mắc của nhân
dân.
Phường Thanh Trì là một trong 9 xã của huyện Thanh Trì được chuyển lên
thành phường vào quận mới - quận Hoàng Mai theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP
ngày 06/11/2003 của Chính phủ. Vì vậy trong mối quan hệ cộng đồng vẫn còn
mang tính làng xã, tình cảm vẫn gắn bó, sống “Tối lửa tắt đèn” có nhau.
Từ xa xưa ông cha ta đã có câu “Tấc đất, Tấc vàng”. Ngày nay với dân số
ngày càng tăng lên, diện tích đất tính trên đầu người ngày càng thấp, nhất là ở
những Thành phố, chúng ta càng thấm thía : “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
1


trường sống”.
Trong những năm trở lại đây, do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, tốc
độ đô thị hoá nhanh, đất đai trở lên có giá thì mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai,
nhà ở có nhiều lúc, nhiều nơi trở lên bức xúc. Đã có không ít từ quyền lợi về đất
đai đã trở thành mâu thuẫn, phát sinh thành các tranh chấp dân sự, rất cần phải
hoà giải.
Hòa giải là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả
thuận, tự nguyện giải quyết với nhau nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân
dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Hòa giải là biện pháp
quan trọng và tích cực nhằm giải quyết các tranh chấp về dân sự nói chung và về
tranh chấp đất đai nói riêng. Hòa giải phát huy truyền thống đoàn kết sẵn có của
dân tộc ta, nâng cao sự hiểu biết về pháp luật của nhân dân, hòa giải còn giúp các

bên tự nguyện thoả thuận với nhau về cách giải quyết tranh chấp mà không phải
khởi kiện ra tòa án nhân dân, đỡ cho các bên phải đi lại tốn kém về tiền bạc, thời
gian, tránh việc phải thi hành án vốn rất khó khăn, phức tạp trong giai đoạn hiện
nay.
Hòa giải tranh chấp về đất đai là một thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện ra
toà án nhân dân, điều đó vừa phù hợp với yêu cầu của pháp luật, vừa phù hợp
truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam.
1. Lý do lựa chọn đề tài
Với ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác hòa giải, qua học tập Lớp bồi
dưỡng tiêu chuẩn ngạch chuyên viên K6A-2015, liên hệ với công việc hiện em
đang đảm nhận là công chức Văn phòng và là tổ viên tổ tiếp nhận và xử lý đơn
thư phường Thanh Trì, em chọn đề tài “Xử lý tình huống về hoà giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn phường Thanh Trì - quận Hoàng Mai Hà Nội”.
2. Mục tiêu của đề tài: Để nhằm giải quyết các vấn đề xảy ra trong tình
huống góp phần tăng cường pháp chế XHXN, bảo vệ lợi ích chính đáng của người
dân và giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên.
2


3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hỏi - đáp;
- Phương pháp nghiên cứu văn bản pháp luật;
- Phương pháp nghiên cứu thực tế.
4. Bố cục của tiểu luận:
Tiểu luận này của em gồm 03 phần, cụ thể như sau:
- Phần thứ nhất: Lời nói chung
1. Lý do lựa chọn đề tài
2. Mục tiêu của đề tài
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Bố cục tiểu luận

- Phần thứ hai: Nội dung
1. Mô tả tình huống
2. Mục tiêu xử lý tình huống
3. Phân tích nguyên nhân và giải quyết hậu quả
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết
5. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn
- Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị

3


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
1. Mô tả tình huống
Cụ Hoàng Văn Tân và vợ là cụ Nguyễn Thị Lan là chủ sử dụng hợp pháp
02 thửa đất, cụ thể:
Thửa đất thứ nhất tại khu dân cư Tân thành - phường Thanh Trì thuộc tờ
bản đồ số 14; thửa số 30; diện tích 120m2;
Thửa đất thứ hai tại Khu dân cư Bãi - phường Thanh Trì thuộc tờ bản đồ số
8; thửa số 29; diện tích 665m2.
Cụ Tân và cụ Lan sinh được 06 người con gồm 2 trai và 4 gái cụ thể là các
các ông bà sau :
Ông Hoàng Văn Hà

Con trai Trưởng

Bà Hoàng Thị Minh

Con gái Thứ hai

Bà Hoàng Thị Thuỷ


Con gái Thứ ba

Bà Hoàng Thị Thảo

Con gái Thứ tư

Ông Hoàng Văn Năm

Con trai Thứ năm

Bà Hoàng Thị Giang

Con gái Thứ sáu

Thửa đất thứ nhất có diện tích 120m2 ở khu dân cư Tân Thành năm 1986 cụ
Tân và cụ Lan cho hai con trai là :
Ông Hoàng Văn Hà diện tích 60m2 đất và được UBND huyện Thanh Trì
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991;
Ông Hoàng Văn Năm diện tích 60m2 đất và được UBND huyện Thanh Trì
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991.
Thửa đất thứ hai có diện tích 665m2 đất tại Khu dân cư Bãi, vợ chồng cụ
Tân ở với người con gái thứ hai là bà Hoàng Thị Minh
Năm 1987 cụ Lan chết không có di chúc
Năm 1990 cụ Tân đặt 257m2 đất trong tổng số diện tích 665m2 đất cho ông
Lê Văn Hùng người cùng khu dân cư để lấy tiền chạy chữa bệnh. Việc này toàn
bộ các con cụ Tân đều biết.
Năm 1991 chị Minh - con gái thứ hai của cụ Tân từ nước ngoài trở về đã
4



chuộc lại diện tích 257m2 đất mà cụ Tân đặt cho ông Hùng năm 1990.
Năm 1991 UBND huyện Thanh Trì cáp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho cụ Tân thửa đất số 29, tờ bản đồ số 8, diện tích 665m2 mang tên cụ Hoàng
Văn Tân.
Năm 1992 cụ Tân chết không để lại di chúc. Toàn bộ thửa đất số 29, tờ bản
đồ số 8, diện tích 665m2 do vợ chồng bà Minh sử dụng và quản lý.
Năm 1999 Nhà nước lấy đất làm đường thượng hạ lưu đê Hữu Hồng và có
thu hồi toàn bộ diện tích đất của gia đình ông Hà và ông Năm để làm đường. Ông
Hà và ông Năm được Nhà nước bố trí khu đất tái định cư Đầm Ấu mỗi người là
40m2 đất.
Năm 2000 ông Năm làm nhà trên đất tái định cư, còn ông Hà bán phần đất
Nhà nước bố trí tái định cư cùng vợ là bà Nguyễn Thị Trang và con trai là Hoàng
Văn Dũng về khu đất ở khu dân cư Bãi do bà Minh đang quản lý để làm nhà ở với
diện tích là 80m2 trên tổng số diện tích 665m2.
Tháng 8 năm 2014 ông Hà ốm nặng và chết.
Ngày 14/9/2014 các con cụ Tân và cụ Lan gồm :
Bà Hoàng Thị Minh

Con gái Thứ hai

Bà Hoàng Thị Thuỷ

Con gái Thứ ba

Bà Hoàng Thị Thảo

Con gái Thứ tư

Ông Hoàng Văn Năm


Con trai Thứ năm

Bà Hoàng Thị Giang

Con gái Thứ sáu

tổ chức họp gia đình (vắng bà Nguyễn Thị Trang - vợ ông Hà và vắng anh
Hoàng Văn Dũng - con trai ông Hà) để chia thừa kế đất của cụ Tân, cụ Lan. Tại
biên bản các con cụ Tân chia như sau:
Số diện tích 257m2 đất năm 1991 bà Minh đã chuộc của ông Hùng được
làm của riêng không chia. Số diện tích còn lại là 408m2 được chia làm 7 phần :
Bà Minh được thêm 50m2 đất
Bà Thuỷ được 50m2 đất
Bà Thảo được 50m2 đất
5


Bà Giang được 50m2 đất
Bà Trang và anh Dũng được 52m2 đất
Ông Năm được 100m2 (50m2 làm nhà ở, 50m2 làm nhà thờ)
Để lại 56m2 đất làm ngõ đi chung giữa các gia đình với nhau.
Do việc họp gia đình không có sự tham gia của bà Trang và anh Dũng, hơn
nữa việc chia như vậy bà Trang sẽ phải phá một phần nhà đã xây để trả lại đất cho
các anh chị em trong gia đình, vì vậy đã xảy ra mâu thuẫn.
Khi mâu thuẫn xảy ra, đã nhiều lần Tổ hoà giải Khu dân cư Bãi tổ chức hoà
giải nhưng không thành.
Ngày 24/10/2014 bà Minh cùng các chị em có đơn đề nghị UBND phường
giải quyết.
2. Mục tiêu xử lý tình huống

- Xử lý dứt điểm đơn đề nghị của người dân theo đúng thẩm quyền;
- Giải quyết đơn đảm bảo đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân;
- Củng cố lòng tin của người dân với chính quyền địa phương.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
3.1. Nguyên nhân:
Đây là vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất giữa con trai, các con
gái cụ Tân, cụ Lan với con dâu cả và cháu nội của cụ Tân, cụ Lan. Vụ việc mâu
thuẫn trên do các nguyên nhân sau :
3.1.1. Nguyên nhân khách quan:
- Do tốc độ đô thị hóa nhanh nên đất đai ngày càng có giá trị cao;
- Do sự hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế;
3.1.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Quan hệ giữa bà Trang - con dâu trưởng của cụ Tân với con trai, các con
gái cụ Tân, cụ Lan là không tốt vì vậy khi xảy ra mâu thuẫn tất cả con trai, con gái
cụ Tân đứng về một phía, phía bên kia là mẹ con bà Trang. Đã nhiều lần anh
Dũng - con trai bà Trang và ông Hà có những hành vi xử sự không nên, không
6


phải với các cô, các chú của mình, nhất là với vợ chồng bà Minh. Do đó biên bản
họp gia đình các con cụ Tân không cho mẹ con bà Trang tham gia.
- Ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang - con trai, con gái cụ Tân
cho rằng phần đất cụ Tân, cụ Lan ở khu dân cư Tân Thành (120m2 đất) đã chia
cho 02 người con trai là ông Hà và ông Năm mỗi người 60m2 đất, vì vậy phần đất
665m2 đất ở Khu dân cư Bãi, ngoài phần trả 257m2 đất cho bà Minh - người đã
chuộc của ông Hùng năm 1991 thì phải được chia đều bằng nhau, trong đó bà
Minh cũng được một phần. Bà Trang đã làm nhà trên diện tích 80m2 đất là đã sử
dụng hơn phần được hưởng nên bà Trang phải phá gian buồng có diện tích 20m2
trả lại cho các ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang.

- Việc các con trai, con gái cụ Tân yêu cầu bà Trang phá gian buồng để trả
lại đất cho các ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang sẽ gây thiệt hại về
tài sản là nhà ở của mẹ con bà Trang, làm ảnh hưởng đến độ an toàn, kết cấu của
ngôi nhà (Nhà mái bằng 2 tầng) do đó sự việc càng thêm phức tạp.
- Bà Trang, anh Dũng cho rằng ông Năm là con trai thứ nhưng cũng được
hưởng như ông Hà phần đất ở khu dân cư Tân Thành, nay lại về khu dân cư Bãi
chia phần, lại được phần nhiều hơn (100m2 đất, gồm 50m2 đất làm nhà để ở và
50m2 đất để xây dựng nhà thờ) là không phù hợp với truyền thống, đạo đức người
Việt Nam (Vì anh Dũng mới là cháu trai trưởng - đích tôn).
Bản chất mâu thuẫn trên là do 02 nguyên nhân chính:
- Thứ nhất là do quyền lợi của các thành viên trong gia đình không được
giải quyết triệt để, không có sự trao đổi, thoả thuận với nhau;
- Thứ hai là mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không được tôn
trọng, mất đoàn kết.
3.2. Hậu quả:
- Vụ việc mâu thuẫn này cần được giải quyết, hoà giải kịp thời, tránh mâu
thuẫn kéo dài sẽ dẫn đến phức tạp, làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung của
những người có liên quan, gây thiệt hại về kinh tế và mất ổn định tình hình an
ninh trật tự tại địa phương;
7


- Giảm sút lòng tin và gây bất bình trong nhân dân;
- Sẽ có sự giảm sút về pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý nhà nước
tại địa phương.
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phƣơng án giải quyết tình huống
Để vụ việc được giải quyết dứt điểm, thấu tình đạt lý, phù hợp với các quy
định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan, em đưa ra 03 phương án giải quyết như sau:
4.1. Phương án 1: Tổ chức hòa giải cho bằng được - Tức là tổ chức hòa

giải thành
- Ưu điểm:
Các bên vẫn giữ được tình đoàn kết, củng cố mối quan hệ trong gia đình,
đùm bọc, giúp đỡ nhau, xây dựng xã hội bình yên, góp phần giữ gìn an ninh trật
tự, an toàn xã hội, góp phần hạn chế đơn thư, khiếu kiện trong nhân dân, giúp cho
chính quyền giảm bớt việc giải quyết đơn thư, khiếu kiện đông người và hình
thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp hành pháp luật.
Các bên không phải khởi kiện ra toà án nhân dân vừa mất thời gian, vừa tốn
kém tiền bạc. Quá trình thực hiện do các bên tự định đoạt theo nội dung đã thoả
thuận, thống nhất.
- Hạn chế:
Có thể mất nhiều thời gian của cán bộ từ tổ dân phố đến phường vì phải đi
lại nhiều lần, gặp gỡ từng người để tuyên truyền, phân tích, giải thích hướng cho
các bên thống nhất được với nhau, tự thỏa thuận với nhau cách phân chia thừa kế,
về khối tài sản là đất của mỗi người được hưởng. Do đó có thể người này được
nhiều, người kia được ít hơn, không bằng nhau.
4.2. Phương án 2: Tổ chức hòa giải không thành nhiều lần - Tức là cứ có
đơn thì tổ chức hòa giải theo nhiệm vụ được phân công và để mặc cho các bên
tranh chấp tranh cãi nhau bảo vệ quyền lợi của mình, không hòa giải được.
- Ưu điểm:
Lợi thế cho cán bộ phường là chỉ tổ chức hòa giải đúng thời gian, trình tự
8


theo quy định mà không phải mất thời gian, công sức để gặp gỡ, tìm hiểu, phân
tích, hướng dẫn những người có quyền và lợi ích liên quan cũng như hướng cho
các bên thống nhất được với nhau.
- Hạn chế:
Kết quả là không hòa giải được, không thống nhất được cách giải quyết hợp
tình, hợp lý với nhau từ đó đơn thư của người dân sẽ kéo dài vì chưa đạt được kết

quả như mong muốn, thậm chí có thể vượt cấp dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm
trọng, sứt mẻ tình cảm gia đình, mất an ninh trật tự.
4.3. Phương án 3: Tổ chức hòa giải cho xong thủ tục - Tức là hòa giải theo
đúng thủ tục, nếu thành thì lập biên bản hòa giải thành, nếu hòa giải không thành
thì ra thông báo chấm dứt việc giải quyết tại phường và hướng dẫn các bên có
quyền khởi kiện ra tòa án nhân dân để giải quyết
- Ưu điểm:
Chỉ tổ chức hòa giải một lần với các thành phần theo quy định của pháp
luật, không phải mất nhiều thời gian của cán bộ tổ dân phố cũng như cán bộ
phường. Trường hợp một trong các bên, hoặc các bên khởi kiện ra tòa, toà án sẽ
chia thừa kế theo pháp luật (thừa kế theo hàng thừa kế - Những người thừa kế
cùng hàng được hưởng di sản bằng nhau)
- Hạn chế:
Có thể mâu thuẫn sẽ trở nên gay gắt hơn, mất hết tình nghĩa, có thể gây mất
ổn định an ninh trật tự ở địa phương, mất thời gian theo kiện và phải chịu khoản
án phí đáng kể theo quy định của pháp luật.
4.4. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống
Trong 03 phương án đưa ra trong công tác hòa giải tranh chấp đất đai trên
thì em lựa chọn phương án 1 là Tổ chức hòa bằng được - Tức là tổ chức hòa giải
thành để giải quyết tình huống, vì:
- So với 02 phương án còn lại thì phương án này đáp ứng được nhiều mục
tiêu hơn cả;
- Phương án có tính khả thi cao trong thực tiễn;
9


- Đây là phương án có tình, có lý, phù hợp với cuộc sống của người dân trên
địa bàn phường;
- Giữ vững được lòng tin của nhân dân đối với chính quyền địa phương
trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà

nước.
5. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện phƣơng án giải quyết tình huống
5.1. Lập kế hoạch giải quyết tình huống
NỘI DUNG CÔNG VIỆC

TT

1.

THỜI GIAN
THỰC
HIỆN

CHỦ THỂ
THỰC HIỆN

Chuẩn bị hòa giải

1.1. - Xem nội dung đơn và thông báo cho 03 ngày, kể

Cán bộ Tư pháp

các bên tranh chấp biết, đồng thời xác từ ngày nhận

phường (Là Tổ

định thời gian tổ chức hòa giải

trưởng tổ tiếp


đơn đề nghị
của

công nhận và xử lý đơn

dân
- Thu thập văn bản pháp luật, bản đồ

01 ngày

địa chính, sổ mục kê, ….liên quan để tổ

thư phường)
Cán bộ Tư pháp,
Địa chính

chức hòa giải.
1.2. Tiếp xúc với các bên tranh chấp:

01 ngày

- Tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh

Cán bộ Tư pháp
phối hợp cùng

chấp;

các đồng chí lãnh


- Thu thập các giấy tờ, tài liệu có liên

đạo khu dân cư,

quan do các bên cung cấp;

tổ dân phố

1.3. Dự kiến:
- Thời gian, địa điểm tổ chức hòa giải;

1/2 ngày

Cán bộ Tư pháp

1/2 ngày

Cán bộ Tư pháp

- Thành phần tham dự hòa giải.
1.4. Viết và gửi giấy mời

10


2.

Tổ chức hòa giải

07 - 10 ngày


Tổ xử lý đơn thư

kể từ ngày

phường

nhận đơn
2.1 Tuyên bố lý do và giới thiệu thành phần

5 phút

Cán bộ Tư pháp

15 phút

Cán bộ Tư pháp

15 phút

Chủ tịch UBND

tham gia buổi hòa giải
2.2 Tóm tắt nội dung và nguyên nhân phát
sinh tranh chấp
2.3 Ý kiến của cán bộ phường hướng dẫn,
thuyết phục các bên tranh chấp nên tự

phường


nguyện thỏa thuận giải quyết các mâu

(Chủ trì hòa giải)

thuẫn về quyền lợi của các bên
2.4 Ý kiến của các bên tranh chấp

30 - 45 phút

Các bên có tranh
chấp

2.5 Ý kiến của các đồng chí tham gia buổi 15 - 30 phút
hòa giải

Các thành phần
tham gia hòa giải

2.6 Ý kiến của đồng chí Chủ tịch UBND

15 phút

phường - Chủ trì buổi hòa giải

Chủ tịch UBND
phường

2.7 Biên bản hòa giải được lập xong, lấy

5 phút


Cán bộ Tư pháp

chữ ký của cán bộ hòa giải và các bên
tranh chấp
3.

Kết thúc buổi hòa giải

3.1 Sao gửi biên bản hòa giải cho các bên

Cán bộ Tư pháp

tranh chấp
3.2 Lập hồ sơ hòa giải và lưu trữ theo quy

Cán bộ Tư pháp

định
3.3 Hướng dẫn các bên tranh chấp thực hiện
các nội dung đã thỏa thuận trong biên
bản hòa giải thành

Chủ tịch UBND
phường và cán bộ
Địa chính

11



Ghi chỳ: Trng hp mt trong cỏc bờn tranh chp vng mt, cỏn b hũa
gii lp biờn bn v s vng mt. ng thi xỏc nh thi gian t chc li vic
ho gii. Biờn bn phi ghi rừ vic vng mt cú hoc khụng cú lý do v phi cú
ch ký ca cỏc thnh viờn trong bui ho gii.
5.2. Cn c phỏp lý gii quyt tỡnh hung
- Lut t chc HND v UBND ngy 26 thỏng 11 nm 2003;
- B lut dõn s nm 2005;
- Lut t ai nm 2013;
- Lut hũa gii c s nm 2013;
- Ngh nh s 43/2014/N-CP ngy 15/5/2014 ca Chớnh ph quy nh chi
tit thi hnh mt s iu ca Lut t ai;
- Phỏp lnh s 10/2009/UBTVQHQH12 ngy 27/02/2009 v ỏn phớ, l phớ
tũa ỏn;
- Ngh quyt s 01/2012/NQ-HTP ngy 13/6/2012 ca Hi ng thm
phỏn Tũa ỏn nhõn dõn ti cao v hng dn ỏp dng mt s quy nh ca Phỏp
lnh v ỏn phớ, l phớ tũa ỏn;
- Ngh nh s 15/2014/N-CP ngy 27/02/2014 quy nh chi tit mt s
iu v bin phỏp thi hnh Lut hũa gii c s;
- Ch th s 03/CT-BTP ngy 27/6/2011 ca B T phỏp v tng cng
cụng tỏc hũa gii c s.
5.3. Cỏch thc hũa gii
Bằng lời nói kết hợp lập biên bản ghi nhận các ý kiến của các bên. Tuỳ tình
hình diễn biến, có thể cử cán bộ UBND Ph-ờng có uy tín, có trình độ tiến hành
gặp gỡ từng bên để h-ớng dẫn, thuyết phục từng bên , cuối cùng để các bên gặp gỡ
trao đổi, thoả thuận giải quyết với nhau. Sau khi tìm hiểu sự việc, nguyên nhân
phát sinh mâu thuẫn, tham khảo các ý kiến của những ng-ời có liên quan, lắng
nghe ý kiến các bên, cán bộ ph-ờng phân tích, thuyết phục các bên đạt đ-ợc thoả
thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của
nhân dân và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó.
12



5.4. Diễn biến tổ chức thực hiện hòa giải vụ tranh chấp
- Ngày 05/11/2014 UBND phường tổ chức buổi hòa giải tranh chấp về thừa
kế giữa các con, cháu cụ Tân, cụ Lan.
Về thành phần tham gia hoà giải gồm có:
* Về thành phần của phường có :
1. Đồng chí Chủ tịch UBND phường - Chủ trì
2. Cán bộ Tư pháp - Thư ký ghi biên bản
3. Cán bộ Địa chính phường
* Thành phần mời các tổ chức, đoàn thể :
1. Đồng chí Chủ tịch Uỷ ban MTTQ phường
2. Đồng chí Chủ tịch Hội phụ nữ phường
3. Đồng chí Chủ tịch Hội nông dân phường
4. Tổ trưởng tổ hòa giải khu dân cư Bãi
5. Bí thư chi bộ khu dân cư Bãi
6. Tổ trưởng tổ dân phố
* Thành phần các đương sự có: Bà Minh, Bà Thuỷ, Bà Thảo, Bà Giang, ông
Năm có mặt đầy đủ. Mẹ con bà Trang, anh Dũng vắng mặt không có lý do.
Do vắng mặt mẹ con bà Trang vì vậy UBND phường lập biên bản không
hòa giải được.
- Ngày 12/11/2014 UBND phường tổ chức buổi hòa giải tranh chấp về thừa
kế giữa các con, cháu cụ Tân, cụ Lan.
Về thành phần cũng như lần 1 nhưng mẹ con bà Trang cũng vắng mặt,
không có lý do.
- Ngày 14/11/2014 UBND phường cử cán bộ Tư pháp đến tận nhà bà Trang
gặp gỡ bà Trang và anh Dũng trao đổi tình hình, lý do vắng mặt, đồng thời tìm
hiểu nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, giải thích quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật để mẹ con bà Trang nắm rõ, hướng của mẹ con bà Trang trong việc
giải quyết vụ việc tranh chấp trên ?.

13


- Ngày 17/11/2014 UBND phường tổ chức buổi hòa giải tranh chấp về thừa
kế giữa các con, cháu cụ Tân, cụ Lan.
Cũng như lần 1, lần 2 mẹ con bà Trang cũng không đến theo giấy mời của
UBND phường. Do đó UBND phường lập biên bản không hòa giải được. Đồng
thời sao gửi biên bản “hoà giải không thành” và hướng dẫn các bà Minh, bà Thuỷ,
bà Thảo, bà Giang, ông Năm có thể làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân quận
Hoàng Mai giải quyết dứt điểm vụ việc trên.
- Ngày 29/11/2014 mẹ con bà Trang lại có đơn gửi UBND phường yêu cầu
giải quyết việc tranh chấp trên.
Ngày 06/12/2014 UBND phường đã tổ chức buổi hoà giải. Về thành phần
của phường và các tổ chức đoàn thể như các lần trước. Về phía các đương sự đã
có mặt đầy đủ.
Sau khi đồng chí cán bộ Tư pháp phường giới thiệu thành phần tham dự
buổi hoà giải, nêu tóm tắt nội dung tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp
và mục đích, ý nghĩa của buổi hòa giải;
Đồng chí Chủ tịch UBND phường - Chủ trì buổi hòa giải đã vừa giải thích,
vừa tuyên truyền một số quy định của pháp luật về thừa kế, về quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất, đồng thời hướng dẫn, tạo điều kiện cho các bên tranh chấp
tự nguyện thoả thuận giải quyết mâu thuẫn về quyền lợi của các bên;
Nghe các ý kiến của các bên;
Nghe các ý kiến phát biểu của các thành viên tham gia hòa giải. Mong
muốn các bên tự thoả thận giải quyết với nhau thông qua hoà giải, vừa giữ được
tình đoàn kết, vừa giải quyết được quyền lợi của các bên;
Về phía ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang vẫn giữ nguyên
quan điểm như trong biên bản mà chính các ông bà này tự họp, tự phân chia với
nhau không có sự tham gia của mẹ con bà Trang;
Về phía mẹ con bà Trang cũng giữ quan điểm là nhà mà vợ chồng bà đã xây

dựng từ năm 2000 trên diện tích 80m2 đất phải được giữ nguyên trạng.
Do các bên vẫn nhất mực giữ quan điểm của mình, không ai chịu ai. Do vậy
14


buổi hòa giải không thành.
UBND phường đã lập biên bản ghi nhận tất cả các ý kiến của các bên, đọc
lại cho các bên cùng nghe, các bên cùng ký biên bản hoà giải không thành. UBND
phường thông báo cho các bên là việc hòa giải tại phường theo quy định tại điều
136 Luật đất đai năm 2003 là đã xong. UBND phường đã sao gửi biên bản, đóng
dấu gửi mỗi người một bản, hướng dẫn các bên có thể gửi đơn yêu cầu Toà án
nhân dân quận Hoàng Mai giải quyết.
Thực tế cả hai bên đương sự đều không gửi đơn đến Toà án nhân dân quận
Hoàng Mai để giải quyết.
- Ngày 25/3/2015 bà Minh cùng ông Năm, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang lại
có đơn gửi UBND phường giải quyết vụ việc tranh chấp trên.
Ngày 27/3/2015 UBND phường mời bà Minh đến làm việc, trao đổi vụ việc
này đã được UBND phường hòa giải không thành vì vậy phường sẽ không giải
quyết nữa. Đồng thời hướng dẫn bà Minh và các anh chị em muốn giải quyết dứt
điểm cần làm đơn gửi Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai giải quyết nhưng bà
Minh vẫn tha thiết đề nghị phường tiếp tục đứng ra giải quyết.
Ngày 08/4/2015 UBND phường tiến hành hoà giải giải quyết vụ việc trên.
Về thành phần có mặt đầy đủ các bên.
Qua phân tích các ý kiến của các bên và để giữ gìn tình đoàn kết trong gia
đình, đã hướng cho các bên thoả thuận, thống nhất được với nhau về phân chia tài
sản, cụ thể như sau :
- Bà Minh ngoài việc được giữ nguyên 257m2 đất trước đây đã chuộc lại
của ông Hùng năm 1991, còn được thêm 50m2 đất nữa. Tổng diện tích đất bà
Minh được hưởng là 307m2 đất;
- Mẹ con bà Trang, anh Dũng được giữ nguyên diện tích nhà đất là 80m2

đất;
- Bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang mỗi người được 50m 2 đất;
- Ông Năm được 100m2 đất (Trong đó 50m2 đất là để xây nhà ở, 50m2 đất
để xây nhà thờ chung)
15


- Để lại 56m2 đất làm ngõ đi chung giữa các gia đình.
Biên bản hoà giải đã thành, các bên đã tự thoả thuận, thống nhất với nhau
và tự thực hiện.
Tuy nhiên ngày 16/4/2015 mẹ con bà Trang lại có đơn gửi UBND phường,
nội dung đơn là không nhất trí với biên bản hoà giải thành ngày 16/3/2012 mà
chính mẹ con bà Trang đã thống nhất, ký tên. Trong đơn bà Trang yêu cầu phải
chia lại, vì nếu chia như vậy, mẹ con bà Trang bị thiệt thòi.
Ngày 29/4/2015 UBND phường lại tiến hành hoà giải vụ tranh chấp trên.
Qua trao đổi, mẹ con bà Trang nêu: Bà là con dâu trưởng, anh Dũng là cháu
đích tôn trưởng phải được phần hơn và phải là người đứng ra thờ cúng tổ tiên. Do
vậy không thể đồng ý cho ông Năm làm nhà thờ được.
Về phía các ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang cũng thấy và
cũng đã “Xuống thang” bởi tất cả các ông bà trên đều đã có nhà đất ở riêng. Do
vậy phần đất của cụ Tân để lại được coi là “Của hồi môn”.
Sau khi phân tích, đánh giá, các bên đã tự thống nhất lại như sau :
1- Bà Minh ngoài phần 257m2 đất trước chuộc lại của ông Hùng được giữ
nguyên, còn được thêm 45m2 đất nữa. Tổng diện tích bà Minh được hưởng là
302m2 đất;
2- Bà Thuỷ được hưởng 45m2 đất;
3- Ông Năm được hưởng 70m2 đất;
4- Bà Thảo được hưởng 45m2 đất;
5- Bà Giang được hưởng 45m2 đất;
6- Mẹ con bà Trang ngoài phần nhà đất đã xây năm 2000 trên diện tích

80m2 đất được giữ nguyên, còn được thêm 25m2 đất nữa. Tổng diện tích mẹ con
bà Trang được hưởng là 105m2 đất;
7- Để lại 53m2 đất làm ngõ đi chung giữa các gia đình.
Vụ việc đã được giải quyết ổn thoả, các bên đã tự nguyện thi hành và hiện
nay đã được Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội - Chi nhánh quận Hoàng Mai cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
16


PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Bài học kinh nghiệm
Đây là tình huống có thật xảy ra và đã được giải quyết tại phường Thanh
Trì. Qua vụ việc trên em rút ra bài học kinh nghiệm sau :
- Cán bộ hoà giải phải có tâm trong công việc, phải là người am hiểu pháp
luật, có kiến thức xã hội phong phú;
- Khi tổ chức hòa giải phải có sự tự nguyện thực sự của các đương sự,
không được hòa giải một cách gò bó, cưỡng ép hoặc để các bên đương sự cãi vã
nhau;
- Khi tiến hành hòa giải cán bộ hoà giải phải nắm vững sự việc, tìm ra
nguyên nhân mâu thuẫn của các bên, đi sâu giải quyết những vướng mắc trong
tâm tư, tình cảm của họ, đưa ra những gợi ý có tình, có lý, hướng cho họ tự
nguyện thoả thuận với nhau, giải quyết vụ việc một cách tích cực nhất. Nếu thấy
các bên không thể thoả thuận được ngay thì cần giành cho họ thời gian nhất định
để họ tự suy nghĩ.
- Đối với những vụ việc không còn khả năng hoà giải được thì tích cực giải
quyết vụ việc một cách nhanh chóng, không để việc hoà giải kéo dài vô ích.
Nhưng phải kiên trì giải thích cho các đương sự rõ chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân.
2. Kết luận

Qua thực tế và qua nghiên cứu các văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn
công tác, em nhận thức được rằng công tác hòa giải ở cơ sở có vai trò hết sức
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương. Một đơn vị hành
chính phường nếu làm tốt công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở sẽ phát
huy tình đoàn kết, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật trong nhân dân, nâng
cao sự hiểu biết về pháp luật đối với người dân. Nếu công tác hòa giải ở cơ sở bị
buông lỏng, không được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo, cán bộ không nhiệt
17


tình giải quyết sẽ trở thành điểm nóng về đơn thư vượt cấp hoặc khiếu kiện đông
người của phường, quận và thành phố. Chính vì vậy cán bộ cấp cơ sở cần có trình
độ pháp luật nói chung và sự am hiểu các chế độ chính sách về đất đai nói riêng,
năng lực thực tiễn, tinh thần trách nhiệm, làm việc nhiệt tình, đầy tâm huyết,
khách quan vô tư. Trong quá trình hoà giải, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp về
đất đai phải biết vận dụng thực tế với áp dụng văn bản, không cứng nhắc quá,
cũng không mềm mỏng quá.
3. Kiến nghị, đề xuất
UBND xã, phường, thị trấn (Gọi tắt là UBND cấp xã) là cơ quan quản lý
hành chính Nhà nước ở cơ sở, việc hoà giải của UBND cấp xã là hoạt động mang
tính xã hội, hoà giải theo thủ tục hành chính, em đưa ra một số kiến nghị, đề xuất
như sau:
- Đối với việc hoà giải tại UBND cấp xã, pháp luật không quy định trình tự,
thủ tục chặt chẽ như hậu quả của việc đương sự không tham gia hòa giải, không
có công cụ hữu hiệu nào buộc đương sự phải có mặt. Nên nhiều trường hợp do
đương sự không có mặt nên buổi hòa giải không thể tiến hành được. Do vậy đề
nghị Thành phố cần có quy định cụ thể cho phép phường được xử phạt hành chính
đối với trường hợp cố tình vắng mặt - Vì đây là hành vi không thực hiện nghĩa vụ
công dân.
- Các tranh chấp về đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã nhưng không

thành, các bên cũng không khởi kiện ra toà án nhân dân giải quyết. Sau một thời
gian họ lại yêu cầu UBND cấp xã giải quyết. Hiện chưa có văn bản nào quy định
UBND cấp xã phải thụ lý, hay không phải thụ lý để giải quyết tiếp. Do đó đề nghị
Chính phủ, các Bộ ngành và Thành phố cần có quy định cụ thể, tránh tình trạng
nơi này thì nhận, nơi kia không nhận giải quyết, đồng thời tránh làm mất thời
gian, công sức của chính quyền cơ sở.
- Theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003 thì kết quả hòa giải
tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, có chữ ký của các bên tranh chấp
và xác nhận của UBND cấp xã nơi có đất. Tuy nhiên Luật đất đai và các văn bản
18


hướng dẫn thi hành đều không quy định về hiệu lực của biên bản hòa giải thành.
Do đó khi tranh chấp đã được hòa giải thành nhưng sau đó họ lại thay đổi ý kiến
không chấp nhận những nội dung mà chính họ đã tự thoả thuận, thống nhất thì sẽ
được xử lý như thế nào ?. Vì vậy đề nghị Chính phủ cần quy định cụ thể theo
hướng các biên bản hoà giải thành có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên
đương sự. Vì xét về bản chất đây là sự thoả thuận tự nguyện của các đương sự ,
không ai cưỡng ép hay lừa dối ai và việc tự nguyện thỏa thuận này đã được
UBND cấp xã ghi nhận.
- Đề nghị Chính phủ cần quy định rõ trong điều 159 Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 là đối với trường hợp hoà giải thành có thay
đổi về ranh giới, chủ sử dụng đất thì trong thời hạn bao nhiêu ngày UBND cấp xã
gửi biên bản đến Phòng Tài nguyên và Môi trường để trình UBND cùng cấp quyết
định công nhận việc thay đổi đó và cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong phạm vi nghiên cứu và thời gian học tập có hạn, do vậy bài tiểu luận
của em chỉ nêu những gì thực tế nhất mà em đã từng gặp và được giải quyết tại
địa phương nên không tránh khỏi sai sót. Vì vậy em mong các thầy, các cô chỉ bảo
để quá trình công tác của em sẽ được thực hiện ngày càng tốt hơn.


19



×