Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích và bình luậnvề các biện pháp xử kí văn bản khiếm khuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.43 KB, 12 trang )

Lời mở đầu
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Nhà nước tạo ra pháp luật nhằm quản lý các hoạt động của đời sống
xã hội. Trong hoạt động quản lý Nhà nước hiện nay, đặc biệt là trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng.
Xây dựng hệ thống pháp luật tiên tiến, đồng bộ, thống nhất và đảm bảo phát
triển bền vững là yêu cầu có tính cấp thiết hiện nay.
Trên thế giới, pháp luật tồn tại dưới ba hình thức là tập quán pháp, tiền lệ
pháp và văn bản pháp luật. Tuy nhiên, ở nước ta, văn bản pháp luật là phương
tiện chủ yếu nhất để Nhà nước quản lý xã hội. Trong quá trình quản lý các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trên
thực tế. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như các quan
hệ xã hội phong phú, đa dạng và luôn biến đổi theo quy luật khách quan, trình
độ chuyên môn của người soạn thảo văn bản pháp luật còn hạn chế, các quy
định của pháp luật hiện hành về công tác ban hành văn bản pháp luật chưa đầy
đủ và thống nhất,… nên việc ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết còn khá
phổ biến . Những mặt yếu kém đó của văn bản pháp luật dẫn tới chất lượng và
hiệu quả của văn bản pháp luật chưa cao, chưa được đảm bảo trên thực tế. Để
khắc phục những yếu kém của văn bản pháp luật, Nhà nước ta đã đưa ra 6 biện
pháp để xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Các biện pháp đó gồm: Hủy bỏ,
bãi bỏ, thay thế, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành và sửa đổi, bổ sung. Để
cú thể làm rừ hơn vấn đề này em xin lựa chọn đề bài: “Phân tích và bình luận
về các biện pháp xử kí văn bản khiếm khuyết”. Do kiến thức còn hạn hẹp nên
bà làm của em còn có nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong sự nhận xét của
thầy,cô để bài làm em được hoàn thiện hơn.

1


Nội dung


I. Văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Văn bản pháp luật là văn bản được ban hành bởi những chủ thể có thẩm
quyền theo hình thức và thủ tục pháp luật quy định, có nội dung là ý chí của chủ
thể ban hành luôn mang tính bắt buộc và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của
Nhà nước. Văn bản pháp luật gồm ba nhóm văn bản là: Văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản áp dụng pháp luật và một số văn bản hành chính.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu sót,
chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà Nhà nước yêu cầu 1. Văn
bản pháp luật thường bao gồm những khiếm khuyết sau:
- Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị: Các văn bản
pháp luật có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, hay
không phù hợp với ý chí và lợi ích của chính đáng của nhân dân.
- Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lý: Các văn bản
pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành (thẩm quyền về hình thức và thẩm
quyền về nội dung), có nội dung trái với quy định của pháp luật (không viện dẫn
hay viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lý của văn bản đó; nội dung trái
với văn bản pháp luật hiện hành; văn bản áp dụng và văn bản hành chính có nội
dung trái với văn bản quy phạm pháp luật; mệnh lệnh trong văn bản hành chính
không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng mà nó tổ chức thực
hiện), có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia, hay có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành
văn bản pháp luật.
- Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về khoa học: Văn bản pháp
luật có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời
sống xã hội, có nội dung không phù hợp với truyền thống đạo đức, thuần phong
mỹ tục trong xã hội, hay không đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật pháp lý.
II. Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.

1


Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008, Tr. 265.

2


Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là hoạt động được các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện sau khi phát hiện ra văn bản pháp luật khiếm khuyết nhằm
khắc phục hậu quả, sửa chữa sai lầm của việc ban hành văn bản pháp luật khiếm
khuyết đó. Có nhiều biện pháp để xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, cụ thể
có các biện pháp cơ bản: hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ
thi hành và sửa đổi, bổ sung. Việc áp dụng các biện pháp này có thể được tiến
hành đối với toàn bộ văn bản pháp luật khiếm khuyết hoặc một phần văn bản
pháp luật khiếm khuyết.
1. Biện pháp hủy bỏ
Động từ “hủy bỏ” ở đây được hiểu có nghĩa là “bỏ đi, không coi là còn
giá trị”2.
Hủy bỏ là biện pháp xử lý được áp dụng đối với văn bản pháp luật có dấu
hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ
văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội
dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được
ban hành.
Văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ bị hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm
văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lý, nghĩa là Nhà nước hoàn toàn
không thừa nhận giá trị pháp lý của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm, cho dù
trên thực tế, trước khi bị hủy nó đã từng được coi là có hiệu lực và có thể đã
được thi hành.
Ví dụ: Quyết định số 155/2002/QĐ-UB ngày 27/12/2002 của Ủy ban
nhân dân thành phố Đà Nẵng ban hành quy định về xử phạt vi phạm hành chính
và cưỡng chế hành chính đối với hành vi không chấp hành quyết định thu hồi
đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Quyết định này có nhiều khiếm khuyết.

Tiêu biểu như khoản 3, điều 3 quy định: “chủ tịch UBND thành phố ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức không chấp hành quyết định
thu hồi đất của Chính phủ”. Mà theo quy định tại Điều 44, Luật đất đai 2003 thì
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND quận, huyện, thị xã, thành
2

/>%E1%BA%BFm&redirs=1&search=huy+bo&fulltext=Search&ns0=1

3


phố thuộc tỉnh là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất. Chương III, quyết định
155/2002 quy định về quy trình ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, quyết định cưỡng chế hành chính. Trong khi đó, Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 đã quy định tại khoản 7, điều 66 là thủ tục áp dụng các
biện pháp cưỡng chế do Chính phủ quy định, và Chính phủ đã có Nghị định số
37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định thủ tục áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy,
quyết định số 155/2002 của UBND thành phố Đà Nẵng ban hành có nhiều nội
dung trái với quy định của pháp luật hiện hành. Chính vì vậy, UBND Thành phố
Đà Nẵng đã ra quyết định hủy bỏ Quyết định số 155/2002 từ ngày 24/02/2006.
Việc hủy bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết còn làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành nếu văn bản bị hủy bỏ là văn
bản áp dụng pháp luật. Còn đối với văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
hành chính thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn
của chủ thể ban hành.
Biện pháp hủy bỏ được áp dụng đối với cả 3 nhóm văn bản pháp luật là
văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính.
2. Biện pháp bãi bỏ
Động từ “bãi bỏ” được hiểu là “bỏ đi, không thi hành nữa” 3.

Biện pháp bãi bỏ có đối tượng áp dụng là văn bản quy phạm pháp luật
khiếm khuyết.
Biện pháp bãi bỏ văn bản pháp luật được áp dụng trong trường hợp một
phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được
thay thế bằng văn bản khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội
dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình
kinh tế - xã hội thay đổi, cụ thể là: Nội dung của văn bản quy phạm không phù
hợp với đường lối, chính sách của Đảng; đại đa số nội dung trong văn bản không
phù hợp với quyền lợi chính đáng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của
văn bản; nội dung của văn bản không phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật
3

/>%E1%BA%BFm&redirs=0&search=bai+bo&fulltext=Search&ns0=1

4


do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành; phần lớn nội dung của văn bản quy
phạm pháp luật không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội là đối tượng mà
văn bản điều chỉnh; phần lớn nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; văn bản quy phạm pháp
luật không còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa.
Văn bản bị bãi bỏ chỉ bị mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử
lý nó có hiệu lực pháp luật.
Văn bản bị bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn
của chủ thể ban hành văn bản pháp luật sai trái.
Ví dụ: Ngày 16/6/2004, UBND tỉnh Tiền Giang ban hành Quyết định số
31/2004/QĐ-UB quy định tạm thời về trình tự, thủ tục cưỡng chế thực hiện các
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. Khoản 1,
Điều 15 của Quyết định số 31/2004 quy định: Quyết định này được áp dụng tạm

thời trong thời gian Chính phủ chưa ban hành quy định thủ tục cưỡng chế thi
hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục thi hành các biện pháp
cưỡng chế. Đến khoản 7, Điều 66, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (sửa đổi, bổ sung 2008) quy định: Thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng
chế do Chính phủ quy định. Và ngày 18/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định
số 37/2005/NĐ-CP quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Từ đó ta thấy quy định của địa phương
có trước khi Chính phủ ban hành Nghị định số 37/2005/NĐ-CP, nên sau khi
Nghị định này ra đời thì ngày 18/01/2006, UBND tỉnh Tiền Giang ra Quyết định
số 02/2006/QĐ-UB bãi bỏ Quyết định số 31/2004/QĐ-UB. Như vậy, sau gần 2
năm có hiệu lực thi hành thì Quyết định số 31/2004 đã bị hết hiệu lực kể từ ngày
Quyết định số 02/2006/NĐ-UB có hiệu lực thi hành.
3. Biện pháp thay thế
Biện pháp thay thế được áp dụng đối với văn bản pháp luật có dấu hiệu
khiếm khuyết nhưng không vi phạm pháp luật, ví dụ như: Nội dung văn bản
không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng.

5


Cơ quan ban hành văn bản nào thì cơ quan đó có thẩm quyền thay thế văn
bản đó.
Văn bản pháp luật bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn
bản mới đươc ban hành có hiệu lực.
Ví dụ: Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội khóa XII,
kỳ họp thứ 3, số 17/2008/QH12 ngày 03 tháng 06 năm 2008 ra đời đã thay thế
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002. Do thực
tiễn đất nước có nhiều thay đổi lớn và đang phát triển đi lên về mọi mặt, trong
đó vấn đề pháp luật - đặc biệt là ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một

nội dung quan trọng, nên Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2002 không còn phù hợp với tình hình và yêu cầu của thực tiễn, và cần phải
có một văn bản Luật mới để điều chỉnh. Do đó, Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật 2008 đã ra đời thay thế hai Luật trên để điều chỉnh hoạt động
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Kể từ ngày 01/01/2009 - ngày Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành thì hai luật bị thay thế hết
hiệu lực thi hành.
4. Biện pháp đình chỉ thi hành
Đình chỉ được hiểu là “ngừng, cắt, sự ngưng lại” 4. Biện pháp đình chỉ thi
hành văn bản pháp luật là việc ngừng hay chấm dứt hiệu lực của văn bản pháp
luật.
Đình chỉ thi hành là biện pháp xử lý được áp dụng kèm theo việc hủy bỏ,
bãi bỏ, thay thế đối với văn bản quy phạm pháp luật; hoặc cũng có thể là biện
pháp độc lập được áp dụng để chấm dứt hiệu lực hay tạm dừng hiệu lực của văn
bản quy phạm pháp luật để chờ cấp có thẩm quyền xử lý.
Biện pháp đình chỉ việc thi hành văn bản pháp luật áp dụng trong trường
hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ
kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh
4

/>
6


hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân.
Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho
đến khi có quyết định xử lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nếu cấp có
thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản pháp luật hết hiệu lực, còn

nếu không bị hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực. Thời điểm ngưng
hiệu lực, tiếp tục hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản phải quy
định rõ tại quyết định đình chỉ thi hành, quyết định xử lý của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
Ví dụ: Ngày 09/04/2003, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành Chỉ thị
số 04/2003/CT-CT về việc cấm lưu hành các phương tiện giao thông tự lắp ráp,
phương tiện cũ nát không đảm bảo tiêu chuẩn lưu hành; cấm xe công nông chạy
trên tuyến đường cao tốc (QL1 mới). Sau khi đối chiếu với các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành thì Chỉ thị số 04/2003 có những nội dung trái pháp
luật sau: Địa phương quy định biện pháp “tịch thu” là trái với quy định của pháp
luật, chủ tịch UBND không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Chính vì vậy, ngày 08/05/2006, Bộ Trưởng Bộ Tư pháp ra Quyết định số
1212/QĐ-BTP về việc đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn
bản trái pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do các địa phương ban hành,
trong đó có Chỉ thị số 04/2003/CT-CT bị đình chỉ toàn bộ nội dung, và kể từ
ngày 10/05/2006, UBND tỉnhBắc Ninh tự hủy bỏ Chỉ thị này. Như vậy, sau khi
bị Bộ Tư pháp đình chỉ, Chỉ thị số 04/2003 bị ngưng hiệu lực, và sau khi bị
UBND tỉnh Bắc Ninh hủy bỏ thì chỉ thị này sẽ hết hiệu lực thi hành.
5. Biện pháp tạm đình chỉ thi hành
Tạm đình chỉ được hiểu là “tạm thời ngưng hoạt động trong một thời gian
ngắn trước mắt” 5. Biện pháp tạm đình chỉ thi hành là việc ngưng áp dụng,
ngưng hiệu lực của văn bản pháp luật trong một thời gian.
Biện pháp tạm đình chỉ thi hành được áp dụng đối với các văn bản áp
dụng pháp luật trong những trường hợp sau:
5

/>
7



- Chủ thể không có thẩm quyền xử lý văn bản áp dụng pháp luật nhưng
có cơ sở cho rằng văn bản đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết định tạm
dừng để chờ cấp có thẩm quyền xử lý. Đối với trường hợp này, văn bản pháp
luật bị tạm đình chỉ hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ;
hoặc tiếp tục có hiệu lực khi cấp có thẩm quyền tuyên bố không hủy bỏ văn bản
đó.
- Chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi hành văn bản
trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền diễn ra thuận lợi khi có cơ sở
cho rằng việc thi hành văn bản pháp luật có thể gây cản trở hoạt động công
quyền. Đối với trường hợp này, khi xét thấy việc tạm đình chỉ không cần thiết
thì người ra quyết định tạm đình chỉ phải ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ đó,
và văn bản bị tạm đình chỉ tiếp tục có hiệu lực.
Ví dụ: Ngày 13/9/2006, UBND tỉnh Hải Dương ban hành Quyết định số
3105/2006/QĐ-UBND về việc tạm thời đình chỉ thực hiện Điều 3, Điều 4 Quyết
định số 3149/2002/QĐ-UB ngày 17/7/2002 của UBND tỉnh Hải Dương và Điều
4, Điều 5 Quyết định số 920/2003/QĐ-UB ngày 03/4/2003 của UBND tỉnh Hải
Dương về ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các cụm công nghiệp và làng nghề
trên địa bàn tỉnh. Nguyên nhân là do miễn giảm tiền thuê đất và thuế nhập doanh
nghiệp cao hơn so với quy định chung và không còn phù hợp với chỉ đạo hiện
nay của Chính phủ. Việc tạm đình chỉ một số điều trong 2 Quyết định nêu trên
đã làm ngưng hiệu lực của văn bản trong một thời gian để chờ xử lý của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung
Biện pháp sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật được áp dụng đối với các
văn bản pháp luật có tính chất và mức độ khiếm khuyết rất nhỏ. Cả hai biện
pháp đều được áp dụng đối với cả ba nhóm văn bản pháp luật là văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính.
Sửa đổi được hiểu là “sửa chữa, thêm bớt cho phù hợp với yêu cầu mới” 6.
Biện pháp sửa đổi là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung văn bản
6


/>search=sua+doi

8


pháp luật hiện hành trong khi vẫn giữ nguyên những nội dung khác. Chính vì
vậy, biện pháp sửa đổi chỉ làm mất hiệu lực pháp luật của bộ phận văn bản bị
sửa đổi, còn toàn bộ văn bản vẫn có hiệu lực pháp luật.
Bổ sung được hiểu là “thêm vào cho đầy đủ” 7. Do đó, biện pháp bổ sung
là việc ra văn bản để thêm vào nội dung của văn bản pháp luật những quy định
mới trong khi vẫn giữ nguyên những nội dung vốn có của văn bản. Việc áp dụng
biện pháp bổ sung để xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết không làm ảnh
hưởng đến hiệu lực pháp luật của văn bản mà chỉ làm thay đổi nội dung, quy mô
của văn bản được bổ sung.
Ví dụ: Trong điều kiện, tình hình đất nước đổi mới và ngày càng gia nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới thì Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sau 10 năm
có hiệu lực đã dần bộc lộ nhiều thiếu sót, không phù hợp cho sự phát triển. Do
đó, ngày 19/6/2009 tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều củ bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010.
III. Thực trạng và hướng hoàn thiện các biện pháp xử lý văn bản pháp luật
khiếm khuyết.
Về vấn đề trách nhiệm bồi hoàn, bồi thường của chủ thể ban hành: Pháp
luật quy định trách nhiệm bồi hoàn, bồi thường của chủ thể ban hành văn bản áp
dụng pháp luật khiếm khuyết bị hủy bỏ, trong khi đó, văn bản hành chính và văn
bản quy phạm pháp luật cũng là văn bản pháp luật nhưng chủ thể ban hành hai
loại văn bản náy nếu có khiếm khuyết và bị hủy bỏ thì cũng không phải chịu
trách nhiệm gì. Đây là một điều bất cập. Vì vậy, để đảm bảo tính khoa học, hợp
lý chỉ nên quy định về biện pháp hủy bỏ đối với văn bản áp dụng pháp luật mà
không quy định biện pháp hủy bỏ đối với văn bản quy phạm pháp luật và văn

bản hành chính.
Khi một văn bản pháp luật khiếm khuyết bị xử lý thì văn bản đó sẽ mất
hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần tính từ thời điểm văn bản xử lý nó có
hiệu lực. Khi văn bản bị xử lý mất hiệu lực thì các văn bản liên quan đến văn
bản đó cũng bị mất hiệu lực toàn bộ hay một phần nếu trái với văn bản pháp luật
7

/>%E1%BA%BFm&redirs=0&search=bo+sung&fulltext=Search&ns0=1

9


mới. Tuy nhiên, trên thực tế pháp luật chỉ quy định một cách chung chung là
những điều nào trái với điều luật mới thì hết hiệu lực thi hành. Những điều này
không được quy định rõ trong luật dẫn tới việc thực hiện luật hết sức khó khăn,
dễ nảy sinh mâu thuẫn. Chính vì vậy, khi ra một văn bản luật, pháp luật nên quy
định một cách cụ thể văn bản nào liên quan với nó hết hiệu lực thi hành trên
thực tế.
Biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ là hai khái niệm pháp lý khác nhau nhưng
chưa được quy định rõ trong luật. Điều này dẫn tới các cơ quan Nhà nước khi xử
lý văn bản pháp luật cũng tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này, thậm
chí còn không sử dụng nhất quán. Như vậy, pháp luật cần phải quy định cụ thể
hơn để phân biệt giữa hai biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ văn bản pháp luật khiếm
khuyết.

Kết luận
Việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật là một trong những hoạt
động rất quan trọng của Nhà nước, ban hành văn bản pháp luật hợp hiến và hợp
lý là đảm bảo tính dân chủ và quyền lợi của người dân cũng như vận mệnh của
đất nước. Để nâng cao hơn nữa chất lượng của văn bản pháp luật, việc hoàn

thiện các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết đóng một vai trò rất
quan trọng. Khi phát hiện ra văn bản pháp luật khiếm khuyết, việc đề ra và thực
hiện các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết đã góp phần nhanh
chóng giải quyết được vấn đề còn thiếu sót, góp phần đảm bảo dân chủ, công
bằng và sự nghiêm minh của pháp luật.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật,
Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Bùi Thị Đào, Vấn đề bãi bỏ và hủy bỏ văn bản QPPL, Tạp chí Luật
học, số 5/1998.

10


3. Bùi Thị Đào, Giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 9/2002.
4. Bùi Thị Đào, Văn bản quy phạm pháp luật và xử lý văn bản quy phạm
trái pháp luật, Tạp chí Luật học, số 10/2007.
5. Bùi Thị Đào, Lê Vương Long, Vấn đề xử lý VBPL bất hợp lý, Tạp chí
Luật học, số 08/2008.
6. Pháp luật về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Lào và
Việt Nam nghiên cứu từ góc độ so sánh, Luận án thạc sỹ, Phousakhone
Meuangwong, Người hướng dẫn: TS.Nguyễn Quốc Hoàn, Hà Nội, 2009.
7. Website:

Từ viết tắt: UBND: Ủy ban nhân dân

Mục Lục


Mục lục...........................................................................................................- 12 -

11


12



×