Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.22 KB, 16 trang )

ĐỀ BÀI
Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút
dao đâm ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp
cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác định A phạm tội giết người
theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với
tội giết người.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích
rõ tại sao.
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội
trong vụ án.
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A
sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ
lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Giải thích rõ tại sao.
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do
được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp
dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm
tù thì hình phạt tòa án quyết định đối với A có đúng không? Giải
thích rõ tại sao.
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một
công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà
Nội thì A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích
rõ tại sao.


Hiện nay vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự còn nhiều vướng mắc
và phiến diện, sai lầm trong việc thực hiện trách nhiệm hình sự (TNHS) vẫn
còn diễn ra. Vậy vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức đầy đủ về TNHS. Vì
vậy, em xin được tìm hiểu rõ hơn về vấn đề trách nhiệm hình sự qua tình


huống đưa ra ở đề bài.
1.Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội
giết người.
Phân loại tội phạm là việc phân chia tội phạm theo các căn cứ cụ thể
thành những nhóm tội phạm khác nhau nhằm mục đích nhất định. Có nhiều
cách để phân loại tội phạm nhưng cách phân loại được ghi nhận trực tiếp tại
khoản 2, khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) hiện nay là căn cứ vào
mức độ của tính chất nguy hiểm cho xã hội và được phân thành tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Phân loại tội phạm theo mức độ của tính nguy
hiểm cho xã hội vừa là biểu hiện của sự phân hóa TNHS trong luật và cũng
là thống nhất cần thiết cho việc xây dựng các chế định, các điều luật nhằm
phân hóa TNHS trong phần chung cũng như phần các tội phạm của BLHS.
Thể hiện nguyên tắc này luật hình sự Việt Nam phân tội phạm thành
bốn loại tội phạm, định nghĩa được ghi nhận tại khoản 3 Điều 8 BLHS.
Như vậy căn cứ theo khoản 3 Điều 8 BLHS, ta có thể phân loại tội
phạm đối với tội giết người như sau:
Tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS
Khoản 1 Điều 93 BLHS: “1. người nào giết người thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm,
tù chung thân hoặc tử hình:…”
Khoản 1 Điều 93 là cấu thành tội phạm tăng nặng quy định 16 trường
hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội giết người với khung hình


phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung than hoặc tử hình. Như vậy mức hình
phạt cao nhất của khoản 1 là tử hình. Theo căn cứ phân loại tội phạm( khoản
3 Điều 8) thì tội phạm tại khoản1 Điều 93 đều là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Khoản 2 Điều 93: “2. phạm tội không thuộc các trường hợp quy định

tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm…”
Khoản 2 Điều 93 là cấu thành tội phạm cơ bản của tội giết người quy
định khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Như vậy mức hình phạt cao
nhất của khoản 2 Điều 93 là 15 năm tù. Theo căn cứ phân laọi tội
phạm( khoản 3 Điều 8) thì các tội phạm tại khoản 2 Điều 93 đều là tội phạm
rất nghiêm trọng. Nội dung tại khoản 3 của Điều luật này: “3. người phạm
tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ
một năm đến năm năm” chỉ là mang tính chất nêu hình phạt bổ sung đối với
loại tội phạm giết người.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ
tại sao.
Phạm tội cũng như các hành vi khác của con người trong xã hội là
diễn ra theo quá trình nhất định. Người cố ý phạm tội luôn mong muốn thực
hiện được trọn vẹn quá trình đó để đạt được mục đích của mình, nhưng trong
thực tế thì không phải bao giờ người phạm tội cũng đạt được mục đích dự
tính, có thể vì những nguyên nhân khách quan hay chủ quan nào đó mà tội
phạm phải dừng lại ở những thời điểm khi chưa đạt được kết quả mà người
phạm tội mong muốn từ ban đầu. Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và
qua đó có cơ sở để xác định hành vi TNHS của người phạm tội, luật hình sự
Việt Nam phân biệt ba mức độ thực hiện tội phạm : Chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.


Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi
tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt
đầu thực hiện tội phạm.(Điều 17 BLHS).
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.(Điều 18
BLHS)

Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết
các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành của tội giết người
Theo luật Hình sự Việt nam, để xác định trường hợp phạm tội chưa
đạt có 3 dấu hiệu sau:
- Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Sự bắt đầu này thể
hiện ở chỗ người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả
trong cấu thành tội phạm.
- Người phạm tội khôn thực hiện tội phạm được đến cùng( về mặt
pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thảo mãn hết các dấu hiệu( thuộc mặt
khách quan) của cấu thành tội phạm
- Người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng là do
những nguyên nhân ngoài ý muón của họ, còn bản than họ vẫn mong tọi
phạm hoàn thành
Trong trường hợp của A,
+ A đã bắt đầu thực hiện tội phạm thể hiện ở chỗ A thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm ở tội giất người, hành vi
trái pháp luật tước đoạt tính mạng của người khác, đó là hành vi dung dao
đam B


+ A không thực hiện được tội phạm đến cùng( về mặt pháp lí), vì
thiếu dấu hiệu hậu quả thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm, A
dung dao đâm B nhung B không chết
+ A đã thực hiện hết các hành vi mà A cho rằng B đã chết, đó là hành
vi A đâm B 3 nhát, và bỏ đi vì tưởng rằng B đã chết. Nhưng hậu quả không
xảy ra( B không chết) là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của A( do có
người phát hiện và cấp cứu B kịp thời). Còn bản thân A, A vẫn mong muốn
B chết, vì A giết B vì ghen tuông.

Qua phân tích trên chúng ta thấy hành vi đã thực hiện của A có đủ các
dấu hiệu của giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Vậy hành vi phạm
tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
3.Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội
trong vụ án
3.1. Đối tượng tác động của tội phạm
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội
phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Trong trường hợp trên thì A đã tác động tới B là chủ thể của quan hệ
nhân thân, một loại quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ nhân
thân là loại quan hệ chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng
bình thường của con người. Mà ở đây thì cụ thể là A đã rút dao đâm ba nhát
vào B như vậy hành vi của A đã trực tiếp đe dọa xâm hại tới sức khỏe mà
nghiêm trọng hơn là tính mạng của B. Như vậy, A đã làm thay đổi trạng thái
bình thường của B thông qua hành vi phạm tội đã nêu.
3.2 Công cụ phạm tội


Công cụ phạm tội là một dạng cụ thể của phương tiện phạm tội,
phương tiện phạm tội là dấu hiệu không bắt buộc có trong tất cả các CTTP.
Trường hợp trên, công cụ mà tội phạm sử dụng là một con dao, có thể gây
ảnh hưởng tới khỏe và tính mạng của người bị hại.
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ
quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ
thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải
thích rõ tại sao
Do A ban đầu có ý định giết B nhưng sau đó do sợ hãi A đã k hoàn
thành được ý định của mình mà chỉ gây thương tích cho B.
+) xét hành vi của A với TNHS của tội giết người.Trước hết, ta có thể

khẳng định, trường hợp của A là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Ta
được biết:
“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực
hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm; nếu hành vi thực
tế đã có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu TNHS
về tội này”(Điều 19 BLHS).
Dấu hiệu để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là:
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm
đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.
- Việc chấm dứt không thực hiện tội phạm phải là tự nguyện và dứt
khoát.
Trong trường hợp này hành vi của A được xem là tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội do hành vi của A thỏa mãn cả hai điều kiện trên. Khi
A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi
không tiếp tục đâm B đến chết. Trong trường hợp này A chưa thực hiện hết


các hành vi để gây ra hậu quả của tội phạm ( là dấu hiệu của phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành) do A sợ khi thấy B bị thương ra máu nhiều, cho thấy
dừng lại việc phạm tội là do ý muốn chủ quan của A có cảm giác sợ hãi khi
gây thương tích cho B. Do vậy, A không phải chịu TNHS về tội giết người
(Điều 93)
+) Xét TNHS của A với tội cố ý gây thương tích. Trong trường hợp trên,
những hành vi của A gây ra cho B “A mới đâm B một nhát, thấy B bị
thương, máu ra nhiều” và “B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%”đã
đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS) nên dù được
miễn TNHS của tội giết người nhưng A vẫn phải chịu TNHS của tội cố ý
gây thương tích.
Vậy, ta có thể kết luận, A vẫn phải chịu TNHS cho hành vi cố ý gây

thương tích cho B nhưng được miễn TNHS cho tội giết người.
5.Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do
được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp
dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì
hình phạt tòa án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại
sao.
Khi A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được
phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Thì A bị tòa xác định
phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS. Vì vậy mức phạt tù mà A
phải chịu là từ bảy năm tới mười lăm năm. Nhưng trường hợp của A tòa án
áp dụng khoản 2 Điều 93 tuyên hình phạt là 13 năm tù thì hình phạt mà toàn
án quyết định đối với A là sai mặc dù là hình phạt 13 năm tù phù hợp với
khoảng thời gian là từ bảy năm tù tới mười lăm năm tù.
Hình phạt của tòa án là sai do trường hợp của A là trường hợp phạm
tội chưa đạt mà theo khoản 3 Điều 52 BLHS là quyết định hình phạt trong


trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt : “3. Đối với trường hợp
phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao
nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này
trong trường hợp đặc biết nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Vì vậy theo khoản 2 Điều 93 BLHS thì mức phạt tù mà tòa án có thể
áp dụng đối với A là không quá ba phần tư của 15 năm tức là không quá 11
năm 3 tháng mà ở trong trường hợp trên A bị tòa án tuyên hình phạt là 13
năm tù là thời gian vượt quá so với quy đinh tại khoản 3 Điều 52 BLHS.
Vậy nên, tòa án đã sai khi tuyên hình phạt 13 năm tù cho hành vi của A.
6.Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một
công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì
A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.

Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền toàn vẹn và tuyệt đối của quốc gia
đã được luật pháp quốc tế thừa nhận rộng rãi, luật hình sự Việt Nam có hiệu
lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa là bất kì tội phạm nào thực hiện trên
vùng đất, vùng nước, vùng trời của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đều có
thể bị xét xử theo luật hình sự Việt Nam. Tội phạm được coi là thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam khi tội phạm ấy có một trong những giai đoạn thực
hiện tội phạm được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa là tội phạm ấy
được bắt đầu hoặc diễn ra hoặc kết thúc trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong trường hợp trên A là người nước ngoài đang là nhân viên làm
thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội và hành vi của A xảy ra tại Hà
Nội. Ta có thể xác định A không phải là đối tượng được hưởng các quyền
đặc miễn tư pháp như những người đứng đầu nhà nước,tham tán đại sứ, bí
thư, tùy viên,…nên A sẽ bị truy cứu TNHS do phạm tội trên lãnh thổ nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLHS “Bộ


luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Về mặt khách thể thì hành
vi phạm tội của A đã xâm hại tới khách thể quan hệ nhân thân. Chủ thể của
tội phạm là A (một con người cụ thể). Vì vậy, A sẽ bị truy cứu TNHS theo
BLHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do đã xâm phạm tới quan hệ xã
hội được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Đạo luật hình sự Việt Nam có hiệu lực
tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam
dù người thực hiện tội phạm là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay là
người không quốc tịch.
Hiện nay tình hình tội phạm ngày càng gia tăng, nhất là loại tôi phạm
giết người – loại tội phạm gây nguy hiểm mức cao nhất cho xã hội. Từ đó
đặt ra những bài toán khó cho nhà làm luật và thi hành luật, đòi hỏi họ phải
sáng suốt và tỉ mỉ hơn trong quá trình lập pháp và hành pháp. Việc nghiên
cứu sâu vấn đề TNHS và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa

vô cùng to lớn trong việc hoàn thiện pháp luật và công cuộc đấu tranh phòng
ngừa tội phạm gia tăng.


Tài liệu tham khảo
- Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam (được sửa đổi, bổ sung
ngày 19/6/2009)
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, trường Đại học luật Hà Nội,
NXB CAND, Hà Nội, 2009


PHỤ LỤC
Một số điều luật được sử dụng trong bài làm:
Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội
trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện
trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn
trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp
luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế,
thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường
ngoại giao.
Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm


ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm
tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;
tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm
năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc
biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
4. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy

hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được
xử lý bằng các biện pháp khác.
Điều 93. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn

nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của
mình;


e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này,
thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt
quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người;



b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều
người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của
mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm
a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ
31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các
điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm
năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc
tù chung thân.



Điều 52. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình
phạt đựơc quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm
tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến
cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là
tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù
mà điều luật quy định.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có
thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư
mức phạt tù mà điều luật quy định.




×