Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.73 KB, 12 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật ngày càng
cao thì yêu cầu với các văn bản pháp luật được ban hành phải hoàn thiện là điều tất
yếu. Có nhiều văn bản pháp luật khi được ban hành và áp dụng trên thực tế gặp
không ít khó khăn khách quan và chủ quan dẫn tới những bất hợp pháp và bất hợp
lý đã nảy sinh. Do đó đi cùng việc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội là một hệ thống các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm
khuyết. Bài tiểu luận sau đây sẽ đi sâu phân tích và bình luận về các biện pháp xử
lý văn bản khiếm khuyết.
II.

NỘI DUNG

1. Khái quát chung về văn bản pháp luật khiếm khuyết
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản pháp luật “còn thiếu sót,
chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.1
• Những khiếm khuyết của văn bản pháp luật:
Thứ nhất, các Văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về chính trị. Đó
là các văn bản pháp luật (chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật) có nội dung
không phù hợp với đường lối, chính sách của đảng. Các văn bản pháp luật có nội
dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là
khiếm khuyết về chính trị.
Thứ hai, các văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lí bao gồm: văn
bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành; văn bản pháp luật có nội dung trái
với quy định của pháp luật; văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia; văn bản pháp luật có sự vi
phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành.
Thứ ba, văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về khoa học bao


gồm: văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận
động của đời sống xã hội và Văn bản pháp luật có sự khiếm khuyết về kĩ thuật
pháp lí.
1

giáo trình XDVBPL- trường Đại học Luật Hà Nội, trang 265


2. Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Phân tích và bình
luận.
Việc xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước
và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp
luật khiếm khuyết. Pháp luật tuy không có điều khoản nào quy định trực tiếp các
biện pháp xử lí Văn bản pháp luật khiếm khuyết, tuy nhiên thông qua quy định tại
điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra và xử lý văn bản
quy phạm pháp luật và quy định tại điều 9 luật ban hành Văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008 chúng ta có thể hiểu các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm
khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, đình chỉ thi hành, tạm đình
chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung.
2.1) Biện pháp hủy bỏ
a) Khái niệm:
Hủy bỏ: là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp lí
kể từ khi văn bản đó được ban hành2.
Hủy bỏ văn bản pháp luật là hình thức xử lí nhằm phủ nhận hoàn toàn hiệu lực
pháp lí của Văn bản pháp luật kể từ thời điểm văn bản đó được ban hành.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Hủy bỏ là biện pháp xử lí được áp dụng với toàn bộ hoặc một phần văn bản
pháp luật bao gồm cả văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và
văn bản hành chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: “một phần
hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền

về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản
được ban hành.”3
c) Hậu quả pháp lí của văn bản pháp luật bị hủy bỏ:
Văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ hết hiệu lực pháp luật kể từ khi văn bản đó
được quy định là có hiệu lực pháp lí . Điều đó có nghĩa là nhà nước hoàn toàn
không thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm, cho dù trên
2

3

Từ điển pháp luật- Hành chính Pháp-Việt trang 32
Khoản 1 điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP

2


thực tế trước khi bị hủy bỏ nó đã từng được coi là có hiệu lực và có thể đã được thi
hành.
Nếu văn bản bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì pháp luật còn quy định
trách nhiệm bồi thường , bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản theo quy định tại
bộ luật Dân sự năm 2005 nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế do việc thực hiện Văn
bản áp dụng pháp luật trái pháp luật đó. Hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hành
chính hay trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 34 nghị định Chính phủ số
40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010
d) Chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Theo quy định tại hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, các luật về
tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và
nghị định chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra xử lí văn bản
quy phạm pháp luật thì chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ Văn bản pháp luật khiếm
khuyết bao gồm:

- Uỷ ban thường vụ quốc hội có quyền hủy bỏ Văn bản pháp luật của Chính
Phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái pháp lệnh, nghị quyết của UBTV Quốc hội;
- Tòa án nhân dân cấp trên có quyền hủy bỏ văn bản áp dụng pháp luật do tòa
án nhân dân cấp dưới ban hành nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Tòa án hành
chính có quyền hủy bỏ Văn bản áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính nhà
nước trong một số loại việc do pháp luật quy định.
- Cơ quan nhà nước ra quyết định hủy bỏ Văn bản pháp luật khiếm khuyết do
chính mình ban hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về chủ thể có
thẩm quyền xử lí văn bản đó.
d) Bình luận:
Hủy bỏ văn bản pháp luật là một biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm
khuyết đã được pháp luật quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nhìn
chung các quy định này khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong vấn đề quy định về trách
nhiệm của chủ thể ban hành Văn bản pháp luật bị hủy bỏ còn có một số điểm chưa
hợp lí đó là: việc quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành
3


văn bản pháp luật bị hủy bỏ chỉ được xác định với Văn bản áp dụng pháp luật. Nếu
văn bản pháp luật bị hủy bỏ là Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính
thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn chủa chủ thể ban
hành, đây là một điểm bất hợp lí. Trên thực tế khi một văn bản quy phạm sai trái
được áp dụng vào cuộc sống nó sẽ gây ảnh hưởng xấu trên diện rộng và có thể gây
hậu quả nghiêm trọng hơn là một văn bản áp dụng pháp luật chính vì vậy tôi cho
rằng cần quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với cả văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản hành chính.
2.2 Biện pháp bãi bỏ
a) Khái niệm:
Bãi bỏ là “ bỏ đi, không thi hành nữa” 4. Bãi bỏ văn bản pháp luật là hình thức

xử lí nhằm chấm dứt hiệu lực pháp lí của một Văn bản pháp luật đang được thi
hành trên thực tế kể từ thời điểm văn bản đó bị bãi bỏ.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản
là các văn bản quy phạm pháp luật có những dấu hiệu khiếm khuyết (đã nêu trong
phần khái quát chung ở trên). Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung
văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban
hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp
luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi5.
c) Hậu quả pháp lí của Văn bản pháp luật bị bãi bỏ:
Văn bản pháp luật bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản
xử lí nó có hiệu lực pháp luật. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lí của
văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước khi văn bản xử lí văn bản đó có hiệu lực pháp lí.
Do vậy Văn bản pháp luật bị bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường,
bồi hoàn của chủ thể ban hành Văn bản pháp luật sai trái đó.
d) Chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ Văn bản pháp luật:
4

Đọc từ điển từ điển tiếng việt thông dụng năm 1995 trang 41

5

Khoản 2 điều 29 nghị định Chính phủ 40/2010/NĐ-CP.

4


Theo quy định tại hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, các luật về tổ
chức bộ máy nhà nước, luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và

nghị định chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra xử lí Văn
bản quy phạm pháp luật thì chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ Văn bản pháp luật khiếm
khuyết bao gồm:
- Quốc hội có quyền bãi bỏ Văn bản pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ nghị quyết sai trái của HĐND
cấp tỉnh.
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành quyết
định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chỉ thị của
UBND và chủ tịch UBND trái với Hiến pháp , luật và các Văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
- HĐND cấp tỉnh có thẩm quyền bãi bỏ quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp và
nghị quyết của HĐND cấp huyện. Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền bãi bỏ những
Văn bản pháp luật sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND tỉnh và quyết định,
chỉ thị của UBND cấp huyện. Đề nghị HĐND cùng cấp xem xét bãi bỏ nghị quyết
của HĐND cấp huyện.
- HĐND cấp huyện có quyền bãi bỏ quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp và
nghị quyết của HĐND cấp xã. Chủ tịch UBND huyện có quyền bãi bỏ những văn
bản sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND huyện và quyết định, chỉ thị của
UBND cấp xã. Đề nghị HĐND cùng cấp xem xét bãi bỏ nghị quyết của HĐND
cấp xã.
- Cơ quan nhà nước ra quyết định bãi bỏ Văn bản pháp luật khiếm khuyết do chính
mình ban hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về chủ thể có thẩm
quyền xử lí văn bản đó.
e) Bình luận:
Các quy định của pháp luật về bãi bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật tuy nhiên chưa có văn bản pháp luật nào
5



quy định một cách đầy đủ và rõ ràng và phân biêt giữa biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ
Văn bản pháp luật. Chính vì tình trạng pháp luật quy định chung chung dẫn tới các
cơ quan nhà nước khi xử lí Văn bản pháp luật tùy nghi lựa chọn một trong hai biện
pháp này thậm chí còn sử dụng chưa nhất quán.Mặc dù tại điều 29 nghị dịnh Chính
phủ số 40/2010/NĐ-CP đã có sự tách riêng giữa biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ Văn
bản pháp luật nhưng mới chỉ nêu được sự khác nhau về trường hợp áp dụng mà
thôi. Chính vì vậy tôi mong rằng sẽ sớm có những quy định cụ thể và chi tiết hơn
về biện pháp bãi bỏ Văn bản pháp luật để phân biệt với biện pháp hủy bỏ Văn bản
pháp luật.
2.3) Biện pháp thay thế:
a) Khái niệm:
Thay thế là dùng một cái mới thay cho một cái cũ. Thay thế văn bản pháp luật là
dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho một văn bản pháp luật cũ không còn
phù hợp.
b) Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Biện pháp thay thế được áp dụng với văn bản pháp luật có dấu hiệu khiếm
khuyết (không có vi phạm pháp luật). Thay thế được áp dụng trong trường hợp nội
dung của văn bản pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với
đường lối của Đảng.
c) Hậu quả pháp lí của văn bản pháp luật bị thay thế:
Văn bản pháp luật bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản
mới được ban hành hết hiệu lực.
d) Chủ thể có thẩm quyền thay thế Văn bản pháp luật:
Thẩm quyền thay thế Văn bản pháp luật chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành
văn bản đó.
e) Bình luận:
Thay thế là biện pháp xử lí văn bản pháp luật được sử dụng khá phổ biến
hiện nay tuy nhiên pháp luật chưa có một quy định riêng nào về biện pháp này, mà
chỉ được quy định cùng các biện pháp khác tại điều 9 luật ban hành Văn bản quy

phạm pháp luật 2008.
6


2.4) Biện pháp đình chỉ thi hành:
a) Khái niệm:
Đình chỉ thi hành là dừng lại không thi hành nữa.
Đình chỉ thi hành Văn bản pháp luật là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định dừng thực hiện, làm mất hiệu lực của Văn bản pháp luật một
cách tạm thời
b) Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Đình chỉ việc thi hành (một phần hoặc toàn bộ văn bản) áp dụng đối với văn
bản có dấu hiệu trái pháp luật. Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn
bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa
được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể
gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Quyết định đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật phải được
đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
c) Hậu quả pháp lí của biện pháp đình chỉ thi hành:
Khác với các hình thức xử lý khác, đình chỉ việc thi hành một phần hoặc
toàn bộ văn bản không làm chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản/quy định bị
đình chỉ, mà chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử
lý của cơ quan, người có thẩm quyền. Đây như là một “biện pháp khẩn cấp tạm
thời” để làm nhưng hiệu lực pháp lý của các quy định trái pháp luật. Sau khi đình
chỉ việc thi hành văn bản, tuỳ theo tính chất, mức độ sai trái của văn bản, cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng một trong các biện pháp xử lý đối với văn bản trái
pháp luật.
d) Chủ thể có thẩm quyền đình chỉ thi hành Văn bản pháp luật:
Theo quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Nghị định số

40/2010/NĐ-CP thì thẩm quyền đình chỉ Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND,
UBND được quy định tương đối rộng, cụ thể:
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền đình chỉ Văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND, UBND cấp tỉnh;
7


- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền đình chỉ Văn bản quy
phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của
Bộ, cơ quan ngang Bộ; Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền đình chỉ Văn bản
quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ Tư
pháp hoặc liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực;
- Chủ tịch UBND có thẩm quyền đình chỉ Văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND, UBND cấp dưới trực tiếp.
2.5) Biện pháp tạm đình chỉ thi hành:
a) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lí được áp dụng đối với các văn bản áp
dụng pháp luật trong một số trường hợp nhất định. Các trường hợp áp dụng biện
pháp tạm đình chỉ bao gồm:
- Trường hợp thứ nhất: chủ thể không có thẩm quyền xử lí Văn bản áp dụng pháp
luật nhưng có cơ sở cho rằng Văn bản pháp luật đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật
nên quyết định tạm dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí.
- Trường hợp thứ hai: khi có cơ sở cho rằng việc thi hành văn bản pháp luật có thể
gây cản trở hoạt động công quyền thì chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm
dừng thi hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được
diễn ra thuận lợi.
b)

Hậu quả pháp lí:


Văn bản pháp luật bị tạm đình chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến
khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền.
Văn bản pháp luật bị tạm đình chỉ theo trường hợp thứ nhất hết hiệu lực khi cấp
có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ; tiếp thục có hiệu lực khi cấp trên có
thẩm quyền tuyên bố không bãi bỏ, hủy bỏ văn bản đó. Văn bản pháp luật bị tạm
đình chỉ theo trường hợp hai sẽ tiếp tục có hiệu lực khi người ra quyết định tạm
đình chỉ ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ.
c) Bình luận:

8


Nhận thấy biện pháp “tạm đình chỉ thi hành” chỉ là một phần của biện “pháp
đình chỉ thi hành” vì vậy, không cần thiết phải tách rời hai biện pháp này, nên hợp
nhất hai biện pháp để việc áp dụng vào xử lí văn bản pháp luật thuận tiện hơn.
2.6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung:
a) Khái niệm:
Sửa đổi văn bản pháp luật là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội
dung văn bản pháp luật hiện hành trong khi vẫn giữ nghuyên những nội dung
khác. Bổ sung văn bản pháp luật là việc ra văn bản để thêm vào nội dung Văn bản
pháp luật những quy định mới trong khi vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của Văn
bản pháp luật đó.
b) Đối tượng và trường hợp áp dụng:
Biện pháp sửa đổi được áp dụng với Văn bản áp dụng pháp luật trong trường
hợp tại thời điểm ban hành thì văn bản đó đúng thẩm quyền về hình thức, thẩm
quyền về nội dung, có nội dung phù hợp với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao
hơn, với tình hình kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, sau một thời gian thực
hiện thì có một số nội dung của văn bản không còn phù hợp với văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội và cần phải có quy định khác thay các nội dung không còn phù

hợp đó.
Biện pháp bổ sung được áp dụng trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật
phù hợp với Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, phù hợp
với tình hình thực tiễn địa phương, tuy nhiên, nội dung của văn bản chưa đầy đủ,
rõ ràng, chưa toàn diện... nên cần thiết phải có quy định thêm để cho việc quy
định trong Văn bản quy phạm pháp luật được rõ ràng, toàn diện hơn, hiệu quả thi
hành cao hơn.
c) Hậu quả pháp lí:
Sau khi sửa đổi thì văn bản bị sửa đổi vẫn tiếp tục có hiệu lực, chỉ có những
điều, khoản bị sửa đổi là hết hiệu lực và được thay bằng các quy định mới của văn
bản sửa đổi. Văn bản sửa đổi phải xác định rõ điều, khoản, nội dung trong văn
bản bị sửa đổi. Thời điểm có hiệu lực thi hành của văn bản sửa đổi phải đảm bảo
9


theo đúng quy định của pháp luật. Một văn bản có thể sửa đổi nhiều Văn bản
pháp luật khác nhau.
Khác với hình thức “sửa đổi” là thay một số quy định cũ bằng quy định mới do
không còn phù hợp, thì hình thức “bổ sung” không làm mất đi bất cứ quy định
nào của văn bản bị bổ sung, mà thêm vào một số quy định cho toàn diện hơn.
Chính vì vậy bổ sung không làm mất hiệu lực của Văn bản pháp luật được bổ
sung, nhưng nó làm phát sinh hiệu lực của phần bổ sung.
d) Chủ thể có thẩm quyền:
Cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung là cơ quan đã ban hành Văn bản
quy phạm pháp luật đó.
e) Bình luận:
Biện pháp sửa đổi, bổ sung Văn bản pháp luật là một hình thức được áp
dụng phổ biến, đây là cách thức được sử dụng chủ yếu cho các văn bản pháp luật
có chứa các quy phạm pháp luật ở dạng điều khoản và có phạm vi tác động rộng.
Tuy nhiên trong quy định của pháp luật, khái niệm “sửa đổi” và “bổ sung” thường

hay đi liền với nhau, tuy nhiên cần phân biệt khi nào thì dùng khái niệm nào, khi
nào có thể dùng cả 2 khái niệm (trường hợp chỉ “sửa đổi”, “bổ sung” hoặc vừa
“sửa đổi”, vừa “bổ sung”). Hiện nay pháp luật đã quy định tại luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008 cho phép sử dụng một văn bản để sửa đổi, bổ
sung nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Đây là một điểm mới đáng mừng, giúp
cho việc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật đỡ mất thời gian hơn, giảm kinh phí và
những thủ tục không cần thiết.
III.

KẾT LUẬN

Xã hội càng phát triển, do nhu cầu của xã hội nên các cơ quan có thẩm quyền
phải ban hành ngày càng nhiều những văn bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội
nên việc các văn bản có khiếm khuyết là không thể tránh khỏi. Các biện pháp xử lí
VBPL khiếm khuyết có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Mong rằng, các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết sẽ ngày
càng được quy định cụ thể và chi tiết hơn để thuận tiện áp dụng trên thực tế.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật. Đại học luật Hà Nội. NXB
công an nhân dân- 2008.
2. Nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra và xử lý văn
bản quy phạm pháp luật.
3. Hiến pháp Việt Nam 1992.
4. Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
5. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003
6. Từ điển từ điển tiếng việt thông dụng năm 1995

7. Từ điển pháp luật- Hành chính Pháp-Việt.

11


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU…………………………………………………………….
II. NỘI DUNG…………………………………………………............
1. Khái quát chung về văn bản pháp luật khiếm khuyết……………
2. Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Phân tích

1
1
1
2

và bình luận. ………………………………………………………….
2.1) Biện pháp hủy bỏ…………………………………………..
2.2) Biện pháp bãi bỏ……………………………………………
2.3) Biện pháp thay thế…………………………………………
2.4) Biện pháp đình chỉ thi hành…………………………………
2.5) Biện pháp tạm đình chỉ thi hành……………………………
2.6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung…………………………………
III. KẾT LUẬN………………………………………………... ……..

2
4
6
7
8

9
10

12



×