Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

phân tích và bình luận về các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.44 KB, 13 trang )

A.

MỞ BÀI
Để văn bản pháp luật có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu quản lí xã hội ngày

càng cao bằng pháp luật. Pháp luật không chỉ quy định trình tự thủ tục trước khi
ban hành văn bản mà ngay cả khi ban hành và văn bản đã có hiệu lực pháp luật
chúng ta vẫn đặt ra vấn đề xử lí văn bản nếu văn bản đó có khiếm khuyết. Với bài
này, chúng tôi không đi sâu vào phân tích thủ tục hay chủ thề có quyền xử lí văn
bản khiếm khuyết mà đi vào phân tích và bình luận về các biện pháp xử lí văn
bản pháp luật khiếm khuyết.
B. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề về xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết
Hoạt động Thẩm tra, thẩm định( kiểm tra trước) dự thảo văn bản pháp luật có
vai trò hạn chế tối đa sự mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu đồng bộ thiếu tính khả thi
của văn bản trước khi ban hành còn kiểm tra sau đối với văn bản pháp luật có mục
đích loại bỏ khắc phục những khiếm khuyết của văn bản sau khi ban hành. nếu như
hoạt động kiểm tra trước chỉ mang tính tư vấn tham khảo đối với cơ quan soạn
thảo, cơ quan ban hành còn đối với kiểm tra sau thì bắt buộc và có quyền ra đề
nghị áp dụng thì có các biện pháp xử lí văn bản khiếm khuyết khi kiểm tra văn bản
nếu phát hiện có khiếm khuyết
Văn bản pháp luật là hình thức thể hiện ý chí của chủ thể có thẩm quyền, thể
hiện dưới dạng ngôn ngữ viết, được ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật
qui định, nhằm đạt được mục tiêu quản lí đã đặt ra.
Xử lí VBPL khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có
thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm
khuyết. Văn bản pháp luật khiếm khuyết là những văn bản được hiểu là “văn bản
còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảm chất lượng mà nhà nước yêu cầu1.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến VBPL khuyến khuyết và văn bản khiếm khuyết
có một trong những biểu hiện sau:
VBPL không đáp ứng yêu cầu về chính trị: Đó là những văn bản pháp


luật không phản ánh kịp thời đường lối, chính sách của đảng trong từng thời kì,


1

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr 265;

1


từng lĩnh vực hoặc phản ánh không trung thực, không phù hợp đường lối, chính
sách của đảng.hoặc nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của
nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
• Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lí.
+ Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành (thẩm quyền về hình thức và
thẩm quyền về nội dung).
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về hình thức là văn bản có tên gọi
không đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.Văn bản pháp luật vi phạm thẩm
quyền về nội dung là văn bản mà:
- nội dung trái quy định pháp luật hiện hành như không viện dẫn hoặc viện dẫn
sai những văn bản làm cơ sở pháp lí của văn bản đó.
- nội dung văn bản của quy phạm pháp luật cấp dưới trái với nội dung văn bản
quy phạm của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái
với các quy phạm pháp luật hiện hành
- tính bất hợp pháp về nội dung như VBADPL hoặc văn bản hành chính khi có
nội dung trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
+ Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà việt
nam kí kết hoặc tham gia.
Khi ban hành văn bản pháp luật thì yêu cầu đặt ra là nội dung của văn bản
pháp luật trong nước phải tôn trọng và phù hợp với quy định của điều ước quốc tế mà

Việt nam đã kí kết hoặc tham gia. Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với
các điều ước quốc tế mà Việt nam kí kết hoặc tham gia được coi là văn bản pháp luật
khiếm khuyết.
+Văn bản pháp luật có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban
hành.
+ Văn bản pháp luật có thể thức không đúng quy định của pháp luật như việc
thiếu những đề mục cần thiết hoặc được trình bày các đề mục không đúng quy định
của pháp luật. Văn bản pháp luật có thể có sự vi phạm về thủ tục trong việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật hoặc không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác định
hợp pháp cho văn bản áp dụng pháp luật.


Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về khoa học.

Đó là những văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thức trạng và
quy luật vận động của đời sống xã hội. Đây là những văn bản mà trong đó các quy
định cao hơn hoặc thấp hơn thực trạng kinh tế - xã hội, không phù hợp với đời sống
vật chất và ý thức xã hội. Bên cạnh đó, văn bản pháp luật cũng không đáp ứng yêu cầu
2


về khoa học khi có nội dung không phù hợp với truyền thống đạo đức, thuần phong,
mĩ tục trong xã hội. Đồng thời, việc không đảm bảo yêu cầu về khoa học của văn bản
pháp luật còn thể hiện trong sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí.
- Nguyên tắc xử lí VBPL khiếm khuyết



Nguyên tắc nhanh chóng kịp thời




Nguyên tắc khách quan, toàn diện, đúng pháp luật

•Nguyên tắc trách nhiệm pháp lí của cơ quan, cá nhân ban hành và xử lí VBPL
khiếm khuyết
- Thẩm quyền xử lí VBPL khiếm khuyết



cấp trên có thẩm quyền xử lí đối với VBPL do cấp dưới ban hành



cơ quan ban hành VBPL có quyền tự xử lí các VBPL do mình ban hành khi bị

khiếm khuyết


Tòa án nhân dân (tòa án nhân dân huyện, tòa án hành chính) có thẩm quyền

xử lí đối với một số văn bản ADPL do cơ quan hành chính nhà nước ban hành khi
có vi phạm pháp luật.
2.

Các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết
Pháp luật tuy không có điều khoản nào quy định trực tiếp các biện pháp xử lí

VBPL khiếm khuyết, tuy nhiên thông qua quy định quy định tại điều 9 luật ban
hành VBQPPL năm 2008 và tại điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP

ngày12/04/2010 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ( sau đây gọi tắt
là nghị định 40/2010/NĐ-CP)
Điều 9 luật ban hành VBQPPL năm 2008 quy định: “ Sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật”
Điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định: “Các hình thức xử lý văn bản
trái pháp luật gồm:
1. Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản;
2. Hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản”.
Như vậy theo quy định của pháp luật: dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết
của VBPL và bản chất của mỗi biện pháp xử lí, chủ thể có thẩm quyền lựa chọn
một trong các biện pháp dưới đây để xử lí VBPL khiếm khuyết:
3


2.1 Biện pháp hủy bỏ:
Hủy bỏ là quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp lý
kể từ khi văn bản đó được ban hành1. Hình thức xử lí nhằn phủ định hoàn toàn hiệu
lực pháp lí kể từ thời điểm được ban hành có nghĩa là văn bản đó đã vi phạm
nghiêm trọng đến mức không thể chấp nhận giá trị pháp lí của nó2
Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Hủy bỏ là biện pháp xử lí được áp dụng với toàn bộ hoặc một phần VBPL bao
gồm cả VBQPPL,VBADPL và văn bản hành chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật
nghiêm trọng như: một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm
quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của
pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành. (khoản 1 điều 29 nghị định
40/2010/NĐ-CP)
Áp dụng biện pháp hủy bỏ toàn bộ văn bản đối với trường hợp văn bản có thể
thức và nội dung như VBQPPL do người không có thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật ban hành;
Áp dụng biện pháp hủy bỏ một phần VBPL thường là hủy bỏ các quy phạm

pháp luật trong văn bản do người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật ban hành nhưng không đúng hình thức văn bản theo quy định của pháp luật;
các quy phạm pháp luật trong văn bản do người không có thẩm quyền ban hành
văn bản quy phạm pháp luật ban hành.
Chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ VBPL khiếm khuyết:
Theo quy định tại hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, các luật về
tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành VBQPPL năm 2008 và nghị định 40/NĐCP thì chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ VBPL khiếm khuyết bao gồm:
- Uỷ ban thường vụ quốc hội có quyền hủy bỏ VBPL của Chính Phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái pháp lệnh,
nghị quyết của UBTV Quốc hội;

1
2

Xem: từ điển Pháp luật- hành chính Pháp- Việt, Nxb Thế giới, H 1992, tr 32
Xem: Bùi thị Đào, bãi bỏ và hủy bỏ văn bản quy phạm phap luật, tạp chí luật học, số 5/1999, tr 5;

4


- Tòa án nhân dân cấp trên có quyền hủy bỏ văn bản áp dụng pháp luật do tòa
án nhân dân cấp dưới ban hành nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Tòa án hành
chính có quyền hủy bỏ VBADPL của cơ quan hành chính nhà nước trong một số
loại việc do pháp luật quy định.
- Cơ quan nhà nước ra quyết định hủy bỏ VBPL khiếm khuyết do chính mình
ban hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về chủ thể có thẩm quyền xử
lí văn bản đó.
Hậu quả pháp lí của VBPL bị hủy bỏ:
VBPL bị hủy bỏ sẽ hết hiệu lực pháp luật kể từ khi văn bản đó được quy định
là có hiệu lực pháp lí . Điều đó có nghĩa là nhà nước hoàn toàn không thừa nhận

giá trị pháp lí của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm, cho dù trên thực tế trước khi
bị hủy bỏ nó đã từng được coi là có hiệu lực và có thể đã được thi hành. Nó mang
đến hậu pháp lí vì nó mất hiệu lực từ khi nó được ban hành thì nó phải chịu trách
nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành nó
Văn bản bị áp dụng biện pháp hủy bỏ này mang hình thức nghiêm khắc hơn,
là những văn bản trái pháp luật
e) Nhận xét:
Hủy bỏ VBPL là một biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết đã được pháp luật
quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, Trong vấn đề quy định về trách
nhiệm của chủ thể ban hành VBPL bị hủy bỏ còn có một số điểm chưa hợp lí đó là:
việc quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL
bị hủy bỏ chỉ được xác định với VBADPL còn VBPL bị hủy bỏ là VBQPPL và
văn bản hành chính thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi
hoàn của chủ thể ban hành, đây là một điểm bất hợp lí. Trên thực tế khi một văn
bản QPPL sai trái được áp dụng vào cuộc sống nó sẽ gây ảnh hưởng xấu trên diện
rộng và gây thiệt hại cho xã hội nhưng không phải bồi thường. Và để đảm bảo tính
khoa học và công bằng thì chúng ta nên qui định trách nhiệm bồi thường đối với tất
cả các VBPL bị khiếm khuyết bị hủy bỏ nếu văn bản đó gây thiệt hại hoặc chúng
ta nên chỉ qui định biện pháp hủy bỏ đối với văn bản ADPL khiếm khuyết
5


2.2 Biện pháp bãi bỏ:
Bãi bỏ là “ bỏ đi, không thi hành nữa”1
Bãi bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm chấm dứt hiệu lực pháp lí của một
VBPL đang được thi hành trên thực tế kể từ thời điểm văn bản đó bị bãi bỏ.
Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản là
các VBQPPL có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết đã nêu ở trên.
Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong

trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được
kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc
tình hình kinh tế - xã hội thay đổi. (khoản 2 điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP)
Chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ VBPL:
Theo quy định tại Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ xung năm 2001, các luật về tổ
chức bộ máy nhà nước, luật ban hành VBQPPL năm 2008 và nghị định chính phủ
số 40/2010/NĐ-CP thì chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ VBPL khiếm khuyết bao
gồm:
- Quốc hội có quyền bãi bỏ VBPL của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ nghị quyết sai trái của
HĐND cấp tỉnh.
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành quyết
định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chỉ thị của
UBND và chủ tịch UBND trái với Hiến pháp, luật và các VBQPPL của cơ quan
nhà nước cấp trên.
- HĐND cấp tỉnh có thẩm quyền bãi bỏ quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp
và nghị quyết của HĐND cấp huyện. Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền bãi bỏ
1

Xem: từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb, Giáo dục, H 1995, tr 41.

6


những VBPL sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND tỉnh và quyết định, chỉ thị
của UBND cấp huyện. Đề nghị HĐND cùng cấp xem xét bãi bỏ nghị quyết của
HĐND cấp huyện.

- HĐND cấp huyện có quyền bãi bỏ quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp và
nghị quyết của HĐND cấp xã. Chủ tịch UBND huyện có quyền bãi bỏ những văn
bản sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND huyện và quyết định, chỉ thị của
UBND cấp xã. Đề nghị HĐND cùng cấp xem xét bãi bỏ nghị quyết của HĐND cấp

- Cơ quan nhà nước ra quyết định bãi bỏ VBPL khiếm khuyết do chính mình ban
hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về chủ thể có thẩm quyền xử lí
văn bản đó.
Hậu quả pháp lí của VBPL bị bãi bỏ
Văn bản pháp luật bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản
xử lí nó có hiệu lực pháp luật. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lí của
văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước khi văn bản xử lí văn bản đó có hiệu lực pháp lí.
Do vậy VBPL bị bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của
chủ thể ban hành VBPL sai trái đó.
Các quy định của pháp luật về bãi bỏ VBPL khiếm khuyết được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật tuy nhiên chưa có văn bản pháp luật nào quy định một
cách đầy đủ và rõ ràng và phân biệt giữa biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL. Chính
vì tình trạng pháp luật quy định chung chung dẫn tới các cơ quan nhà nước khi xử
lí VBPL tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này thậm chí còn sử dụng chưa
nhất quán. Mặc dù tại điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP đã có sự tách riêng giữa
biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ VBPL nhưng mới chỉ nêu được sự khác nhau về trường
hợp áp dụng mà thôi. Chính vì vậy mong rằng sẽ sớm có những quy định cụ thể và
chi tiết hơn về biện pháp bãi bỏ VBPL để phân biệt với biện pháp hủy bỏ VBPL.
2.3 Biện pháp thay thế:
Thay thế là dùng một cái mới thay cho một cái cũ.

7


Thay thế VBPL là dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho một VBPL cũ

không còn phù hợp.
Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Biện pháp thay thế được áp dụng với VBPL có dấu hiệu khiếm khuyết (không
có vi phạm pháp luật). Thay thế được áp dụng trong trường hợp nội dung của
VBPL không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng.
Chủ thể có thẩm quyền thay thế VBPL
Thẩm quyền thay thế VBPL chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành văn bản đó.
Hậu quả pháp lí của VBPL bị thay thế:
VBPL bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản mới được ban
hành hết hiệu lực
Nhận xét:
Thay thế là biện pháp xử lí VBPL được sử dụng khá phổ biến hiện nay tuy
nhiên pháp luật chưa có một quy định riêng nào về biện pháp này, mà chỉ được quy
định cùng các biện pháp khác tại điều 9 luật ban hành VBQPPL 2008.
2.4 Biện pháp đình chỉ thi hành:
Đình chỉ thi hành là dừng lại không thi hành nữa.
Đình chỉ thi hành VBPL là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định
dừng thực hiện, làm mất hiệu lực của VBPL một cách tạm thời
Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Đình chỉ việc thi hành (một phần hoặc toàn bộ văn bản) áp dụng đối với văn bản
có dấu hiệu trái pháp luật. Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ
nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa
được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể
gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Chủ thể có thẩm quyền đình chỉ thi hành VBPL:

8



Theo quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Nghị định số
40 thì thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của HĐND, UBND được quy định tương đối
rộng, cụ thể:
-Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của HĐND, UBND
cấp tỉnh;
-Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của
UBND cấp tỉnh liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang
Bộ; Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của UBND cấp tỉnh
liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp hoặc liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực;
- Chủ tịch UBND có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của HĐND, UBND cấp
dưới trực tiếp.
Hậu quả pháp lí của biện pháp đình chỉ thi hành:
Khác với các hình thức xử lý khác, đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn
bộ văn bản không làm chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản/quy định bị đình chỉ,
mà chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ
quan, người có thẩm quyền. Đây như là một “biện pháp thay thế tạm thời” để làm
ngưng hiệu lực pháp lý của các quy định trái pháp luật. Sau khi đình chỉ việc thi
hành văn bản, tuỳ theo tính chất, mức độ sai trái của văn bản, cơ quan, người có
thẩm quyền áp dụng một trong các biện pháp xử lý đối với văn bản trái pháp luật.
2.5 Biện pháp tạm đình chỉ thi hành:
Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lí được áp dụng đối với các VBADPL
trong một số trường hợp nhất định.
Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm đình chỉ bao gồm:
- Trường hợp thứ nhất: Chủ thể không có thẩm quyền xử lí VBADPL nhưng
có cơ sở cho rằng VBPL đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết định tạm
dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí.

9



- Trường hợp thứ hai: khi có cơ sở cho rằng việc thi hành VBPL có thể gây cản
trở hoạt động công quyền thì chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi
hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được diễn ra
thuận lợi.
- Hậu quả pháp lí:
- VBPL bị tạm đình chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có
quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp thứ nhất hết hiệu lực khi cấp có thẩm
quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ; tiếp thục có hiệu lực khi cấp trên có thẩm
quyền tuyên bố không bãi bỏ, hủy bỏ văn bản đó.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp hai sẽ tiếp tục có hiệu lực khi người ra
quyết định tạm đình chỉ ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ.
Nhận xét:
Nhận thấy biện pháp ‘tạm đình chỉ thi hành’ chỉ là một phần của biện ‘pháp
đình chỉ thi hành’ vì vậy việc tách riêng hai biện pháp là không hợp lí, nên hợp
nhất hai biện pháp để việc áp dụng vào xử lí VBPL thuận tiện hơn.
2.6 biện pháp sửa đổi, bổ xung:
Sửa đổi VBPL là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung VBPL
hiện hành trong khi vẫn giữ nghuyên những nội dung khác.
Bổ xung VBPL là việc ra văn bản để thêm vào nội dung VBPL những quy định
mới trong khi vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của VBPL đó.
Đối tượng và trường hợp áp dụng:
Sửa đổi bổ xung là biện pháp được áp dụng với các VBPL( bao gồm VBQPPL,
VBADPL và văn bản hành chính) khi tính chất và mức độ khiếm khuyết của văn
bản rất nhỏ.
Biện pháp sửa đổi được áp dụng với VBADPL trong trường hợp tại thời điểm
ban hành thì văn bản đó đúng thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung,
có nội dung phù hợp với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, với tình hình

kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện thì có một số
10


nội dung của văn bản không còn phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và
cần phải có quy định khác thay các nội dung không còn phù hợp đó.
Biện pháp bổ sung được áp dụng trong trường hợp VBQPPL phù hợp với
VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương,
tuy nhiên, nội dung của văn bản chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa toàn diện... nên cần
thiết phải có quy định thêm để cho việc quy định trong VBQPPL được rõ ràng,
toàn diện hơn, hiệu quả thi hành cao hơn.
Chủ thể có thẩm quyền:
Cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung là cơ quan đã ban hành VBQPPL đó.
Hậu quả pháp lí:
Sau khi sửa đổi thì văn bản bị sửa đổi vẫn tiếp tục có hiệu lực, chỉ có những
điều, khoản bị sửa đổi là hết hiệu lực và được thay bằng các quy định mới của văn
bản sửa đổi. Văn bản sửa đổi phải xác định rõ điều, khoản, nội dung trong văn bản
bị sửa đổi. Thời điểm có hiệu lực thi hành của văn bản sửa đổi phải đảm bảo theo
đúng quy định của pháp luật. Một văn bản có thể sửa đổi nhiều VBPL khác nhau.
Khác với hình thức “sửa đổi” là thay một số quy định cũ bằng quy định mới do
không còn phù hợp, thì hình thức “bổ sung” không làm mất đi bất cứ quy định nào
của văn bản bị bổ sung, mà thêm vào một số quy định cho toàn diện hơn. Chính vì
vậy bổ xung không làm mất hiệu lực của VBPL được bổ xung, nhưng nó làm phát
sinh hiệu lực của phần bổ xung.
Nhận xét:
Biện pháp sửa đổi, bổ xung VBPL là một hình thức được áp dụng phổ biến,
đây là cách thức được sử dụng chủ yếu cho các VBPL có chứa các QPPL ở dạng
điều khoản và có phạm vi tác động rộng. Tuy nhiên trong quy định của pháp luật,
khái niệm “sửa đổi” và “bổ sung” thường hay đi liền với nhau, tuy nhiên cần phân

biệt khi nào thì dùng khái niệm nào, khi nào có thể dùng cả 2 khái niệm (trường
hợp chỉ “sửa đổi”, “bổ sung” hoặc vừa “sửa đổi”, vừa “bổ sung”). Hiện nay pháp
luật đã quy định tại luật BHVBQPPL năm 2008 cho phép sử dụng một văn bản để
11


sửa đổi, bổ sung nhiều VBPL khác nhau. Đây là một điểm mới đáng mừng, giúp
cho việc sửa đổi, bổ xung VBPL đỡ mất thời gian hơn, giảm kinh phí và những thủ
tục không cần thiết.
3.7 biện pháp đính chính văn bản
Trong quá trình kiểm tra phát hiện văn bản chỉ sai về căn cứ pháp lý được
viện dẫn, thể thức, kỹ thuật trình bày còn nội dung của văn bản phù hợp với quy
định của pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp thì đính chính đối với những
sai sót đó.điều 30 nghị định 40/2010/NĐ-CP
III. KẾT LUẬN:
Tóm lại với mục đích và ý nghĩa của việc xử lí văn bản khiếm khuyết thì không
ai trong số chúng ta có thể phủ nhận vai trò là góp phần vào xây dựng hoàn thiện
hệ thống pháp luật, góp phần tạo nên những văn bản ngày càng có chất lượng đáp
ứng nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật, nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng cần
phải hoàn thiện pháp luật cụ thể chi tiết hơn nhất là với biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ
và quy định những hình thức này ở một văn bản có pháp lí để thống nhất thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb,
Công an nhân dân, Hà Nội, 2008;
2. Bùi thị Đào, bãi bỏ và hủy bỏ văn bản quy phạm phap luật, tạp chí luật học,
số 5/1999;
3. Nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày12/04/2010 về kiểm tra và xử lý văn bản
quy phạm pháp luật
4. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008
5. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân daanvaf ủy

ban nhân dân năm 2004;

12


MỤC LỤC

13



×