Lời nói đầu
Mục đích của Pháp luật khởi nguồn từ chính những nhu cầu thường ngày
của mỗi con người, là công cụ phục vụ, bảo vệ lợi ích mọi thành viên trong xã
hội của Nhà Nước , nảy sinh từ các nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu sản xuất cũng
như các nhu cầu khác trong cuộc sống hàng ngày . Những nhu cầu ngày càng
tăng đó của con người đòi hỏi phải có những phương tiện pháp lý mới nhằm
điều chỉnh và ổn định xã hội .
Chính vì lý do đó, Sự ra đời của những quy phạm pháp luật như một
phương tiện pháp lý điều chỉnh các quy định trong hợp đồng vay tài sản là điều
tất yếu. Trong cuộc sống hàng ngày luôn tồn tại rất nhiều khó khăn tạm thời về
kinh tế, đặc biệt đối với những gia đình túng thiếu cần vốn để sản xuất, kinh
doanh. Bởi vậy việc vay mượn tiền, vàng của người khác một nhu cầu cấp thiết,
một đòi hỏi của thực tiễn khách quan, cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật .
Trải qua hàng ngàn năm phát triển, Hợp đồng vay tài sản ngày nay đã trở thành
một quan hệ tương đối phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Nó có tác dụng
giúp cho bên vay giải quyết những khó khăn kinh tế trước mắt; giúp các doanh
nghiệp khắc phục khó khăn khi thiếu vốn để sản xuất và lưu thông hàng hoá,
phục vụ nhu cầu tiêu dùng của con người, nhu cầu kinh doanh của các doanh
nghiệp. Hợp đồng vay tài sản trong nhân dân thường mang tính chất tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau để giải quyết những khó khăn tạm thời trong cuộc sống, trong
sản xuất, kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của “ hợp đồng vay tài sản “ đối với sự
phát triển và công bằng của xã hội , em xin chọn câu hỏi : “Tìm hiểu 3 vụ việc
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” làm đề tài nghiên cứu trong bài tập nhóm
tháng 1 .
Bài làm còn nhiều thiếu sót , mong thầy cô nhẹ nhàng chỉ bảo.
1|Page
Nội dung
A. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm hợp đồng vay tài sản
a. Khái niệm
Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao cho bên vay một số tiền hoặc tài sản để làm sở hữu. Hết hạn của hợp đồng,
bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia số tiền hoặc hiện vật tương đương với tiền
hoặc vật đã vay đồng thời trả thêm một số lợi ích vật chất nếu các bên có thoả
thuận hoặc pháp luật có quy định.
b. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản
+ Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng đơn vụ.
Xét về nguyên tắc, hợp đồng cho vay là đơn vụ đối với những trường hợp
vay không có lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải hoàn trả vật
cùng loại tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản cho bên cho vay. Bên
vay không có quyền đối với bên cho vay. Tuy nhiên đối với hợp đồng cho vay
có lãi suất thì bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, nếu vi phạm
phải chịu trách nhiệm dân sự.
+ Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù.
Nếu hợp đồng vay có lãi suất là hợp đồng vay có đền bù. Nếu hợp đồng vay
không có lãi suất là hợp đồng không có đền bù.
+ Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản
từ bên cho vay sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản. Vì vậy, bên vay có toàn
quyền đối với tài sản vay, trừ trường hợp vay có điều kiện sử dụng.
2. Đối tượng và kì hạn của hợp đồng vay tài sản
a. Đối tượng
2|Page
Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Tuy
nhiên, trong thực tế, đối tượng của hợp đồng cho vay có thể là vàng, kim khí, đá
quý hoặc một số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được
chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt
đối với tài sản vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tài sản, bên vay có nghĩa vụ
trả cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay hoặc số tiền đã vay.
b. Kỳ hạn
Hợp đồng vay tài sản có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định, không
xác định). Nếu hợp đồng vay tài sản không thoả thuận về kỳ hạn, thì hợp đồng
vay tài sản được coi là không có kỳ hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay
phải thực hiện hợp đồng bất kì thời điểm nào. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho
bên vay chuẩn bị tiền hoặc tài sản khi trả, bên cho vay phải báo cho bên vay
một thời gian hợp lý để thực hiện hợp đồng. Hết thời hạn đó, bên vay buộc phải
thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 477 BLDS). Nếu hợp đồng không có kì hạn,
thì bên vay có thể thực hiện hợp đồng vào bất cứ thời gian nào, bên cho vay
không được từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Xác định
thời điểm chấm dứt hợp đồng vay có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu của hợp đồng .
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả nợ được, thì phải
chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Nếu là vay có lãi, thì bên vay
còn phải trả lãi trên nợ gốc và lãi quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà
nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Nếu vay không
có lãi thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả
nợ, nếu có thỏa thuận (khoản 4 Điều 474).
c. Hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng vay tài sản có thể bằng miệng hoặc bằng văn
bản. Hình thức miệng thường được áp dụng trong những trường hợp như số
lượng tài sản cho vay không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân quen.
3|Page
Trường hợp cho vay bằng miệng, nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng, bên cho vay
phải chứng minh được là mình đã cho vay một số tiền hoặc một số tài sản nhất
định. Trong thực tế, nếu hình thức của hợp đồng bằng miệng mà có tranh chấp,
thì rất khó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Để làm cơ sở pháp lý cho
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản, các bên cần phải kí kết hợp
đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản hoặc yêu cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác nhận văn bản đó.
3. Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản
Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả
thêm vào số tài sản hoặc số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất
thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do
pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất, số tiền vay và thời gian vay mà bên vay
phải trả một số tiền nhất định (tiền lãi). Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số
tiền đã vay và thời gian vay.
Trong hợp đồng vay tài sản, nếu các bên không thoả thuận hoặc pháp luật
không quy định, thì hợp đồng vay không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận
về lãi suất, thì không được vượt quá 150% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng
nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng (Điều 476 BLDS). Như vậy,
nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấp 2, 3 lần lãi suất của Ngân hàng nhà nước
quy định, thì khi tranh chấp xảy ra, mức lãi xuất tối đa mà Toà án chấp nhận
không vượt quá 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định
đối với loại cho vay tương ứng.
4. Quyền và nghĩa vụ của các bên
a. Bên cho vay
Nếu hợp đồng vay không kì hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay
trả tài sản và lãi (nếu có thoả thuận) bất cứ thời gian nào nhưng phải thông báo
cho bên vay một thời hạn hợp lý. Hết thời hạn đó là hết hạn của hợp đồng và
bên vay không trả nợ là vi phạm về thời hạn.
4|Page
Đối với hợp đồng vay có kì hạn, khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay
có quyền yêu cầu bên vay phải trả cho mình một số tiền, tài sản tương ứng với
tiền, tài sản đã cho vay. Ngoài ra nếu các bên có thoả thuận về lãi suất, bên cho
vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi như thoả thuận. Nếu hợp đồng cho vay có áp
dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên vay không thực hiện
đúng thời hạn, thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ như thoả thuận hoặc yêu cầu bán đấu gía để thực hiện nghĩa vụ. Bên
cho vay có nghĩa vụ giao tài sản đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại
như thoả thuận cho bên vay. Nếu bên cho vay có ý lừa dối bên vay chuyển giao
tài sản không bảo đảm chất lượng mà gây thiệt hai cho bên vay, thì phải bồi
thường.
b. Bên vay
Là người cần đến sự giúp đỡ về vật chất của bên cho vay. Do vậy, khi hết
hạn của hợp đồng phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình phát sinh
từ hợp đồng đã kí kết. Phải trả đủ tiền hoăc tài sản đã vay và tiền lãi nếu có thoả
thuận hoặc pháp luật có quy định. Nếu đối tượng hợp đồng là tài sản, thì phải trả
bằng tài sản cùng loại. Nếu hợp đồng cho vay không kì hạn, khi bên cho vay
yêu cầu trả nợ, thì phải thực hiện hợp đồng trong thời gian thoả thuận. Bên vay
cũng có thể thực hiện hợp đồng bất cứ thời gian nào. Thời điểm này được coi là
thời điểm chấm dứt hợp đồng cho vay không kì hạn. Trường hợp các bên có
thoả thuận về mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản
của bên vay có đúng mục đích như thoả thuận hay không. Nếu sử dụng tài sản
không đúng mục đích đã thoả thuận, bên cho vay có quyền hủy hợp đồng (Điều
475 BLDS).
Nếu hợp đồng có kì hạn mà bên vay trả nợ trước thời hạn thì phải trả toàn
bộ nợ gốc và lãi của cả thời hạn vay trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Bởi vì khi cho vay, bên cho vay đã xác định trong thời gian cho vay đó không
sử dụng tài sản, tiền vào mục đích khác, do vậy khi trả lại tài sản thì bên cho
5|Page
vay chưa có kế hoạch sử dụng tài sản đó. Hay nói cách khác bên cho vay sẽ bị
động khi bên vay trả tài sản trước thời hạn (Khoản 2 Điều 478).
5. Họ, hụi, biêu, phường (gọi chung là họ)
Hụi, họ, biêu, phường (họ) là một loại giao dịch dân sự về tài sản. Giao
dịch này đã được nhân dân ta sử dụng từ lâu và nó đã trở thành tập quán. Dưới
hình thức góp vốn, lĩnh vốn theo phường, hội trên cơ sở thoả thuận của một
nhóm người về thời gian, số tiền hoặc tài sản khác (lúa, vật nuôi…), thể thức
góp vốn, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.
Nguyên tắc chung của chơi họ là: nhiều người (nhà con) cùng tham gia
một dây họ bầu ra nhà cái (người thu tiền của các nhà con và chuyển cho người
bốc (bát) họ). Hằng tháng, mỗi nhà con phải góp một số tiền nhất định cho nhà
cái. Lần lượt theo thứ tự bốc thăm hoặc theo thoả thuận đến kỳ hạn bốc họ, một
nhà con sẽ nhận về số tiền từ nhà cái, số tiền này do các nhà con khác góp họ.
Theo thứ tự bốc họ, khi người cuối cùng bốc họ thì dây chấm dứt.
Bản chất truyền thống của góp họ là những người chơi họ tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau. Dưới hình thức góp họ, thành viên góp họ có được số vốn tập trung
để có điều kiện kinh doanh hoặc sử dụng vào những công việc cần chi tiêu lớn.
Những hình thức chơi họ có tính chất lành mạnh được Nhà nước khuyến khích.
Ngược lại, pháp luật cấm lợi dụng hình thức “chơi họ” để nhằm mục đích cho
vay nặng lãi giữa “nhà cái” với các “nhà con”, các hình thức chơi họ nhằm lừa
đảo hoặc các hình thức biến tướng của chơi họ là đánh bạc… Những trường hợp
này tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ mà sẽ bị xử lý hành chính hoặc hình sự.
B. Các vụ việc về tranh chấp hợp đồng cho vay tài sản trong thực tế
1. Vụ việc thứ 1:
Ngày 26/12/2009, tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành đưa ra
xét xử công khai vụ án thụ lý số 55/2009/DSST về việc kiện tranh chấp hợp
đồng vay tài sản :
1.1.Chủ thể:
6|Page
Nguyên đơn: ông Ngô Thế Cẩm
sinh năm1952
Trú tại: Khu tập thể Z117, xã Đông Xuân, Sóc Sơn, Hà Nội.
Bị đơn : ông Ngô Văn Toản
sinh năm 1952 (xin xử vắng mặt).
Trú tại: Khu tập thể Z117,xã Đông Xuân, Sóc Sơn, Hà Nội.
1.2.Nội dung vụ việc :
Ông Ngô Thế Cẩm và Ngô Văn Toản có mối quan hệ bạn bè và ở cùng
khu tập thể Z117, xã Đông Xuân, Sóc Sơn, Hà Nội, thường xuyên chơi với nhau
nên ngày 21/9/2005 ông Toản có hỏi vay ông số tiền là 25.000.000đ với mục
đích để mua xe máy. Vì nể bạn nên ông đã dùng số tiền được bồi thường do vợ
ông bị tai nạn giao thông chết để cho ông Toàn vay với số tiền là 25.000.000,
ông nể bạn nên không tính lãi nhưng ông Toàn vẫn tự viết giấy biên nhận và trả
lãi 1% tháng để nhằm mục đích chống trượt giá, hai bên thoã thuận với nhau là
đến năm 2008 thì thanh toán. Quá trình thực hiện cho đến tháng 4/2008 ông
Toản đều trả lãi đầy đủ, tháng 8/2008 sau khi Toản đi viện điều trị tai biến mạch
máu não thì bà Tịch là vợ ông có sang trả lãi của tháng 5, 6, 7 và thôi không trả
lãi nữa. Ông đã sang đòi nhưng ông Toản không trả lãi và không nhận vay.
Trong quá trình vay, tháng 7/2007 ông Toản đã trả ông được 5.000.000đ,
hiện nay vẫn còn nợ ông 20.000.000 triệu đồng. nay ông yêu cầu ông Toản phải
trả ông 20.000.000đ tiền gốc và lãi vay theo thoã thuận ban đầu là 1%/ tháng
với số tiền gốc hiện chưa trả.
Ông Ngô Văn Toản là bị đơn khai tại toà án như sau: Ông và ông Cẩm
hoàn toàn không có quan hệ vay nợ gì, mặc dù năm 2008 ông có tai biến mạch
máu não nhưng đến nay trí não đã hoạt động bình thường, ông không cần ai
giám hộ cho ông, ông không nhớ những gì xẩy ra trước khi tai biến. Ông từ chối
tham gia hoạt động tố tụng tại Toà án vì lí do sức khoẻ và đề nghị Toà án giám
định chữ ký, chữ viết tại giấy vay nợ do ông Cẩm xuất trình xem có đúng hay
không để đảm bảo quyền lợi cho ông. Phía ông Cẩm cũng có đơn đề nghị đi
trưng cầu giám định chữ viết và chữ kí của ông Toản. Toà án cấp sơ thẩm đã
điều tra xác minh thu nhập chứng cứ mẫu ký của ông Toản tại các hợp đồng tín
7|Page
dụng giữa ông Toản và ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn chi
nhánh Phù Lỗ tại các thời điểm 18/4/2003, 16/3/2004, 20/10/2006, 22/12/2005
và các chữ ký tại toà án để trưng cầu giám định. Tại kết luận giám định số
2356/C21(P6) ngày 2/10/2009 của viện Khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát
đã kết luận chữ ký Toản các chữ ký Ngô Văn Toản dưới mục “Người vay” trên
giấy có nội dung vay tiền ngày 21/9/2005(Kí hiệu A) với chữ viết, chữ ký của
ông Ngô Văn Toản trên các tài liệu mẫu so sánh (Kí hiệu từ M1 đến M6) do
cùng một người ký và viết ra.
1.3.Xét xử của toà án:
Căn cứ: - Điều 471, 474, 476 Bộ Luật Dân Sự năm 2005;
- Điều 195, điều 200, điều 127, điều 128, điều 131 Bộ luật tố tụng dân
sự;
- Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà Án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính.
Xử:
Buộc ông Ngô Văn Toản phải trả cho ông Ngô Thế Cẩm 20.000.000đ
tiền gốc và tiền lãi và 500.000đ chi phí giám định. Tổng cộng, ông Toản phải
trả cho ông Cẩm 23.700.000đ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về àn phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo
đối với các đương sự.
1.4.Nhận xét của nhóm :
Từ những căn cứ và giám định pháp lý nói trên của tổng cục cảnh sát, có
thể khẳng định ông Ngô Văn Toản đã vay của ông Ngô Văn cẩm 25.000.000đ
lãi suất 1%/tháng hợp đồng vay nợ không có thời hạn. Phía ông Cẩm xác nhận
ông Toản đã trả 5.000.000đ hiện còn 20.000.000đ tiền gốc.
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã căn cứ vào những điều khoản cụ thể
để đưa ra phán quyết. Buộc ông Ngô Văn Toản phải trả cho ông Ngô Thế Toản
20.000.000đ tiền gốc và tiền lãi theo thoã thuận. Về lãi suất 1% hai bên thoã
8|Page
thuận không vượt quá 150% của lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố đối
với loại vay tương ứng nên được chấp nhận. Về lãi suất phía ông Cẩm yêu cầu
ông Toản trả lãi suất kể từ tháng 8/2008 đến tháng 12/2009( đến thời điểm xét
xử là 16 tháng *20.000.000*1%x16 = 3.200.000đ và 500.000đ chi phí giám
định), tổng cộng số tiền ông Toản phải trả cho ông Cẩm là 23.700.000đ.
Như vậy, qua việc phân tích như trên ta có thể khẳng định, căn cứ cũng
như quyết định của Toà án nhân dân Sóc Sơn trong việc xét xử vụ án này là
hoàn toàn hợp lý và đúng đắn.
2. Vụ việc thứ 2
Ngày 8/2/2010, tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành đưa ra xét xử
công khai vụ án thụ lý số 24/2010/DS-ST về việc tranh chấp hợp đồng vay tài
sản.
2.1. Chủ thể :
- Bên nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Bảo Trâm, sinh năm 1955. Hộ khẩu thường trú:
số 22, tổ 20 Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. Hiện trú tại: 37 ngõ 296/ 29
Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai – Hà Nội
Người đại diện hợp pháp của chị Trâm là anh Nguyễn Nghiêm Dân, sinh năm
1976, trú tại: số 37, ngõ 296/ 29 Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai – Hà Nội.
- Bị đơn: chị Trần Thị Hằng, sinh năm 1954. Trú tại: số 4B, ngõ 322, đường
Bạch Đằng, quận Hoàn Kiếm – Hà Nội.
2.2. Nội dung vụ việc:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/ 03/ 2009 và lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án, chị Đỗ Thị Bảo Trâm và người đại diện theo ủy quyền của chị Trâm trình
bày: Ngày 01/01/2008 chị và chị Hằng đã có thỏa thuận với cam kết: Chị Hằng
vay của chị 56.000.000đ. Từ tháng 1/2008, chị Hằng sẽ trả cho chị 600.000đ/
tháng cho đến khi hết nợ. Sau đó, chị Hằng đã trả được cho chị 2 tháng (tháng 1
và tháng 2 năm 2008) là 1.200.000đ. Từ đó đến nay không trả nữa. Các lần góp
họ vốn: Lần 1: 20.000.000đ; Lần 2: 15.000.000đ; Lần 3: 17.000.000đ; Lần 4:
13.000.000đ; Lần 5: 5.000.000đ. Tổng cộng là 70.000.000đ, do chị Hằng nói
9|Page
khó nên chị giảm bớt cho chị Hằng 14.00.000đ. Nay yêu cầu chị Hằng thanh
toán nốt số tiền còn lại là 54.800.000đ
Bị đơn chị Trần Thị Hằng trình bày :Về bản cam kết ngày 01/01/2008 do chị
viết Hằng có nội dung: “ Tôi có vay của chị Trâm ở số 3, ngõ 533, Bạch Đằng –
Hoàn Kiếm – Hà Nội số tiền là 56.000.000đ” mục đích để ghi bản cam kết này
là chị sẽ rút đơn kháng cáo và toàn bộ số tiền mà chị phải trả là 56.000.000đ,
trong đó có cả số tiền của bản án số trước đây. Do chị hạn chế hiểu biết pháp
luật nên đã viết cam kết theo ý chị Trâm. Chị đã bị chị Trâm lừa, không có
khoản tiền nào góp họ là 56.000.000đ. Do đó chị không chấp nhận trả cho chị
Trâm số tiền nêu trên.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 20/2009/ DS – ST ngày 07/12/2009, Tòa án nhân
dân quận Hoàn Kiếm đã xác định:
Điều 292, 471, 474, 478 của Bộ luật dân sự; điếm a khoản 1 điều 35; khoản 4
điều 131; khoản 1 điều 202; điều 238; điều 243 và điều 1 khoản 245 Bộ luật tố
tụng dân sự; Điều 312 Nghị định số 144/ CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của
Chính phủ về giải quyết nợ, hội biêu phường; Danh mục mức án phí ban hành
theo pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án; Thông tư số 01/1997 ngày 19/06/1997 của
VKSNDTC – TANDTC, BTP – BTC hướng dẫn xét xử và thi hành án.
Xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Bảo Trâm về việc đòi số tiền
còn thiếu theo bản cam kết ngày 01/01/2008 đối với chị Trần Thị Hằng. Buộc
chị Trần Thị Hằng phải trả cho chị Đỗ Thị Bảo Trâm 54.800.000đ theo bản cam
kết ngày 01/01/2008 với hình thức mỗi tháng là 600.000đ cho đến khi hết số
tiền nêu trên.
Chị Hằng phải chịu 2.700.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại chị Trâm 2.500.000đ tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 003889 ngày
22/06/2009 tại Thi hành án dân sự tại quận Hoàn kiếm
Bản án còn quyết định vể quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi án có hiệu lực pháp luật có đơn xin thi hành án của người được thi hành
án thì người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán, nếu không
10 | P a g e
thực hiện thì phải chịu khoản tiền lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy
định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2.4. Nhận xét của nhóm :
Cách giải quyết của tòa án nhân dân thành phố Hà Nội là tương đối chính xác
bởi lẽ :
Tuy chị Trần Thị Hằng không thừa nhận nợ chị Đỗ Thị Bảo Trâm số tiền
54.800.000đ; nhưng tại bản cam kết ngày 01/01/2008 (BL 12) của chị Trần Thị
Hằng có nội dung: “ Tôi có vay của chị Trâm ở số 3, ngõ 533, Bạch Đằng –
Hoàn Kiếm – Hà Nội số tiền là 56.000.000đ”. Tại bản tự khai ngày 30/06/2009
(BL 22) chị Hằng thừa nhận chữ viết và chữ ký tại bản cam kết nêu trên là do
chị viết và kí ra. Đồng thời tại tòa án cấp phúc thẩm chị Hằng đã thừa nhận nợ
chị Trâm số tiền nêu trên, chỉ yêu cầu được trả dần mỗi tháng 600.000đ. Như
vậy có đủ cơ sở để khẳng định chị Hằng có nợ chị Trâm số tiền nêu trên và đã
cam kết trả nợ. Do đó, tòa xác định đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản đã
quyết định buộc chị Hằng trả cho chị Trâm 54.800.000đ là hoàn toàn hợp lý .
Tuy nhiên vẫn còn 1 số điểm bất hợp lý trong quyết định của tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội:
Cụ thể là tại bản cam kết trả nợ nêu trên chị Hằng hứa trả cho chị Trâm mỗi
tháng 600.000đ, thời gian thực hiện từ tháng 1/2008 đến bao giờ hết số tiền thì
thôi. Sau đó chị Hằng chỉ trả cho chị Trâm được 2 tháng ( tháng 1 và tháng 2
năm 2008 với số tiền là 1.200.000đ) từ đó đến nay không trả nữa . Như vậy, chị
Hằng đã vi phạm cam kết trả nợ. Do đó, việc căn cứ vào bản cam kết để buộc
chị Hằng trả cho chị Trâm mỗi tháng 600.000đ đã làm thiệt hại tới quyền lợi chị
Trâm . Trong trường hợp này nhóm chúng em nghĩ chị Hằng đã vi phạm khoản
4 điều 474 về nghĩa vụ trả nợ của bên vay ,theo đó, do chị Hằng đã không thực
hiện đầy đủ đối với bên cho vay, do vậy, chị phải trả lãi đối với khoản nợ chậm
theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
chậm trả tại thời điểm trả nợ .
11 | P a g e
3. Vụ việc thứ ba: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Ngày 28/12/2005, Toà án nhân dân huyện Đông Anh- Hà Nội đã tiến
hành đưa ra xét xử công khai vụ án thụ lý số 55/2005/DSST về việc kiện tranh
chấp hợp đồng vay tài sản giữa:
3.1 Chủ thể
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Thắng - Sinh năm 1972.
Trú quán: xóm Nhì - Vân Nội – Đông Anh – Hà Nội.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh – Sinh năm 1965.
Trú quán: Cổ Dương – Tiên Dương – Đông Anh – Hà Nội.
3.2. Nội dung vụ việc như sau:
Ngày 16/10/1993, anh Nguyễn Văn Thắng cho bà Nguyễn Thị Thanh là
cô ruột của mình vay số tiền 9.000.000 đồng để lấy vốn đi làm ăn tại Đắk Lắk.
Hai bên đã thoả thuận thông qua văn bản “Giấy vay tiền”, thời hạn vay là 5 năm
và không lấy lãi. Ngoài ra trong văn bản còn ghi rõ tài sản dùng để thế chấp là
quyền sử dụng 580m2 đất mà bà Thanh được hưởng thừa kế từ bố mẹ bà, liền kề
với đất anh Thắng. Nhưng diện tích đất này chưa được chuyển quyền sở hữu
sang tên nên khi viết giấy vay tiền tuy có thỏa thuận tài sản thế chấp nhưng anh
Thắng không giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất đó của bà Thanh
giao cho. Số đất thừa kế được thoả thuận chia như sau: anh Thắng được 300m2,
bà Thanh được 580m2, còn lại là của ông Thành (anh ruột của bà Thanh).
Nguồn gốc diện tích đất này là của bố mẹ bà Thanh để lại cùng nhà ở do ông
Thành quản lý. Đây chỉ là thỏa thuận tự chia đất giữa ba người mà chưa có văn
bản chính thức. Bà Thanh đi Đắk Lắk từ năm 1993 đến năm 2003 mới quay trở
về địa phương và anh Thắng đã đòi tiền nhiều lần nhưng bà Thanh không có
tiền trả. Theo thoả thuận của hai bên, sau thời hạn 5 năm nếu bà Thanh không
trả được tiền vay thì phải trả cho anh Thắng bằng tài sản thế chấp để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên bà Thanh vẫn không thực hiện được thoả thuận trên
là thế chấp tài sản còn lại của bà là diện tích đất được thừa kế. Nay anh Thắng
12 | P a g e
làm đơn kiện lên Toà án nhân dân huyện Đông Anh – Hà Nội yêu cầu bà Thanh
thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho anh Thắng.
3.3.
Cách giải quyết của TAND huyện Đông Anh
Sau khi xem xét hồ sơ vụ án Toà án quyết định như sau:
Căn cứ vào các Điều 467, 468, 473, 475, 717, 720 BLDS Việt Nam.
Khoản 3 Điều 25, Điều 27, Điều 29 và Điều 245 BLTTDS.
Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ về quy định án phí, lệ
phí.
∗ Quyết định:
a. Buộc bà Nguyễn Thị Thanh phải trả cho anh Nguyễn Văn Thắng
số tiền vay ban đầu là 9.000.000 đồng.
b. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Thắng không lấy lãi số tiền trên.
c. Bác đơn yêu cầu của anh Nguyễn Văn Thắng đề nghị bà Thanh
phải thanh toán hợp đồng vay tài sản bằng 580m 2 đất tại xóm Nhì,
3.4.
Vân Nội, Đông Anh, Hà Nội.
Đánh giá của nhóm
Đây là vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản có liên quan đến quyền sử dụng
đất. Tuy nhiên diện tích đất trong thoả thuận trên chưa được xác lập quyền sở
hữu đối với người đưa tài sản đi thế chấp, nên đến khi tranh chấp xảy ra thì tài
sản này đã đứng tên ông Thành. Cả anh Thắng và bà Thanh đều xác nhận không
có giấy tờ nào khẳng định bà Thanh có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện
tích đất nói trên. Mặt khác, tài sản thế chấp đảm bảo lại không được đăng ký theo
quy định tại Nghị định 08/2000 về đăng ký giao dịch đảm bảo nên việc sử dụng
đất này dùng làm thế chấp là vô hiệu theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quyết
định xét xử của Toà án nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội cho rằng không thể
dùng tài sản thế chấp này để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thoả thuận của hai
bên là phù hợp.
Trong vụ việc này, hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu nhưng nó không ảnh
hưởng đến hợp đồng chính là hợp đồng vay tiền bởi vì hợp đồng vay tiền đó đã
được thực hiện. Do vậy, Toà án tuyên bà Thanh phải trả lại số tiền vay ban đầu
13 | P a g e
cho anh Thắng là hợp lý. Song nó vẫn còn vấn đề bất cập là vào thời điểm này bà
Thanh mới đi làm ăn về lại không có tiền trả nợ nên thời gian anh Thắng nhận
được tiền cho vay từ bà Thanh chưa được xác định rõ là khi nào. Hay nói cách
khác quyền lợi của anh Thắng trong trường hợp này là rất khó được đảm bảo.
Với cách giải quyết trên của Toà án, nhóm chúng em cho rằng Toà án nên
xác định rõ khoảng thời gian để bà Thanh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho anh
Thắng. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của hai bên mới được thực hiện một cách
thoả đáng theo quy định của pháp luật.
14 | P a g e
Danh mục tài liệu tham khảo
1 . Giáo trình luật dân sự Việt Nam , NXB đại học luật Hà Nội
2 . Bộ luật dân sự 2005
3 . Bộ luật tố tụng dân sự
4 . Bộ luật hình sự
5 . Luật đất đai
6 . Luật hôn nhân gia đình
7 . />8 . />9 . />
Mục lục
15 | P a g e
Lời nói đầu
Nội dung
A.Cơ sở lý luận
1. Khái niệm về hợp đồng cho vay tài sản
2. Đối tượng và kỳ hạn của hợp đồng vay tài sản
3. Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản
4. Quyền và nghĩa vụ của các bên
5. Họ
B.Các vụ việc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản trong thực tế
1. Vụ việc thứ nhất
2. Vụ việc thứ hai
3. Vụ việc thứ ba
16 | P a g e