Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Mồ mả và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.21 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định cơ bản của pháp
luật dân sự và được hình thành rất sớm. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được quy định trong BLDS năm 2005 từ Điều 604 đến Điều 630 và được đành giá là khá
hoàn thiện, tiến bộ. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết tranh
chấp liên quan đến bồi thường thieetj hịa ngoài hợp đồng.
Trong tình hình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, việc mở rộng hạ
tầng cơ sở là rất cần thiết và với việc mở rộng đấy cũng đã xuất hiện nhiều trường hợp
xâm phạm tới mồ mả của người khác và việc xâm phạm này ngày càng trở nên phổ biến
không còn là trường hợp cá biệt hay xa lạ với mọi người chính vì vậy vấn đề xác định
trách nhiệm pháp lý đặt ra khi có hành vi xâm phạm mồ mả là vấn đề cần được quan
tâm.
Để giúp hiểu thêm thế nào là mồ mả?, thế nào là xâm phạm mồ mả?, và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do phạm mồ mả được quy định như thế nào trong BLDS Việt Nam
em xin chọn đề tài “Mồ mả và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả”
làm bài tập lớn học kì.
Do việc tìm hiểu tài liệu tài liệu chưa sâu nên trong bài còn nhiều thiếu sót em mong
thầy, cô xem xét và giúp em hoàn thiện thêm bài tập để em có thể bổ sung thêm nhiều
kiến thức.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


NỘI DUNG
I.Một số vấn đề lý luận chung về mồ mả và trách nhiệm bồi thương thiệt hại do
xâm phạm mồ mả.
1.Khái niệm mồ mả.
Phong tục thờ cũng tổ tiên đã có từ lâu đời trong văn hóa Việt Nam. Trong gia đình
Việt thì việc lo mồ mả cho những người thân đã mất là một phong tục đã được truyền từ
đời này sang đời khác. Việc xây cất mồ mả cho người đã mất thể hiện sự tôn trọng, tình


cảm của người sống đối với người đã mất và phần nào mong muốn người đã mất “phù hộ
độ trì” cho con cháu.
Thực tế có thể thấy khái niệm “mồ mả” là khái niệm ghép của của hai khái niệm
“mồ” và “mả”. Có thể hiểu “mả” là nơi an táng thi thể, còn “mồ” là nơi táng hài cốt của
một người. Bộ luật dân sự 2005 đã không bóc tách hia khái niệm này mà ghép chung
thành khái niệm “mồ mả’. Thực tế bóc tách hai khái niện này cũng rất khó vì ở một số
vùng miền tục chôn cất của người chết chỉ thực hiện một lần (không có tục bốc mộ) nên
khó có thể phân biệt “mồ” và “mả”.
Hiện nay ở nước ta có nhiều cách thức táng người chết khác nhau như: mai táng,
hỏa táng, hung táng…Tuy nhiên cần làm rõ khái niệm mồ mả bởi mỗi địa phương có
cách thức táng khác nhau, có nơi chôn cất thi hài vĩnh viễn trong lòng đất. Với các cách
táng khác nhau như trên, một số người óc thể nhầm lẫn và quan niệm mồ mả bao gồm cả
xương cốt, hài cốt bên trong, đặc biệt là phương thức hỏa táng người chết mà hiện nay
nhiều người áp dụng.
Tuy nhiên, mồ mả chỉ là vật chất bên ngoài chứa đụng hài cốt, thi thể của người chết
ở bên trong.
Mồ mả và thi thể có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng không thể đồng nhất hai
khái niệm này. Mồ mả là vật chất chứa đựng thi thể, hài cốt. Ngược lại, một vật chất chỉ
2


được coi là mồ mả khi nó chứa đựng thi thể, hài cốt. Ở một số nơi có phong tục thờ vong,
khi không thể tìm được thi thể hài cốt thì người than của họ thường lập nên một nơi gọi là
“mồ mả” như một hình thức trấn an tâm lý, để không cảm thấy có lỗi với người đã mất
tuy nhiên hình thức này không được xem là mồ mả.
Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định cụ thể và phân biệt khái niệm mồ mả với
hài cốt. Nhưng chúng ta có thể hiểu sự phân biệt này đã được pháp luật quy định tại Điều
246 Bộ luật hình sự về Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt khi phân biệt ba cụm từ thi
thể, mồ mả và hài cốt.
Như vậy chúng ta có thể đưa ra khái niệm mồ mả như sau: Mồ mả là dạng vật chất

được sử dụng với mục đích chôn cất thi thể, hài cốt của người chết.
2.Khái niệm “bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả”
Qua việc phân tích khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và khái niệm mồ
mả, có thể thấy hành vi trái pháp luật của các chủ thể nhất định xâm phạm tới nơi chôn
cất thi hài, hài cốt của người chết sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm mồ mả.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả là một loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Giả sử có hành vi vi phạm các cam kết, thỏa liên quan
đến xây dựng, trùng tu mồ mả giữa một chủ thể nhất định với những người có quyền với
mồ mả thì đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Hành vi xâm phạm mồ
mả luôn là hành vi thể hiện dưới dạng hành động và do lỗi của người xâm phạm.
Có thể khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả như sau:
“trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả là một loại trách nhiệm pháp lý,
theo đó người có hành vi trái pháp luật xâm phạm tới mồ mả phải bồi thường thiệt hại do
hành vi của mình gây ra”.
3.Tính chất đặc biệt của “mồ mả và bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả”
a) Mồ mả
3


Mồ mả là một loại “tài sản đặc biệt”, vừa chứa đựng lợi ích vật chất (các chi phí vật
chất nhất định để xây dựng mồ mả đó), vừa chứa đựng các yếu tố về mặt tâm linh, tinh
thần.
- Tài sản là vật chất cấu tạo nên mồ mả, ví dụ như gạch, xi măng, bia ghi tên…chứ
không thể hiểu mồ mả là tài sản trong giao dịch dân sự. Một người có thể có nhiều
mồ mả khác nhau.
- Nói mồ mả là loại “tài sản đặc biệt” bởi yếu tố tâm linh người Việt quan niệm rằng
“người sống có nhà, chết có mồ” và bởi phong tục thờ cúng tổ tiên từ lâu đời được
truyền qua các thế hệ.
b) Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả

Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả là một chế định dân sự đặc biệt, đây
không chỉ là nghĩa vụ dân sự thông thường chứa đựng các quy phạm pháp luật mà còn ẩn
chứa “quy phạm đạo đức”. Bởi khách thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại do xâm
phạm mồ mả không chỉ là vật chất thông thường mà còn chứa đựng yếu tố đạo đức.
Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả là việc yêu cầu chủ thể xâm phạm mồ mả
phải thực hiện nghĩa vụ bằng một khoản tiền nhất định. Như vậy, bồi thường thiệt hại
xâm phạm mồ mả là một loại trách nhiệm liên quan đến sự dịch chuyển tài sản từ bên gây
thiệt hại sang bên bị thiệt hại .
Ta cần phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể. Bởi thực tế ở một số địa phương khi
chôn cất người ta thực hiện nghi lễ theo phương thức chôn cất vĩnh viễn. Điều này có thể
gây ra nhầm lẫm khi xác định mồ mả gắn liền với thi thể. Tuy nhiên, chúng cũng có
những điểm khác biệt, chúng ta có thể phân biệt hai loại thiệt hại này dựa vào các yếu tố
sau:
- Đối tượng bị xâm hại: bồi thường thiệt hại do thi thể bị xâm phạm là thi thể (xác
chết). Đối tượng bị xâm phạm trong bồi thường thiệt hại do mồ mả bị xâm phạm là mồ
mả.
4


- Thiệt hại trong hai loại trách nhiệm này khác nhau:
+ Thiệt hại do hành vi xâm phạm thi thể theo quy định tại Điều 628 BLDS 2005
gồm thiệt hại về vật chất và tinh thần: “thiệt hại do xâm phạm thi thể gồm chi phí
hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại” (khoản 2) và “…một khoản tiền khác để bù
đắp tổn thất về tinh thần…” (khoản 3).
+ Thiệt hại do xâm phạm mồ mả theo quy định của BLDS 2005 chỉ là thiệt hại về
vật chất: “…thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí để hạn chế, khác phục thiệt
hại.”
II. Trách nhiệm bồi thương thiệt hại do xâm phạm mồ mả theo quy định của
pháp luật dân sự hiện hành.

1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
Trách nhiệm bồi thương thiệt hại chỉ phá sinh khi thỏa mãn các căn cứ so pháp luật
quy định. Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định cụ thể các điều kiện phát sinh trách
nhiệm. Tuy nhiên, chúng ta có thể dựa trên cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được đề cập tại Điều 307 và Điều 604 BLDS năm 2005. Theo đó thì có bốn căn cứ cơ
bản làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả nói riêng, đó là các căn cứ sau:
Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là điều kiện bắt buộc đầu tiên để xem xét có phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại hay không. Trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại, dù không
nghiêm trọng cũng phải bồi thường, đây là đặc điểm của trách nhiệm dân sự. Thiệt hại có
ý nghĩa rất quan trọng, có thể nói rằng không có trách nhiệm bồi thường khi không có
thiệt hại sảy ra.
5


Thiệt hại gây ảnh hưởng tới các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ, đó là tài sản và sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, pháp
nhân, tổ chức và Nhà nước. Pháp luật dân sự phân chia thiệt hại thành hai loại: thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Nghĩa vụ chứng minh thiệt hại thực đã xảy ra thuộc về người bị thiệt hại. Khi thiệt
hại xảy ra bản thân người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có trách nhiệm
chứng minh những thiệt hại mà mình phải gánh chịu.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mồ mả bị xâm phạm thì thiệt hại cũng là
yếu tố đầu tiên được xác định, điều này được thể hiện rõ tại Điều 629: “cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác gây thiệt hại đến mồ mả của người khác thì phải bồi thường thiệt
hại”.
Thiệt hại do hành vi xâm phạm mồ mả bao gồm những thiệt hại sau:
-Thiệt hại do mồ mả bị sạt lún;
-Thiệt hại do bị san lấp;

-Thiệt hại do việc một phần của mồ mả bị xâm phạm, như hư hỏng bia ghi tên cho
người chết, gây nhầm lẫn cho người thân thích của người chết.
Như vậy, thiệt hại trong thiệt hại do xâm phạm mồ mả là những tổn thất về vật chất
thực tế tính được thành tiền do việc xâm phạm đến mồ mả, đay là yếu tố quan trọng cấu
thành nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mồ mả bị xâm phạm.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Bảo vệ mồ mả của người chết cho dù ở bất kì xã hội nào cũng được quan tâm, vì mồ
mả gắn với yếu tố phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp luật của nước ta luôn
có những quy định bảo vệ mồ mả của cá nhân, có những quy định ngăn chặn, trừng trị
những người có hành vi cố ý xâm phạm mồ mả của cá nhân. Xâm phạm mồ mả là một tội
danh trong Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại Điều 246. không dừng
lại ở việc xác định tội danh và trừng trị những kẻ phạm tội, Bộ luật dân sự 2005 cũng đã
có quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả. Như vậy, hành vi xâm phạm
6


mồ mả không chỉ bị xử lí về mặt hình sự khi đủ điều kiện cấu thành tội danh mà còn phải
chịu trách nhiệm dân sự.
Thông thường hành vi gây thiệt hại cho mồ mả thể hiện dưới dạng hành động:
+Xâm phạm trực tiếp đến mồ mả: di chuyển vị trí mồ mả mà không được sự đồng ý
của người thân người đã chết; đào bới, khai quật mồ mả trái ý chí của của người thân
thích của người chết và không đúng quy định của pháp luật;
+Hành vi đổ phế thải, phế liệu, các chất phế thải, uế tập lên ngôi mộ;
+Hành vi gây nhầm lẫn đối với người thân thích của người chết: san lấp mồ mả của
người chết, làm mất dấu tích của ngôi mộ, khiến không thể xác định vị trí của ngôi mộ,
thay đổi tấm bia ghi tên người chết…
+Hành vi xâm phạm đến không gian, hình dáng của ngôi mộ, tương rào bao bọc
xung quanh ngôi mộ.
Bên cạnh đó thì những hành vi sau đây không bị coi là xâm phạm mồ mả và không
phải bồi thường: những hành vi của cơ quan chức năng có thẩm quyền theo quết định của

cơ quan có thẩm quyền như: khai quật mộ để khám nghiệm tử thi, di dời mộ theo quyết
định khi than nhân người chết không chịu di dời, đưa mộ liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ…
Ngoài ra, khi xác định hành vi xâm phạm mồ mả, cần phân biệt những hành vi
không bị coi là xâm phạm mồ mả như hành vi bịa đặt những tin tức thất thiệt gây tổn hại
đến danh dự của người có mồ mả, tạo ra những dư luận không có lợi hoặc làm giảm uy
tín, danh dự của người có mồ mả….Những hành vi đã nêu cũng thuộc trách nhiệm dân sự
nhưng không thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
7


Trong khoa học pháp lý dân sự, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp
luật và thiệt hại sảy ra được hiểu có mối quan hệ nội tại, tất yếu. Thiệt hại sảy ra là kết
quả của hành vi trái pháp luật, hay nói cách khác, chỉ khi nào thiệt hại xảy ra là hậu quả
tất yếu của hành vi vi phạm pháp luật, thì người vi phạm mới phải bồi thường.
Xét về mặt lí luận cũng như thực tiễn thì trong mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra thì hành vi trái pháp luật giữ vai trò là nguyên nhân quyết
định làm phát sinh thiệt hại. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và thiệt hại xảy ra để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả
chúng ta cần phải đảm bảo được tính khách quan vón có quy luật của sự việc , hiên tượng
chú không thể căn cứ vào sự ngẫu nhiên nào đó.
Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm mồ mả và thiệt hại xảy ra là
mối liên hệ tất nhiên, tuân theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người.
Việc phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện có liên quan một cách thận trọng, khách
quan và toàn diện để có thể kết luận chính xác về nguyên nhân, từ đó xác định đúng kết
quả buộc người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường. Làm tốt được điều này sẽ giúp
người làm công tác xét xử có thể đưa ra kết luận một cách chính xác về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới mồ mả.
Người gây thiệt hại có lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi
vô ý.
Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005 thì “người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý …
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Căn cứ về mặt hình thức lỗi, lỗi được thể hiện dưới
dạng cố ý cố ý hoặc vô ý. Khoản 2 Điều 308 BLDS 2005 quy định:
Cố ý gây thiệt hại là tr
8


Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người gây thiệt hại dù cố
ý hay vô ý cũng phải bồi thường vì mỗi người khi thực hiện một hành vi thì phải y thức
được hành vi đó có đúng pháp luật hay không. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Việc phân biệt lỗi cố ý hay vô ý ngoài có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại mà còn có ý nghĩa trong việc xác định mức bồi thường thiệt hại.
Bốn yếu tố cơ bản mang tính điều kiện: thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi gây thiệt hại
là hành vi trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật và
lỗi của người gây thiệt hại là những yếu để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả nói
riêng. Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng, qua lại khăng khít với nhau. Ngoài
những trường hợp pháp luật quy định, bất cứ quyết định nào nhằm xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cũng phải có đầy đủ bốn yếu tố trên. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố
trên thì việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa được xem xét một cách khách
quan, toàn diện.
2. Xác định thiệt hại
Thiệt hại là điều kiện tiên quyết để phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường do xâm phạm mồ mả nói riêng. Việc xác định
thiệt hại thực tế xảy ra là điều kiện để có thể thực hiện nguyên tắc bồi thường toàn bộ
thiệt hại một cách đầy đủ và chính xác.

Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, tại Điều 629 BLDS
2005 quy định: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác gây thiệt hại tới mồ mả của người
khác phải bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn
chế, khắc phục thiệt hại”. Ở điều này, pháp luật không quy định thiệt hại gồm những gì.
9


Chúng ta cần xác định rõ thiệt hại ở trường hợp này là thiệt hại về vật chất. Mặc dù trong
thực tế khi hành vi xâm phạm mồ mả xảy ra thì những người thân thích của người chết
(người được chôn cất trong mồ mả) cũng bị ảnh hưởng về tinh thần do yếu tố tâm linh
của người Việt quan niện về mồ mả. Tuy nhiên, mồ mả chỉ là dạng ật chất đặc biệt, nó
gắn liền với yếu tố tâm linh nhưng không gắn với nhân thân của một người.
Thiệt hại do hành vi xâm phạm mồ mả gây ra là phần thiệt hại về tài sản liên quan
đến những chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại. Tính hợp lý khi xác định trên cơ
sở những thiệt thực tế. Những loại thiệt hại này có thể tính toán được thành một số tiền
nhất định. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm những khoản sau:
-Chi phí mua vật liệu xây dựng. Những vật liệu thông thường như: đá, cát, vôi, xi
măng, sắt, thép, sơn, bia đá, ngói…
-Chi phí thuê nhân công xây dựng, sửa chữa lại những hư hỏng, thiệt hại do người
gây thiệt hại đã gây ra.
-Chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại ví dụ như: xây tường rào để
tránh bị sạt lún…
-Ngoài những chi phí trực tiếp trên, người gây thiệt hại còn phải bồi thường chi phí
gián tiếp do việc xâm phạm mồ mả của mình trong trường hợp mồ mả bị hư hỏng, không
thể sử dụng đúng mục đích. Đó là những chi phí để bảo quản thi thể, hài cốt, chi phí đó
có thể là thuê địa điểm trong nhà xác để bảo quản, chi phí đó có thể là thuê địa điểm
trong nhà xác để bảo quản. chi phí thuê người vận chuyển thi thể, hài cốt…
Tuy nhiên, chúng ta không nên hiểu là những lợi ích gắn với việc khai thác tài sản,
như việc một số người lợi dụng mê tín dị đoan để kinh doanh thu lợi bất hợp pháp.
10



Những lợi ích này dù người bị thiệt hại có liệt kê thì cũng không thể được bồi thường.
Pháp luật dân sự chỉ bảo vệ những lợi ích hợp pháp của người dân.
Do yếu tố tâm linh, một số người khi mồ mả của người thân bị xâm phạm thường lo
ngại điềm gở, như thế con cháu sẽ gặp tai họa nên mời thầy bói, cô đồng về làm lễ, cũng
bái…Những chi phí này thực tế người bị thiệt hại bỏ ra sẽ không tính vào chi phí mà
người gây thiệt hại phải bồi thường.
Bồi thường thiệt hại về mồ mả cũng theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi
thường bấy nhiêu. Giá trị tài sản không thống nhất ở thời điểm gây thiệt hại và thời điểm
bồi thường. Do đó khi xác định giá trị thực tế của tài sản vào thời điểm Tòa án xét xử sơ
thẩm để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Mặc dù trong thực tế, có hành vi xâm phạm mồ mả có thể gây ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần của những người thân thích của người chết, nhưng theo quy định của pháp
luật thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra với những thiệt hại về vật chất.
III. Một số điểm hạn chế, bất cập về bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mhả
và phương hướng hoàn thiện pháp luật
1. Một số điểm hạn chế, bất cập về bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả
*Mồ mả là khách thể được pháp luật bảo vệ không chỉ trong Bộ luật dân sự mà cả
trong bộ luật hình sự. Nhưng hiện tại thì chưa có một hướng dẫn cụ thể nào về khái niệm
“mồ mả”. Điều này gây khó khăn cho công tác xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong một số trường hợp “thờ vong”, làm “mộ” để an tâm về tâm lý, trong đó lại không
chôn cất thi hài, hài cốt.
*Bộ luật dân sự 2005 đã xó sự phát triển khi đưa chế định bồi thường thiệt hại do
xâm phạm mồ mả, theo đó mồ mả của một người sẽ được pháp luật bảo vệ, nếu gây thiệt
hại thì sẽ phải bồi thường. Tại điều 629 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “…thiệt hại
11


do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại”, ở đây chỉ quy

định một cách chung chung, vậy như thế nào là hợp lý? Chi phí hợp lý gồm có những gì?.
*Một trường hợp ít sảy ra trên thực tế nhưng không phải không sảy ra, chúng ta cũng
cần phải tính đến đó là việc người chết có nhiều người thân (đặc biệt là con cái) đều
muốn di dời phần mộ của người chết tới gần nơi mình ở nhưng lại không có sự thống
nhất với nhau. Việc một trong số những người đó tự ý di dời mồ mả có bị coi là xâm
phạm mồ mả không? Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này đặt ra như thế nào?
Đây là điều còn đang bị bỏ ngỏ.
*Khi mồ mả của những người thân thích của cá nhân có mồ mả bị xâm phạm thì yếu
tố tinh thần của họ bị ảnh hưởng rất lớn. Đặc điểm tâm lý này ảnh hưởng không nhỏ tới
đời sống của người dân.
2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
mồ mả.
Trong thực tế khi áp dụng quy định của pháp luật chúng ta thấy những vấn đề nảy
sinh mà pháp luật chưa dụ liệu được sau đây là một số phương hướng em xin nêu ra
nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.
- Nhằm tạo điều kiện cho việc xác định thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do xâm phạm mồ mả được tốt hơn, ta cần phải xác định được khái niệm “mồ mả”. Cần có
hướng dẫn cụ thể hơn để xác định khái niệm mồ mả nhằm tạo ra cách hiểu thống nhất.
- Xác định hành vi bi phạm pháp luật xâm phạm là việc cần thiết để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Cần có hướng dẫn cụ thể về việc xác định những hành vi nào
là hành vi vi phạm pháp luật trong việc xâm phạm mồ mả.
12


- Cần có hướng dẫn xác định thiệt hại do mồ mả bị xâm hại theo hướng:
+ Xác định thiệt hại theo giá cả, phong tục tập quán riêng của địa phương, nhưng
không chấp nhận việc bồi thường thiệt hại những chi phí không liên quan đến mồ mả như
cây cảnh, bể cá….
+ Trong trường hợp mồ mả của cá nhân bị xâm phạm gây ra những tổn thất nặng nề
về tinh thần và tâm lí của người thân thích. Vì vậy theo ý kiến của em, khi xác định thiệt

hại do mồ mả bị xâm phạm nên tính cả thiệt hại do tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại.
- Quyền di dời, bảo quản, trông nom mồ mả….của thân nhân là một quyền chính
đáng và thiêng liêng của người dân. Tranh chấp xảy ra giữa những người thân của người
đã mất tuy ít gặp nhưng vẫn là một thực tế cần được nhìn nhận. Việc này cần một chính
sách hợp lý để xác định rõ vấn đề rõ vấn đề này, từ đó mới có thể xác định có hành vi gây
thiệt hại và xác định yếu tố lỗi được chính xác. Điều này tạo điều kiện cho việc xác định
hành vi nào là hành vi xâm phạm mồ mả, làm căn cứ cho việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.

13


KẾT LUẬN
Chế định bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc xác định trách nhiệm bồi thường của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác gây thiệt hại
đến mồ mả của người khác. Tòa án nhân dân trên cơ sở xác định đúng hành vi xâm phạm
mồ mả và hậu quả của hành vi đó, trên cơ sở đó xác định đúng người phải bồi thường,
người được bồi thường và mức bồi thường.
Việc giải quyết triệt để những tranh chấp do xâm phạm mồ mả không những bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người có mồ mả, mà còn đảm bảo công bằng xã hội trên
nguyên tắc gây thiệt hại thì phải bồi thường và góp phần răn đe, phòng ngừa các hành vi
trái pháp luật đối với các hành vi xâm phạm mồ mả nói riêng và hành vi gây thiệt hịa trái
pháp luật nói chung.

14


Danh mục tài liệu tham khảo
1.Bộ luật dân sự năm 2005.

2.Bộ luật hình sự 1999, sửa đổ và bổ sung năm 2009.
3.Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, Nxb công an
nhân dân, Hà Nội 2006.
4. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb công an
nhân dân, Hà Nội 2006.
5. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb công an
nhân dân, Hà Nội 2007.
6.Phùng Trung Tập, “Về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật tục Ê Đê,
M’Nông”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 9 năm 2008.
7.website: />
15


Mục lục
MỞ ĐẦU

Trang 1

NỘI DUNG
I.Một số vấn đề lý luận chung về mồ mả và trách nhiệm bồi thương
thiệt hại do xâm phạm mồ mả.

Trang 2

1.Khái niệm mồ mả.

Trang 2

2.Khái niệm “bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả”


Trang 3

3.Tính chất đặc biệt của “mồ mả và bồi thường thiệt hại do xâm
phạm mồ mả”

Trang 3

II. Trách nhiệm bồi thương thiệt hại do xâm phạm mồ mả the
quy định của pháp luật dân sự hiện hành.

Trang 5

1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường

Trang 5

2. Xác định thiệt hại

Trang 9

III. Một số điểm hạn chế, bất cập về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
mồ mhả và phương hướng hoàn thiện pháp luật

Trang 11

1. Một số điểm hạn chế, bất cập về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm mồ mả

Trang 11


2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
do xâm phạm mồ mả.

Trang 12

KẾT LUẬN

Trang 14

16



×