Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.21 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................1
A/ LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
B/ NỘI DUNG...............................................................................................................2
I- Lý luận chung về người bào chữa..............................................................................2
1. Khái niệm người bào chữa.........................................................................................2
2. Phân loại người bào chữa...........................................................................................3
II- Địa vị pháp lý của người bào chữa theo pháp luật hiện hành...........................6
1. Quyền của người bào chữa........................................................................................6
2. Nghĩa vụ của người bào chữa.....................................................................................9
3. Ý nghĩa chế định địa vị pháp lý của người bào chữa trong pháp luật hiện hành.....12
III- Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa và giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa
trong giai đoạn hiện nay...............................................................................................13
1. Về việc quy định bào chữa viên nhân dân...............................................................13
2. Về quy định thủ tục và thời hạn cấp Giấy chứng nhận người bào chữa..................15
3. Quy định về gặp gỡ trao đổi của Người bào chữa với đương sự.............................16
4. Giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn hiện
nay..............................................................................................................................16
C/ KẾT LUẬN............................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................18

1


A/ LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây cùng với xu thế hội nhập của thế giới, nền kinh tế
của đất nước ta ngày một phát triển. Nhưng bên cạnh đó, tệ nạn xã hội cũng gia tăng,
tình hình tội phạm có những diễn biến ngày càng phức tạp. Việc xác định đúng đắn
quyền, nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự sẽ góp phần rất quan trọng
đối với hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự và công cuộc cải cách tư pháp nói chung.


Tìm hiểu khía cạnh của vấn đề “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng
hình sự” nhằm hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật và đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay.
B/ NỘI DUNG
I- Lý luận chung về người bào chữa
1. Khái niệm người bào chữa
Theo từ điển giải thích luật học thì: Người bào chữa (NBC) là người tham gia
tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
NBC là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án.
Họ tham gia tố tụng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc
tội. NBC không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ
“tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham gia” chỉ là
người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó do những chủ
thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, NBC không phải là người được
nhân danh quyền lực nhà nước, không được sử dụng quyền lực nhà nước như những
người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, cũng không thể đồng nhất khái niệm NBC với
người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Điều 56 và Điều 59 BL TTHS 2003 đã có sự
phân biệt giữa người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. NBC tham
gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tham gia tố
2


tụng chủ yếu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
NBC không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng
chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện
diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ và người bị
buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự
chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do BL TTHS

quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời
người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử NBC cho
họ và phải được sự đồng ý của người bị buộc tội.
Như vậy, NBC là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham
gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Phân loại người bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BL TTHS năm 2003, “Người bào chữa có
thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào
chữa viên nhân dân”. Hiện nay, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân
còn hạn chế nên khi nói đến NBC, mọi người thường chỉ nghĩ và biết đến Luật sư.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham
gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. hoạt động bào chữa của luật sư
có tính chất chuyên nghiệp. “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng)” (Điều 2 Luật Luật sư 2006).
“Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã qua thời gian tập sự hành
3


nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”
(Điều 10 Luật Luật sư 2006). “Người có đủ tiêu chuẩn... muốn được hành nghề luật
sư phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư” (Điều 11 Luật
Luật sư 2006).
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc
người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Nếu người đại diện hợp pháp của người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là NBC thì họ có quyền và nghĩa vụ
như đối với NBC.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải là người đã
thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người có quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch, người Việt Nam ở nước ngoài.
- Bào chữa viên nhân dân (BCVND)
BCVND có thể là người được UB MTTQ VN, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách NBC, luật sư, người đại diện hợp pháp của bị
can, bị cáo, BCVND có các quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định chung cho NBC.
Trong những người nói trên thì luật sư là NBC chuyên nghiệp. Điểm a khoản 1
Điều 14 Pháp lệnh luật sư 2001 đã quy định một trong những phạm vi hành nghề luật
sư là: “Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo...”. Thực
tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta cũng cho thấy sự hiện diện của luật sư với tư
cách là NBC trong các vụ án hình sự ngày càng phổ biến.

4


Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng được pháp
luật xác định là người bào chữa trong tố tụng. Khái niệm người đại diện hợp pháp
được quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 bao gồm: đại diện theo pháp luật và đại
diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bao gồm đại diện đương nhiên như cha, mẹ
và con, vợ và chồng... Trong một số trường hợp pháp lý, việc đại diện theo pháp luật
do Tòa án quyết định đối với người bị hạn chế, bị mất năng lực hành vi dân sự. Đại
diện theo ủy quyền được xác lập giữa người đại diện và người được đại diện. Trong
đời sống pháp luật hiện nay, có trường hợp người thân thích- đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mời luật sư bào chữa cho người thân của mình nhưng

vì kết quả bào chữa của luật sư không đạt được yêu cầu như thỏa thuận nên các bên
chấm dứt hợp đồng bào chữa và chính người thân thích- đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo đứng ra đảm trách việc baò chữa cho người thân của mình là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây chính là việc người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa theo quy định của Bộ BL TTHS.
NBC trong tố tụng hình sự còn có thể là BCVND. Trong thực tế, BCVND
thường là người của các tổ chức, đoàn thể đứng ra bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ,... về mặt pháp lý, BCVND là một chủ
thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong
thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người
bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi hành nghề chưa được hướng dẫn và quy định chi
tiết dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong
việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của BCVND.
Thực trạng đó buộc chúng ta phải suy nghĩ khi nói đến nguyên tắc hiến định là
đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Vấn đề đặt ra là cần phải mở rộng phạm

5


vi những người có quyền tham gia tố tụng với tư cách là NBC cả về phương diện
pháp lý lẫn thực tiễn.

II- Địa vị pháp lý của người bào chữa theo pháp luật hiện hành
1. Quyền của người bào chữa
Khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định:
Người bào chữa có quyền:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những
hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

Việc NBC được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan
trọng, giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ổn định hơn về mắt tâm lí, những người
tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng và tuân thủ pháp luật hơn. NBC theo dõi
được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời
bào chữa và tham gia tranh tụng sau này tại phiên tòa. NBC còn có quyền hỏi người
bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho
người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, NBC có quyền
khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này;
6


NBC có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những người này tiến
hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người mà mình bào chữa.
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
NBC có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáoNBC cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người
làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người
được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật,

yêu cầu của NBC.
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
NBC phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và
diễn biến tâm lí, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, NBC
mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người
này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giả thích những vấn đề về pháp luật và
cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai
báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

7


Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, NBC nắm được nội dung của vụ án và
những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó
người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
Tại phiên tòa xét xử, vai trò của NBC được thể hiện rõ nét nhất. Họ có quyền
hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả
iftheo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập
luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản
2 Điều 57 của Bộ luật này.
Đây là quyền độc lập của NBC, không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại
diện hợp pháp của họ. Kháng cáo của NBC phải theo hướng có lợi cho bị cáo.

Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng đã
tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để NBC thực hiện các quyền của mình. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, nhất là đối với Cơ quan điều tra đã nêu những lý do
để từ chối không cho NBC tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, cả khi vụ án đã có
kết luận điều tra, không thuộc trường hợp phải giữ bí mật điều tra đối với với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia nhưng vẫn không cho NBC
tham gia. Rất ít trường hợp Cơ quan điều tra đồng ý để NBC có mặt khi hỏi cung bị
can. Ở giai đoạn xét xử, một số Tòa án không cho NBC photo các tài liệu có trong hồ
sơ vì lấy lý do BL TTHS chỉ cho phép ghi chép chứ không cho photo. Những tồn tại
này, BL TTHS 2003 đã sửa đổi, bổ sung tương đối cụ thể về quyền của NBC và nghĩa
8


vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiêm chỉnh chấp
hành những quy định của BL TTHS và tạo điều kiện để NBC thực hiện đầy đủ quyền
của họ khi tham gia tố tụng. Đây cũng là một trong những điều kiện để nâng cao trình
độ nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng vì có NBC tham gia và bảo đảm cho họ thực
hiện đầy đủ quyền theo quy định của BL TTHS, cũng là buộc người tiến hành tố tụng
phải cẩn thận hơn, thực hiện đúng hơn các quy định của BL TTHS về hoạt động điều
tra, tránh được những hậu quả đáng tiếc dẫn đến việc cán bộ điều tra bị thay đổi, bị kỷ
luật vì vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Bảo đảm cho NBC thực hiện
quyền của họ là bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền được bào chữa.
Theo Điều 19 BL TTHS 2003 thì tại phiên tòa, NBC có quyền bình đẳng với
Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh
luận trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho NBC thực hiện các quyền
đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Đây không chỉ là quyền của NBC mà
còn là nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng, nhưng trên thực tế, nguyên tắc này chưa
được thực hiện một cách đầy đủ với đúng nghĩa của nó, biểu hiện của việc vi phạm
nguyên tắc này theo các xu hướng trái ngược nhau. Có trường hợp tại phiên tòa, Kiểm
sát viên không tôn trọng NBC như nhận xét thái độ của Luật sư, nhắc nhở Luật sư khi

Luật sư đặt những câu hỏi đối với người tham gia tố tụng... Có những trường hợp
NBC (chủ yếu là Luật sư) không hiểu được nội dung quyền bình đẳng với Kiểm sát
viên trước Tòa nên đã có những yêu cầu trái với quy định của BL TTHS như đòi bình
đẳng với Kiểm sát viên trong tất cả những hoạt động tố tụng trong khi trình bày lời
bào chữa của mình đã không đưa ra những chứng cứ gỡ tội cho bị cáo hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà lại nhận xét thái độ, tác phong của Kiểm sát viên...
2. Nghĩa vụ của người bào chữa
Khoản 3 và khoản 4 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định:
Người bào chữa có nghĩa vụ:
9


a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết
xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến
vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến
hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ;
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình
đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào
chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và cá nhân”.

Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật”.
Thực tiễn hoạt động bào chữa của người bào chữa cho thấy các quy định trên
của BL TTHS được NBC thực hiện đúng sẽ góp phần cùng với cơ quan tiến hành tố
10


tụng xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Tuy nhiên, không ít trường hợp do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa
vụ mà pháp luật quy định nên NBC đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của
mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Có Luật sư khi
bào chữa đã không làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho bị can, bị cáo. Ngược lại, có Luật sư đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả những
biện pháp mà pháp luật cấm để biện bạch, cố tình đổi trắng thay đen vì những khoản
thù lao rất hậu mà thân chủ trả. Có Luật sư bày cho bị cáo giả ốm để hoãn phiên tòa;
có Luật sư lợi dụng mối quan hệ với Tòa án để tác động nhằm làm giảm trách nhiệm
hình sự cho bị cáo do mình bào chữa mà không sử dụng biện pháp để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự cho bị
can, bị cáo; có Luật sư cố tình không có mặt tại phiên tòa hoặc nêu ra những lý do
không chính đáng để xin hoãn phiên tòa. Mặc dù pháp luật đã quy định NBC không
được tiết lộ bí mật mà mình biết được khi làm nhiệm vụ, nếu tiết lộ bí mật điều tra thì
tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm theo các Điều 263, 264, 286, 287, 327, 328
BLHS, nhưng có nhiều trường hợp những bí mật nhà nước, bí mật điều tra, bí mật
công tác và cả bí mật đời tư mà người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín vẫn bị NBC
tiết lộ, dùng nó để gỡ tội cho bị can, bị cáo mà mình nhận bào chữa.
NBC là do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của
họ lựa chọn, nhưng trong những trường hợp bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố hoặc bị
đưa ra xét xử về tội mà khung hình phạt đối với tội ấy là tử hình hoặc bị can, bị cáo là

người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, thì tùy thuộc
vào giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa ấn phải yêu cầu
Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị
UB MTTQ VN, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức
mình. Quy định này nhằm bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo trong
11


những trường hợp họ không có khả năng tự bào chữa được nếu đã cử mà bị can, bị
cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn từ chối hoặc yêu cầu thay đổi NBC thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu cầu của họ.
Việc cử NBC cho bị cáo tại phiên tòa nói chung được thực hiện nghiêm túc,
nhưng việc cử NBC trong giai đoạn điều tra chưa được quan tâm đúng mức, có
trường hợp Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát không yêu cầu Đoàn Luật sư phân
công Văn phòng luật sư cử người bào chữa ở giai đoạn điều tra, có trường hợp Luật
sư đăng ký bào chữa nhưng hơn ba tháng vẫn chưa được Cơ quan điều tra cấp giấy
chứng nhận để họ thực hiện nhiệm vụ. Việc NBC tham gia tố tụng ngay từ khi khởi tố
bị can đối với bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất phải là điều bắt buộc và mọi hoạt động điều tra phải có sự có mặt của NBC.
3. Ý nghĩa chế định địa vị pháp lý của người bào chữa trong pháp luật hiện hành
* Ý nghĩa pháp lý.
NBC theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa
rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên
tòa. Người bào chữa còn có quyền đòi hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên
đồng ý để làm sang tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham
gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện
có những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm
quyền. Chế định bào chữa trong luật Tố tụng hình sự góp phần nâng cao hiệu quả
pháp lý trong việc xét xử những vụ án có những tình tiết đặc biệt quan trọng, tránh

tình trạng oan sai. Trong quá trình tham gia bào chữa, NBC cũng góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự và công cuộc cải cách tư pháp nói chung.
* Ý nghĩa chính trị- xã hội

12


Việc NBC được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan
trọng. Khi có mặt NBC, người bị giam giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý
hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật
hơn. Việc tham gia tố tụng của luật sư từng bước phát triển. Đa số các luật sư với tinh
thần trách nhiệm cao hơn trước với khách hàng và trước pháp luật. Hoạt động tham
gia tố tụng của Luật sư đã được đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên
toà, góp phần quan trọng trong việc cải cách tư pháp. Thực tiễn trong thời gian qua
cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư không những đảm bảo tốt hơn quyền
được bào chữa của bị can bị cáo, của các được sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu xót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

III- Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa và giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa
trong giai đoạn hiện nay
1. Về việc quy định bào chữa viên nhân dân
BCVND xuất hiện do hoàn cảnh lịch sử của nước ta, xuất phát từ quy định
“người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mướn luật sư” tại Điều 67 Hiến pháp
năm 1946. Thời ấy, nước ta đang có chiến tranh, nghề luật sư chưa phát triển được
nên Bác Hồ mới quy định về bào chữa viên nhân dân trong Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949 nhằm đảm bảo quyền bào chữa cho người bị đưa ra xét xử hình sự.
Theo Nghị định số 01 – NĐ – VY ngày 12/1/1950 của Bộ Tư pháp, điều kiện
để trở thành BCVND bao gồm: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay

đàn bà, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa can án...

13


Đến năm 1987 cả nước có 30 Đoàn Bào chữa với tổng số gần 400 BCVND.
Tuy nhiên, đến khi Pháp lệnh tổ chức Luật sư 1987 có hiệu lực thì các đoàn bào chữa
viên nhân dânBCVND đã không còn tồn tại. Cho đến năm 1989 thì đoàn bào chữa đã
chấm dứt hoạt động. Thay vào đó, đội ngũ luật sư được thành lập trên toàn quốc đảm
nhiệm hoạt động tham gia tố tụng bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho các đương sự.
Dù thực tế không còn tồn tại nhưng BCVND vẫn được quy định trong các BL
TTHS năm 1998 và 2003. Theo đó, NBC có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
Về mặt văn bản dưới luật, tại Thông tư 70 ngày 7-10-2011 của Bộ Công an
(quy định chi tiết thi hành các quy định của BL TTHS liên quan đến việc bảo đảm
quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự), có quy định về thủ tục cấp
giấy chứng nhận người bào chữa đối với bào chữa viên nhan dân khi có đủ bốn loại
giấy tờ sau: bản sao giấy CMND; giấy giới thiệu của UB MTTQ, tổ chức thành viên
của Mặt trận nơi người bị giam giữ, bị can là thành viên; giấy tờ chứng minh là thành
viên của UB MTTQ, tổ chức thành viên của Mặt trận cử đến; văn bản của người bị
tạm giữ, bị can đề nghị UB MTTQ VN, tổ chức thành viên của Mặt trận nơi người bị
tạm giữ, bị can là thành viên cử NBC cho họ.
Quy định này cũng tương tự hướng dẫn trong Nghị quyết 03 ngày 02-10-2004
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Tuy nhiên, cả Thông tư 70 và Nghị quyết 03 đều
không hướng dẫn một người tiêu chuẩn như thế nào thì được công nhận là BCVND.
Trong giới luật học đã có rất nhiều ý kiến đề nghị bỏ chế định BCVND vì đã
không còn phù hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Chưa kể đến chuyện đang

14



thiếu hướng dẫn về mặt tổ chức, hoạt động, tiêu chuẩn..., chế định BCVND cũng
không ổn nếu xét về bản chất của hoạt động bào chữa.
Trong khi đó, hoạt động bào chữa về bản chất là hoạt động hành nghề không
khác gì với hoạt động hành nghề luật sư. Nó đòi hỏi rất cao về chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng nghề nghiệp mà bất kỳ ai khi hành nghề hay hoạt động mang tính chất
nghề nghiệp đều phải đạt được ở một trình độ nhất định.
Vì vậy, đã đến lúc cần sửa đổi Hiến pháp và BL TTHS, Luật Luật sư theo
hướng khẳng định quyền bào chữa trong vụ án hình sự chỉ nên dành riêng cho luật sư.
2. Về quy định thủ tục và thời hạn cấp Giấy chứng nhận người bào chữa
Hiện nay, thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC cho luật sư chưa có sự thống nhất
và pháp luật chưa quy định cần bao nhiêu loại giấy tờ cho thủ tục này. Trong thực tế,
luật sư thường phải xuất trình đơn yêu cầu (của thân nhân bị can), giấy chứng nhận
đăng ký của tổ chức hành nghề, thẻ luật sư và chứng chỉ hành nghề luật sư, nhưng ở
một số địa phương, cơ quan điều tra yêu cầu chờ đợi để làm thêm thủ tục làm việc với
bị can để xác nhận có đồng ý nhờ luật sư như thân nhân gia đình yêu cầu hoặc đề nghị
thân nhân gia đình bị can giải trình tại sao biết hoặc đến nhờ luật sư và phải làm đơn
yêu cầu mới với cơ quan điều tra. Trong một số trường hợp, điều tra viên còn hỏi thân
nhân bị can về chứng từ nhận tiền thù lao luật sư… Thông thường, bị can không có
thông tin đầy đủ về luật sư nên rất khó khăn cho việc xác định về mặt chủ quan, bị
can có đồng ý luật sư như gia đình yêu cầu hay không và thời gian này không được
khống chế, có thể kéo dài (có trường hợp kéo dài đến 3 tháng). Mặt khác, có sự hạn
chế không rõ ràng do cách mở rộng khái niệm “vì lý do an ninh quốc gia”, nên khi
khởi tố bị can, luật sư vẫn bị hạn chế sự tham gia (như trường hợp cơ quan An ninh
điều tra Bộ Công an có văn bản từ chối luật sư tham gia trong vụ án Mai Văn Dâu).

15



3. Quy định về gặp gỡ trao đổi của người bào chữa với đương sự
Cùng với việc cấp giấy chứng nhận NBC, hiện nay, thủ tục luật sư xin gặp bị
can còn nhiều vấn đề phức tạp, không cần thiết. Cơ quan điều tra thường chỉ cấp một
bản chính giấy chứng nhận NBC cho luật sư. Ở một số Trại tạm giam, chỉ cần xuất
trình giấy chứng nhận bào chữa trong buổi làm việc lần đầu tiên và có bút phê được
duyệt, giám thị sẽ photo giấy chứng nhận này và các lần sau luật sư chỉ cần mang theo
thẻ luật sư và giấy chứng nhận là được gặp bị can. Tại đây, có sổ ghi chép lịch vào
làm việc cụ thể của luật sư đối với từng bị can nên rất dễ dàng theo dõi, kiểm tra khi
cần thiết. Tuy nhiên, ở nơi khác, bộ phận hồ sơ lại yêu cầu giữ bản chính giấy chứng
nhận bào chữa, nên mỗi lần luật sư muốn vào làm việc nếu không nộp bản chính này,
phải có giấy giới thiệu của cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát kèm theo. Thủ tục cấp
giấy giới thiệu này là không đúng vì giấy giới thiệu chỉ cấp cho cán bộ, nhân viên
thuộc chính tổ chức cấp giấy giới thiệu đó.
4. Giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn
hiện nay
+) Một là, cần tăng cường đội ngũ luật sư cả về số lượng lẫn chất lượng để đáp
ứng kịp thời và có hiệu quả nhu cầu của thực tiễn tố tụng hình sự. Cần sớm ban hành
Pháp lệnh tổ chức luật sư mới để thay thế Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987. Theo đó,
Pháp lệnh mới sẽ quy định rõ hơn, đầy đủ hơn về điều kiện, tiêu chuẩn của luật sư,
chú trọng đến tiêu chuẩn về đạo đức và nghiệp vụ của luật sư. Đồng thời Pháp lệnh
mới cần tạo ra quy trình công nhận luật sư theo hướng thông thoáng hơn trên cơ sở
bảo đảm được sự quản lý của Nhà nước và tôn trọng tính tự quản của tổ chức luật sư.
+) Hai là, việc sửa đổi, bổ sung BL TTHS cần làm rõ người đại diện hợp pháp của
bị cáo trong tố tụng hình sự là những đối tượng nào để tạo điều kiện cho quy định đó
được thi hành trong thực tiễn tố tụng hình sự. Theo đó, nên tham khảo những quy
định về người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
16


+) Ba là, cần khôi phục chế định BCVND. Chính phủ nên ban hành Quy chế hoặc

Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Đoàn BCVND để chính thức khôi phục chế
định có nhiều ưu điểm này. Bộ Tư pháp cần báo cáo Chính phủ, Ban chỉ đạo cải cách
tư pháp trung ương có chính sách phát triển đội ngũ này, sớm ban hành quy chế hoặc
điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của BCVND theo hướng: về tổ chức, giao cho
UB MTTQ đứng ra thành lập; về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa, giao Bộ Tư
pháp chịu trách nhiệm. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho đội ngũ này hoạt động.
+) Bốn là, cần nghiên cứu để từng bước mở rộng phạm vi của những người có
quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa không chỉ giới hạn trong khuôn
khổ của Điều 35 BL TTHS hiện hành mà phải tiến tới khả năng cho phép bất kỳ ai có
nhân thân tốt, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có bằng cử nhân Luật, được tín
nhiệm của bị can, bị cáo và sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng thì đều có
quyền tham gia bào chữa. Khi đó pháp luật tố tụng hình sự sẽ phải có những quy định
chặt chẽ về việc tham gia bào chữa của này. Cần quy định cụ thể về việc bảo đảm sự
bình đẳng thật sự trong tranh tụng tại phiên tòa giữa kiểm sát viên và luật sư (đồng
thời nghiên cứu quy định mẫu trang phục thống nhất của luật sư, dành cho luật sư vị
trí ngồi tương xứng với công tố tại phiên tòa). Khi có luật sư tham dự phiên tòa, cần
phải coi đánh giá của Tòa án về quan điểm pháp lý của luật sư trong bản án như một
tiêu chí của một bản án có hiệu lực pháp luật.
C/ KẾT LUẬN
Với những quy định về NBC trong BL TTHS 2003 và việc chấp hành đúng các
quy định này sẽ góp phần làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội,
bảo đảm dân chủ, công bằng hơn. Tuy nhiên, để các quy định này được thực hiện, các
cơ quan có thẩm quyền cần ban hành các văn bản giả thích, hướng dẫn cụ thể từng
quy định của BL TTHS 2003 về chế định NBC.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2003.

2. Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.
3. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949.
4. Nghị định số 01 – NĐ – VY ngày 12/1/1950 của Bộ Tư pháp.
5. Nghị quyết 03 ngày 02-10-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
6.
7.
8.
9.

cao.
Pháp lệnh tổ chức Luật sư 1987.
Pháp lệnh luật sư 2001.
Luật Luật sư 2006.
/>
18



×