Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.96 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Trong tố tụng hình sự thì bị can, bị cáo là đối tượng bị buộc tội bởi cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Họ là những người có quyền lợi và nghĩa vụ bị ảnh hưởng sâu sắc nhất
bởi quyết định của Tòa án khi giải quyết vụ án hình sự. Là những người tham gia tố tụng trong
thế bị động không mang quyền lực nhà nước do nhiều nguyên nhân khác nhau mà quyền của bị
can, bị cáo có thể bị xâm phạm. Để giải quyết được tình trạng bị can, bị cáo bị xâm phạm các
quyền mà pháp luật quy định thì việc NTHTT, bị can, bị cáo biết rõ được các quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo là hết sức cần thiết. Do đó việc nghiên cứu một cách tổng thể về quyền và nghĩa
vụ của bị can, bị cáo là hết sức cần thiết. Đó là lý do em chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo”. Do thời gian tìm hiểu và kiến thức còn hạn chế, bài viết của em còn
nhiều thiếu sót mong các thầy cô đóng góp ý kiến để bài viết của em được hoàn thiện hơn, em xin
chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I.

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO.

1. Quyền và nghĩa vụ của bị can.
a. Quyền của bị can.
Quyền của bị can được quy định tại khoản 2 điều 49 BLTTHS năm 2003, theo đó bị can có
những quyền sau:
- Được biết mình bị khởi tố về tội gì: đây là quyền rất quan trọng, quyền đầu tiên và quyền ảnh
hưởng rất lớn tới việc thực hiện các quyền khác của bị can. Bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự, mốc xác định tự cách bị can là lúc có quyết định khởi tố bị can đã có sự phê chuẩn của VKS.
Do đó bị can cần được biết mình bị khởi tố về tội gì, theo điều nào của BLHS để từ đó có thể
tiến hành tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa cho mình. Quyền được biết mình bị khởi tố về
tội gì của bị can thể hiện sự công bằng, bình đẳng và tiến bộ của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Bởi
vì nhà nước có quyền lực trong tay và các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước sử dụng quyền
lực đó để tiến hành các hoạt động tố tụng với bị can, nên bị can cần phải được biết mình bị khởi
tố về tội gì một cách công khai, minh bạch để có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người


bào chữa, người đại diện hợp pháp để bảo đảm quyền lợi cho mình.

1


Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quyền này của bị can chưa được bảo đảm vì nhiều lý
do. Có thể kể đến như do NTHTT đã không giải thích và cho bị can được biết mình bị khởi tố
về tội gì, nhiều trường hợp do chính nhận thức của bị can về pháp luật còn chưa cao. Việc
không biết mình bị khởi tố về tội gì khiến bị can không có sự chuẩn bị về tài liệu, đồ vật, lời
khai hay tìm nhân chứng, tìm sự trợ giúp về pháp luật để bào chữa cho mình. Do vậy việc tiến
hành tố tụng có thể đi đến những kết quả sai với sự thực khách quan của vụ án.
Trước đây BLTTHS 1988 có quy định “bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì”
đến BLTTHS năm 2003 quy định tiến bộ hơn “bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội
gì”. BLTTHS năm 2003 đã thêm từ “được” trong quy định về quyền này. Theo BLTTHS 1988
bị can ở vào thế chủ động tức là bị can có thể phải tự mình tìm hiểu xem mình bị khởi tố về tội
gì và các CQTHTT phải tạo điều kiện để cho họ biết. Còn theo quy định tại BLTTHS 2003
thêm từ “được” đã làm cho bị can ở vào thế bị động, một thế bị động có lợi cùng với đó là trách
nhiệm của CQTHTT tăng lên. CQTHTT bắt buộc phải cho bị can biết mình bị khởi tố về tội gì
chứ không phải là bị can tự tìm hiểu. Đây là một sự thay đổi có ý nghĩa quan trọng trong các
quy định về quyền của bị can.
- Được giải thích về quyền và nghĩa vụ: theo quy định tại khoản 6 điều 126 BLTTHS 2003 thì
CQĐT phải bảo đảm việc giao quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị
can được thực hiện. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ ở đây không chỉ đơn thuần là nêu lên các
quy định của pháp luật mà phải có sự giải thích cặn kẽ cho bị can nắm được. Bị can có quyền
được yêu cầu giải thích về các quyền và nghĩa vụ mà mình chưa nắm rõ cũng như hỏi về cách
thực hiện các quyền mà pháp luật đã quy định cho họ để từ đó khi TGTT họ có thể bảo vệ được
quyền lợi của mình một cách hợp pháp. Trước đây BLTTHS 1988 không có quy định này và
đến BLTTHS năm 2003 sửa đổi, bổ sung đã cho thấy sự tiến bộ, hợp lý.
- Trình bày lời khai: lời khai của bị can là một trong số các nguồn chứng cứ quan trọng để giải
quyết vụ án. Là đối tượng bị buộc tội, bị can có quyền bào chữa, gỡ tội một trong các hình thức

để bào chữa là bị can trình bày lời khai của mình. Việc khai báo, trình bày là một quyền chứ
không phải là nghĩa vụ của bị can. Do đó bị can có thể khai báo hoặc không khai báo trước
CQTHTT, NTHTT. Pháp luật không đặt ra trách nhiệm trong trường hợp bị can không khai báo
hoặc khai báo không đúng sự thật. Tuy nhiên bị can được pháp luật khuyến khích khai báo sự
thật một cách thành khẩn để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Thực tế hiện nay cho thấy

2


quyền được trinhg bày lời khai của bị can chưa thực sự được bảo đảm. Vẫn còn trường hợp bị
can bị ép buộc phải khai báo hay bị mớm cung, bức cung nhằm hoặc buộc bị can phải thừa nhận
đã thực hiện những hành vi cầu thành tộ phạm theo ý chủ quan của NTHTT.
- Quyền được đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Theo quy định này thì bị can có quyền cung cấp
tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án cũng như những yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ
sung…
- Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch:
Bị can có quyền đề nghị thay đổi NTHTT, NGĐ, NPD nếu có căn cứ rõ ràng cho rằng họ không
thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm
cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Quyền này của bị can đã được quy
định tại BLTTHS 1988 và năm 2003 khi xây dựng và ban hành BLTTHS mới thì ta đã kế thừa và
xác định đây là một quyền quan trọng của bị can. Việc đảm bảo thực hiện tốt quyền được đề nghị
thay đổi NTHTT, NGĐ, NPD của bị can góp phần đảm bảo tính công khai minh bạch trong tố
tụng hình sự và đảm bảo nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tham gia tố tụng.
- Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: Theo đó bị can có quyền dùng
những lý lẽ và chứng cứ để gỡ tội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình
tham gia tố tụng. Quyền tự bào chữa không phải là một quyền độc lập, tách rời các quyền khác
của bị can mà bào chữa chính là sự tổng hòa các quyền của bị can trong tố tụng hình sự để bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của mình. Quy định này thể hiện sự bình đẳng của bị can với những
NTHTT. Ngoài quyền tự bào chữa bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình.
- Quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng: theo quy định tại điểm g khoản 2

điều 49 BLTTHS 2003 thì khi tham gia vào quá trình tố tụng, bị can có quyền nhận các quyết
định và văn bản tố tụng. Việc quy định bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố
tụng nhằm đảm bảo cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác của
mình.
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng: Không phải trong mọi trường hợp mọi quyết định và hành vi tố tụng của
CQTHTT, NTHTT đều đúng theo quy đinh của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo thực hiện tốt các
quy định của pháp luật cũng như dảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của bị can thì pháp luật đã cho
phép bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT.

3


b. Nghĩa vụ của bị can.
Bị can có các quyền trong tố tụng hình sự thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất
định. Khoản 3 điều 49 BLTTHS năm 2003 có quy định: “bị can phải có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có
thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. Trong trường hợp bị can được tại ngoại, khi cần có mặt
của bị can để tiến hành tố tụng phải triệu tập bị can. Bị can có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập
của CQĐT, VKS, việc triệu tập bị can phải được tuân thủ đúng quy định tại điều 129 BLTTHS
2003. Trong trường hợp bị can vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, việc áp
giải bị can cũng phải tuân thủ đúng quy định tại điều 130 BLTTHS. Trong trường hợp bị can bỏ
trốn thì bị truy nã. Trong trường hợp bị can bị tạm giam thì việc triệu tập bị can của cơ quan tiến
hành tố tụng sẽ được thông quan Ban giám thị trại giam. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị xét
xử tòa án cũng có thể triệu tập bị can để giải quyết vấn đề dân sự hoặc cam đoan trước khi quyết
định áp dụng biện pháp ngăn chặn như cấm đi khởi nơi cư trú, đặt tiền…
2. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
a. Quyền của bị cáo.
- Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng: bị cáo là người đã bị tòa án quyết định
đưa ra xét xử. Quy định này đã có sự bổ sung rất lớn so với BLTTHS 1988 vì BLTTHS 1988 chỉ

quy định bị cáo có quyền nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyền được nhận quyết định đưa
vụ án ra xét xử là một quyền quan trọng của bị cáo, vì việc quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ
khiến người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo. Và bị can dựa vào quyết
định đưa vụ án ra xét xử sẽ có thể biết được mình bị đưa ra xét xử vì tội danh gì, thời gian, địa
điểm mở phiên tòa, thẩm phán, thư ký…trên cơ sở đó bị cáo có thể thực hiện được các quyền của
mình như quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng…
- Quyền được tham gia phiên tòa: đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo vì phiên tòa
là nơi diễn ra hoạt động thẩm vấn, xét xử công khai. Bán án quyết định của tòa phải dựa trên
những chứng cứ đã thẩm tra được tại phiên tòa. Pháp luật quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên
tòa xét xử sẽ đảm bảo cho bị cáo thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi của mình. Hơn nữa sự có mặt
của bị cáo tại phiên tòa còn thể hiện tính công khai minh bạch khi xét xử, đảm bảo được quyền
bình đẳng trước tòa của bị cáo. Việc bị cáo tham gia phiên tòa vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của bị
cáo.

4


- Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ: cũng giống như bị can, bị cáo có quyền
được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình để có thể thực hiện tốt nhất các quyền và nghĩa vụ
đó. Khi còn mang tư cách bị can, bị can đã được giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ, tuy nhiên
khi chuyển sang tư cách bị cáo, trong giai đoạn tố tụng khác, với tư cách khác, nên quyền và
nghĩa vụ của họ cũng thay đổi và cần được NTHTT giải thích cho họ về các quyền và nghĩa vụ
này. Chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia phiên tòa, nhờ đó
bị cáo có thể nắm được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia phiên tòa. Đối với các bị cáo
lần đầu tiên tham gia phiên tòa xét xử thì việc giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên
tòa sẽ làm ổn định trạng thái tâm lý cho bị cáo, từ đó có thể hợp tác với NTHTT trong phiên tòa
một cách chân thực và cởi mở hơn.
- Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của pháp luật: bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT, người phiên dịch, người
giám định trong các trường hợp pháp luật quy định. Trước khi mở phiên tòa xét xử, việc thay đổi

thẩm phán, hội thẩm do chán án TA quyết định, còn tại phiên tòa, nếu thẩm phán bị thay đổi là
chánh án thì do chánh án tòa án cấp trên trực tiếp quyết định. Tại phiên tòa nếu bị cáo có yêu cầu
thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân thì HĐXX sẽ biểu quyết tại phòng nghị án để quyết định
việc có thay đổi hay không. Nhưng việc yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm tại phiên tòa phải
được đề nghị trước khi HĐXX bắt đầu xét hỏi. Nếu HĐXX quyết định thay đổi thẩm phán hoặc
hội thẩm thì phải hoãn phiên tòa. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch, người
giám định khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình có thể bị xâm hại. Việc chấp nhận thay
đổi những người này được các cơ quan thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.
- Đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu: quyền này của bị cáo hoàn toàn giống với quyền của bị
can. Bị cáo cũng có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu để chứng minh cho mình vô tội và đưa ra các
yêu cầu tại phiên tòa. Nếu trong các giai đoạn tố tụng trước bị can không đưa ra được các đồ vật,
tài liệu cần thiết để chứng minh cho mình vô tội thì đến khi tham gia phiên tòa với tư cách là bị
cáo thì bị cáo hoàn tòa có quyền đưa ra cá đồ vật, tài liệu để HĐXX xem xét đánh giá. Bị cáo
cũng có quyền nêu ra những yêu cầu của mình trước HĐXX. Và HĐXX có trách nhiệm xem xét
giải quyết các yêu cầu đó theo đúng quy định của pháp luật để không làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của bị cáo.

5


- Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa: quyền bào chữa là quyền cơ bản của đối tượng bị
buộc tội xuyên suốt quá trình tố tụng, nên bất kể đối tượng bị buộc tội mang tư cách bị can hay bị
cáo đều được pháp luật thừa nhận quyền bào chữa và nhờ người bào chữa. Về cơ bản, cách thực
hiện quyền bào chữa của bị cáo cũng giống như cách thực hiện quyền bào chữa của bị can, Bị cáo
tự bào chữa bằng cách đưa ra những đồ vật, tài liệu, lời khai, lý lẽ. Quyền được nhờ NBC ở giai
đoạn xét xử được quy định chặt chẽ và bảo đảm thực hiện hơn ở chỗ tại các buổi hỏi cung bị can,
NBC có quyền được có mặt để tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị can. Khi đó NBC có thực hiện
quyền đó hay không là tùy thuộc vào họ và yêu cầu của bị can. Nhưng tại phiên tòa việc tham gia
của NBC là nghĩa vụ bắt buộc. Nhưng nếu vắng mặt NBC thì tòa án vẫn tiến hành phiên tòa xét
xử. Những trường hợp bắt buộc phải có NBC thì nếu NBC vắng mặt thì HĐXX phải hoãn phiên

tòa. Việc thực hiện tối ưu quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử có ảnh hưởng lớn đến
kết quả giải quyết của HĐXX. Do đó việc bị cáo thực hiện quyền bào chữa trước HĐXX để
chứng minh mình vô tội hay gỡ tội theo hướng giảm nhẹ TNHS có hiệu quả hơn nhiều so với việc
bị can thực hiện quyền bào chữa của mình trước VKS hay CQĐT. NBC cho bị cáo cần nắm vững
quyền này và thực hiện một cách tốt nhất quyền bào chữa tại phiên tòa.
- Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa: khi KSV trình bày lời buộc tội với những lý lẽ
lập luận và căn cứ của mình để buộc tội bị cáo, thì bị cáo cũng có quyền trình bày những ý kiến
quan điểm của mình về vấn đề mà KSV hoặc Thẩm phán đưa ra. Bị cáo cũng có quyền tranh luận
với KSV. Sau khi KSV đọc bản cáo trạng, bị cáo sẽ trình bày lời bào chữa của mình, bị cáo có thể
tự trình bày lời bào chữa hoặc nhờ NBC trình bày những luận điểm bào chữa cho mình. Ngay cả
khi có NBC chữa thì bị cáo vẫn có quyền bổ sung ý kiến để bào chữa cho mình, BLTTHS 2003
quy định cho bị cáo và NBC cho bị cáo có quyền tranh luận nhiều lần tại phiên tòa chứ không chỉ
một lần. BLTTHS năm 1988 không có quy định này đến BLTTHS 2003 thì đây là sự tiến bộ của
pháp luật, hoàn thiện các quyền của bị cáo tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền lợi của những
người là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự.
- Nói lời sau cùng trước khi nghị án: theo quy định tại điều 220 BLTTHS 2003 thì sau khi những
người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm. Chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên bố kết thúc phần
tranh luận và bị cáo sẽ được nói lời sau cùng trước khi HĐXX vào phòng nghị án. Quyết định của
HĐXX có ảnh hưởng trực tiếp đến tình mạng, sức khỏe danh dự…của bị cáo nên có ý nghĩa rất
quan trọng. Pháp luật quy định cho bị cáo nói lời sau cùng là tạo điều kiện cơ hội cho bị cáo được

6


bày tỏ thái độ, nguyện vọng của mình trước khi HĐXX đưa ra những quyết định đối với vụ án.
Khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan đến vụ án và bày tỏ thái độ
của mình đối với việc buộc tội…pháp luật quy định trong khi bị cáo nói lời sau cùng thì HĐXX
cần phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời sau cùng của bị cáo. Nhưng để tránh cho việc trình bày
dài dòng hay không trình bày vấn đề chính thì luật cũng quy định HĐXX có quyền yêu bị cáo
không được trình bày những quan điểm đến vụ án nhưng không được hạn chế thời gian đối với bị

cáo. Thực tiễn cho thấy, bị cáo thường bày tỏ tâm tư về việc thực hiện phạm tội, tỏ ra ăn năn hối
cải…và thông thường nhiều bị cáo tỏ ra gan lỳ không chịu khai báo hay không khai báo đầy đủ sự
thật vụ án. Nhưng đến khi được nói lời sau cùng trước khi nghị án thì bị cáo đã có sự thay đổi về
suy nghĩ và khai báo thêm nhiều tình tiết mới có ý nghĩa trong việc xác định sự thật. Do vậy, pháp
luật nước ta đã có quy định nếu trong khi nói lời sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý
nghĩa quan trọng đối với vụ án thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại phần xét hỏi. Quy định
này sẽ đảm bảo cho Hội đồng xét xử không bỏ qua những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với
vụ án.
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án: Kháng cáo là quyền cho phép bị cáo chống lại
bản án và quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật và đòi xét xử lại. Theo đó, bị cáo có
quyền kháng cáo bản án, các quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật
của Tòa án. Theo quy định tại Điều 233 BLTTHS 2003 thì bị cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử
sơ thẩm hoặc Tòa án phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam thì ban giám thị trại
giam phải đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Bị cáo cũng có thể trình bày trực tiếp
với tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Trong trường hợp này, Tòa án phải lập biên bản
về việc kháng cáo đó theo quy định tại Điều 95 BLTTHS.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo
vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo sẽ được tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc
được niêm yết. Và nếu đơn kháng cáo của bị cáo được gửi qua đường bưu điện thì ngày kháng
cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn
kháng cáo được gửi qua ban giám thị trại giam thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban
giám thị trại giam nhận được đơn. Các quy định này nhằm đảm bảo sự công bằng, khách quan
trong việc kháng cáo của bị can.

7


Tuy nhiên, Điều 235 BLTTHS 2003 cũng quy định việc kháng cáo quá hạn có thể được
chấp nhận nếu có lý do chính đáng. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ thành lập một Hội đồng xét xử gồm
3 Thẩm phán để xem xét lý do kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định chấp

nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của bị cáo.
- Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: khi
nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì bị cáo có quyền khiếu nại. Đối tượng của khiếu nại là các
quyết định không thuộc đối tượng của kháng cáo như: quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án của Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa…Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi của người tiến hành tố tụng nếu các hành
vi đó là trái pháp luật.
Khiếu nại trong giai đoạn xét xử chủ yếu liên quan đến các quyết định, hành vi tố tụng của
Tòa án nên chủ thể giải quyết khiếu nại chủ yếu là Tòa án mà người đại diện là Chánh án. Theo
quy định tại Điều 31 BLTTHS, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Phó chánh
án trước khi khi mở phiên tòa do Chánh án tòa án giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày
nhận được khiếu nại. Nếu bị cáo không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền
tiếp tục khiếu nại với Tòa án cấp trên trực tiếp. Tòa án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền và nhiệm
vụ giải quyết trong thời hạn 15 ngày. Quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án cấp trên là quyết
định cuối cùng và không thể bị khiếu nại.
Đối với khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của chánh án thì do Tòa án cấp trên giải
quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định này là quyết định cuối
cùng, không thể bị khiếu nại tiếp và bị cáo có nghĩa vụ phải chấp hành. Thời hiệu khiếu nại của bị
cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng là có vi phạm pháp luật. Trừ trường do nguyên nhân khách quan mà
người bị kết án không thực hiện cáo. được quyền khiếu nại của của mình thì thời gian gặp trở
ngại đó không được tính vào thời hiệu khiếu nại.
b. Nghĩa vụ của bị cáo.
Khoản 3 điều 50 BLTTHS 2003 quy định: “bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa
án, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị
truy nã”. Như vậy cũng giống như bị can, bị cáo cũng có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập

8



của CQTHTT và ở đây là tòa án. Do tư cách bị cáo chỉ hình thành khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử của tòa án có thẩm quyền nên bị cáo chỉ phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Trong
trường hợp bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam thì có thể được đảm bảo được việc
bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Nhưng trong trường hợp bị cáo đang tại ngoại thì
nhiều khi tòa án gặp phải khó khăn trong việc triệu tập bị cáo. Do vậy pháp luật đã có quy định
nếu bị cáo vắng mặt mà không có lý do chính đáng khi tòa án triệu tập thì bị cáo sẽ bị áp giải.
Trong trường hợp bị cáo có hành vi bỏ trốn thì bị cáo sẽ bị truy nã theo quy định của pháp luật.
II. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN CÁC QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO.
1. Thực trạng đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
a. Những thành tựu đạt được.
BLTTHS năm 2003 có sự kế thừa những quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước và
tiếp nhận thêm những tư tưởng, quan điểm mới đã hoàn thiện thêm một bước đáng kể các quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng nói chung và thủ
trưởng cơ quan điều tra, việc trưởng viện kiểm sát, chánh án tòa án nói riêng. Các quy định này
có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được thực hiện và bảo
đảm nhanh chóng, chính xác trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Bởi vì, khi những
người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình sẽ đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng và đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được thực hiện trên
thực tế.
Thông qua các số liệu thống kê của tòa án nhân dân tối cao, VKSNDTC về công tác giải
quyết, xét xử án hình sự ta có thể thấy được những cố gắng của các CQTHTT, NTHTT trong việc
xác minh sự thật vụ án cũng như đảm bảo tốt các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự. Theo dữ liệu thống kê của VKSNDTC thì từ năm 2005 đến 2009 số lượng bản án
của cả hai ngành VKS và CQĐT là 10.925 vụ với 17.130 bị can. Đây là số lượng án đình chỉ khá
lớn. Qua đó có thể thấy trong 5 năm năm 2005 – 2009 CQĐT và VKS đã làm khá tốt công tác của
mình khắc phục được những sai lầm hạn chế trong công tác khởi tố vụ án, khởi tố bị cán của
CQTHTT, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của bị can và đảm bảo bị can thực hiện tố nghĩa vụ
của mình


9


Theo báo cáo tổng kết năm 2010 của ngành tòa án nhân dân thì tòa án nhân dân các cấp và
tòa án quân sự các cấp đã thụ lý 71.680 vụ án, đã giải quyết được 68.381 vụ án đạt 95%. Nhìn
chung các vụ án hình sự đều được giải quyết, xét xử trong thời hạn quy định của pháp luật. Một
số tòa án đã giải quyết trên 95% các vụ án hình sự thụ lý như: các tòa quân sự, tòa án nhân dân
thành phố hà nội…việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng hạn các vụ án hình sự đã góp
phần không nhỏ trong việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tố tụng
hình sự đặc biệt là bị can, bị cáo.
Đặc biệt là quyền bào chữa của bị can, bị cáo, ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Theo
thống kê của TANDTC thì số vụ án có người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự đã tăng lên đáng kể năm 2007 là 5833 vụ, năm 2008 là 7255 vụ. Sự tham gia của
người bào chữa trong vụ án hình sự sẽ đảm bảo cho đương sự nói chung và bị can, bị cáo nói
riêng có sự đảm bảo tốt nhất về quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hình sự.
Như vậy có thể thấy việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo như quyền
được nhận các quyết định, văn bản tố tụng, quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa, quyền tham gia phiên tòa, quyền kháng cáo…hay nghĩa vụ về có mặt theo giấy triệu tập của
CQĐT, VKS, TA đã được những NTHTT đảm bảo thực hiện tương đối tốt trong thời gian vừa
qua.
* Những kết quả đạt được từ phía bị can, bị cáo: Bản thân bị can, bị cáo là những người bị buộc
tội trong tố tụng hình sự. Quyền và lợi ích của họ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi tham gia vào quá
trình tố tụng. Do đó họ cũng đã có những hoạt động tích cực trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình. Hiện nay, khi công nghệ truyền thông ngày càng phát triển thì bị can, bị cáo
cũng đã hiểu biết hơn về các quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng hình sự. đặc biệt là quyền
bào chữa và nhờ người khác bào chữa đã được bị can, bị cáo thực hiện khá tốt nhằm đảm bảo cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, các quyền cơ bản khác như quyền đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu, quyền kháng cáo…đã được bị can, bị cáo thực hiện tương đối tốt góp phần
xác định sự thật khách quan của vụ án.

* Những kết quả đạt được từ người tham gia tố tụng: Ngoài bị can, bị cáo và người tiến hành tố
tụng thì những người tham gia tố tụng khác cũng góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, đặc biệt là người bào chữa, người giám định, người phiên

10


dịch. Họ đã có những đóng góp rất lớn trong việc xác định sự thật vụ án đảm bảo cho bị can, bị
cáo có thể thực hiện và đảm bảo tốt nghĩa vụ của mình.
b. Những hạn chế vướng mắc còn tồn tại.
* Từ phía người tiến hành tố tụng: Nhìn vào số liệu từ năm 2005 đến năm 2009 số lượng án đình
chỉ của cả hai ngành VKS và CQĐT là 10.925 vụ với 17.130 bị can ta cũng thấy được rằng những
NTHTT, CQTHTT đã không thực hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của mình đã dẫn đến việc
truy tố không đúng người đúng tội xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là bị can.
Tỉ lệ các bản án bị hủy, bị sửa còn cao, nguyên nhân phần lớn là do vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng, cấp sơ thẩm điều tra, thu thập chứng cứ không đầy đủ. Bên cạnh đó việc chậm ban hành
các bản án tại các tòa vẫn chưa được khắc phục làm ảnh hưởng đến công tác thi hành án cũng như
quyền lợi của bị can, bị cáo.
Hơn nữa, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng
Điều 47 BLHS và việc trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong một số trường hợp còn chưa
chính xác. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, có tòa chưa xem xét toàn diện các tình tiết nội dung
của vụ án mà chỉ tập trung xem xét các tình tiết liên quan tới các bị cáo có kháng cáo, kháng nghị
nên khi quyết định hình phạt đã giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo đầu vụ thấp hơn hình phạt đối
với các bị cáo có vai trò thứ yếu trong vụ án. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bị cáo có vai trò thứ yếu trong vụ án.
Trong tố tụng hình sự quyền được bào chữa của bị can, bị cáo là một quyền quan trọng và
có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định sự thật của vụ án. Đảm bảo được quyền bào chữa cũng là
đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo. Nhưng vấn đề cấp giấy chứng nhận người
bào chữa cho người bào chữa vẫn còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó trong tố tụng hình sự vẫn còn
tồn tại những vấn đề như mớm cung, ép cung, dùng nhục hình. Việc làm trái quy định pháp luật

đó của NTHTT đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và còn làm sai lệch
nghiêm trọng sự thật khách quan của vụ án.
2. Nguyên nhân của thực trạng trên.
* Nguyên nhân từ phía pháp luật: Khi nói đến nguyên nhân khiến cho quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng nói chung và bị can, bị cáo nói riêng bị ảnh hưởng thì nguyên nhân
đầu tiên được nhắc đến là nguyên nhân từ phía pháp luật. Các quy định của pháp luật được đề ra
nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Nhưng nếu các

11


quy định đó không hợp lý thì sẽ có tác dụng ngược trở lại ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng
của những người tham gia tố tụng và dặc biệt là bị can, bị cáo.
Như ở trên đã phân tích quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa trong tố tụng hình sự có
vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Trong
trường hợp bị can, bị cáo không hiểu biết về pháp luật thì người bào chữa càng có vai trò quan
trọng hơn. Pháp luật đã có những quy định về việc mời người bào chữa cũng như điều kiện để trở
thành người bào chữa cho bị can, bị cáo. Nhưng các quy định về thủ tục xét xử và cấp giấy chứng
nhận người bào chữa lại khá khó khăn và phức tạp. Theo quy định tại khoản 4 điều 56 BLTTH thì
“trong thởi hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa có kèm theo giấy tờ
liên quan đến việc bào chữa cơ quan điều tra…” nhưng rất ít trường hợp Luật sư được cấp giấy
chứng nhận người bào chữa trong thời hạn nói trên. Người bào chữa cũng có khá nhiều quyền và
nghĩa vụ quan trọng trong tố tụng hình sự nhưng cho đến nay lại không hề có một quy định nào
đối với những người THTT để đảm bảo thực hiện quyền của người bào chữa góp phần đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Ngoài ra các quy định về việc đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị đảm bảo để thay thế biện pháp tạm giam hay các quy định về thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự cũng còn nhiều bất cập hạn chế cần phải xem xét, sửa đổi bổ sung tránh ảnh hưởng
đến quyền cảu bị can, bị cáo.
* Nguyên nhân từ phía những người tham gia tố tụng: Việc bị can, bị cáo không hiểu biết về pháp
luật đã gây rất nhiều khó khăn cho việc giải quyết vụ án cũng như tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của chính bản thân mình. Vì khi bị can, bị cáo biết được mình có quyền và nghĩa vụ gì trong
tố tụng hình sự thì họ sẽ hủ động hơn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm chứng minh
mình không phạm tội hay có thể đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình,
chủ động hợp tác với CQĐT, VKS, TA trong quá trình tố tụng. Điều đó sẽ góp phần nhanh chóng
xác định sự thật vụ án đảm bảo xét xử đúng người đúng tội và có tính răn đe mạnh đối với các
chủ thể khác.
Như vậy có thể thấy việc bị can, bị cáo không hiểu về pháp luật, không năm rõ các quyền
và nghĩa vụ cuả mình chính là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng quyền và
nghĩa vụ của mình trong tố tụng hính sự nói riêng và cũng là trong tố tụng nói chung. Do vậy cần
phải có các biện pháp để nâng cao hiểu biết pháp luật của bị can, bị cáo đặc biệt là trong xu thế
phát triển của đất nước hiện nay.

12


Bên cạnh đó người bị hại, nguyên đơn dân sự…cũng có những ảnh hưởng nhất định đến
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Những lời của họ thường theo hướng
có lợi cho mình và theo hướng bất lợi cho bị can , bị cáo.
nguyên nhân từ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Trong những nguyên nhân dân đến tình trạng quyền lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
không được đảm bảo thì nguyên nhân từ phía các CQTHTT, NTHTT là nguyên nhân trực tiếp và
phổ biến nhất hiện nay. Bởi CQTHTT, NTHTT là những người trực tiếp áp dụng các quy định
của pháp luật vào thực tiễn giải quyết vụ án. Trong nhiều trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo bị xâm hại là do thiếu hiểu biết hay hiểu biết không đúng của NTHTT về các
quy định của pháp luật gây ra. Điều đó có thể là do chất lượng của đội ngũ những NTHTT của
nước ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tế hiện nay. Trong khi các vụ án hình sự ngày
càng trở nên quy mô và phức tạp hơn thì những cán bộ trình độ chuyên môn cao trong tố tụng
hình sự lại không nhiều. Do vậy kéo theo việc giải quyết các vụ án hình sự sẽ không tránh khỏi
những sai lầm và có thể gây ra tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự.
Số lượng NTHTT của nước ta cũng chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu hiện nay, đặc biệt

là ở vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo…nơi có điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn,
tình hình tội phạm có nhiều phức tạp. Số lượng NTHTT ít, vụ án xảy ra nhiều sẽ khiến những
NTHTT phải ôm đồm cùng lúc giải quyết nhiều vụ án. Do đó chất lượng của công tác điều tra,
truy tố, xét xử sẽ không được cao, ảnh hưởng nhiều đến việc xác minh sự thật vụ án cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Ngoài ra, thực tế hiện nay nhiều khi những NTHTT
cố tình làm sai các quy định của pháp luật như bức cung, ép cung…nhằm nhanh chóng giải quyết
vụ án theo ý chí chủ quan của mình. nguyên nhân là do chưa có một chế tài đủ mạnh để đảm bảo
NTHT không vi phạm các quy định của pháp luật, xâm hại đền quyền và lợi ích hợp pháp cảu bị
can, bị cáo.
* Các nguyên nhân khác: Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý là một nguyên nhân có ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác điều tra, truy tố xét xử nhằm xác định sự thật vụ án. ở vùng sâu vùng
xa… nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi thì việc điều tra thu thập chứng cứ của các điều tra
viên trở nên rất khó khăn. Nhiều khi những chứng cứ quan trọng không thu thập được do đã bị
hủy hoặc bị ảnh hưởng rất lớn đến việc xác minh sự thật vụ án. Bên cạnh đó, điều kiện đi lại khó
khăn cũng khiến cho công tác tống đạt các quyết định quan trọng liên quan đến quyền lợi và

13


nghĩa vụ của bị can, bị cáo cũng trở nên khó khăn hơn gây ảnh hưởng đến việc thực hiện các
quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động ở
vùng sâu vùng xa các hoạt động điều tra truy tố xét xử còn gặp nhiều khó khăn do thiếu các điều
kiện cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định sự thật khách
quan của vụ án, không đảm bảo tốt được quyền và nghĩa vụ cảu bị can, bị cáo trong quá trình giải
quyết vụ án.
3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.
Thứ nhất, cần sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật chưa phù hợp với tình hình
hiện nay. Ví dụ như quy đinh của pháp luật về thời điểm xác định tư cách bị can cho người bị
khởi tố. hiện nay chưa có một quy định cụ thể nào về việc xác định thời điểm người bị khởi tố có

tư cách bị can. Người bị khởi tố sẽ có tư cách bị can kể từ khi có quyết định khởi tố bị can hay khi
quyết định đó được VKS phê chuẩn. Theo đó cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nhằm đảm
bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 57 BLTTHS theo hướng trong những trường hợp nếu bị
can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến
hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ,
khi mà họ bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình được quy định trong BLHS (hiện nay là chỉ áp dụng đối với mức tử hình). Thực tiễn
cho thấy số lượng phiên toà hình sự xét xử có người bào chữa chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều này có
thể do nhiều lý do như: do trình độ nhận thức pháp luật của phần lớn bị cáo còn hạn chế, hoàn
cảnh kinh tế không cho phép, đối tượng được trợ giúp pháp lý còn rất hạn hẹp… Bởi vậy,
BLTTHS cần mở rộng đối tượng được hưởng sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
Quy định tại điểm b khoản 1 điều 179 BLTTHS trong phần chuẩn bị xét xử: theo đó thẩm
phán sẽ ra quyết định trả lại hồ sơ để điểu tra bổ sung cho VKS khi có căn cứ cho rằng bị cáo
phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác. Theo quy định tại điều 50 BLTTHS thì bị cáo là
người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhưng quy đinh trên lại thuộc phần chuẩn bị
xét xử. Khi đó, thẩm phán đang xem xét để ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hay không và tư
cách của người bị khởi tố trong vụ án hình sự vẫn là bị can. Bởi vậy pháp luật quy định là cho
rằng bị cáo phạm một tội khác là không chính xác cần phải sửa lại là bị can phạm một tội khác.

14


Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa: cần bổ sung quy định về thủ
tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa ngay trong BLTTHS đồng thời bổ sung chế tài đối với
người có hành vi vi phạm thời hạn cấp giấy chứng nhận. Đặc biệt là cần có chế tài xử lý nghiêm
đối với những NTHTT có hành vi tác động đến bị can., bị cáo để họ phải từ chối luật sư, nhằm
ngăn cản luật sư tham gia tố tụng.
Sửa đổi Điều 196 về giới hạn của việc xét xử theo hướng để Toà án trong bất kỳ trường
hợp nào cũng không được vượt quá giới hạn truy tố của VKS nếu điều đó làm bất lợi cho bị cáo.

Toà án chỉ có thể vượt quá giới hạn truy tố của VKS nếu không làm bất lợi cho bị cáo, không ảnh
hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo. Hiện nay, theo Điều 196 BLTTHS “Toà án chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét
xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều
luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố”.
Thứ hai, nâng cao kiến thức pháp luật của những người tham gia tố tụng đặc biệt là bị can,
bị cáo: những người tham gia tố tụng đặc biệt là bị can, bị cáo là những người có quyền và lợi ích
hợp pháp bị ảnh hưởng nhiều nhất trong tố tụng hình sự. Nhưng nhiều khi do không hiểu biết về
pháp luật mà chính bản thân họ đã không thực hiện các quyền của mình và tự mình đánh mất
những quyền và lợi ích hợp pháp mà mình được hưởng. Do vậy, cần thường xuyên tuyên truyền,
nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân. Và đối với những người đã là bị can, bị cáo thì cần
những NTHTT phải đảm bảo thực hiện đúng trách nhiệm thông báo cụ thể về các quyền và nghĩa
vụ của bị can, bị cáo cho họ biết.
Thứ ba, nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng: Chúng ta
cần có các biện pháp nhằm nâng cao số lượng vầ chất lượng đội ngũ những NTHTT, tăng cường
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, lối sống và trách nhiệm cho những
NTHTT đặc biệt là các cán bộ, công chức ngành TAND. Xây dựng phương án đào tạo nguồn cán
bộ, thẩm phán cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ xét
xử đề tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Thứ tư, một số giải pháp khác: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, thực
hiện trợ giúp pháp lý cho người dân thông qua các trung tâm tư vấn pháp luật. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên môn và hoạt động quản lý của các CQTHTT. Tăng

15


cường kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho nhưng NTHTT. Xây dựng đề án
cải tiến chế độ tiền lương, kịp thời nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chế độ tiền lương. Như vậy sẽ
đảm bảo cho NTHTT có điều kiện tốt nhất để thực hiện công tác, nhiệm vụ được giao góp phần

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Có như vậy thì quyền
lợi của bị can, bị cáo mới được bảo đảm cho dù bị can, bị cáo đó TGTT ở bất cứ địa phương nào
trong cả nước.
KẾT LUẬN
Bị can, bị cáo là những đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự. Họ chỉ có tư cách pháp
lý khác nhau trong các giai đoạn tố tụng khác nhau mà thôi. Nhưng cũng có một số quyền của bị
can, bị cáo là giống nhau. Thực tế hiện nay cho thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến cho
quyền và nghĩa vụ của bị can chưa được bảo đảm thực hiện. Và hiện tượng bị can, bị cáo vi phạm
nghĩa vụ của mình còn rất phổ biến. Việc tìm hiểu những nguyên nhân này để đi đến những giải
pháp hoàn thiện là rất quan trọng và rất cần thiết trong gia đoạn hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2006.

2.

Vũ Thị Kim Thủy, Khóa luận tốt nghiệp, Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự, Hà Nội, 2011.

3.

Vũ Thị Quyên, Khóa luận tốt nghiệp, Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiện thực hiện trong hoạt
động tố tụng hình sự tại tỉnh Lai Châu, Hà Nội, 2010.

4.


TH.S Chu Thị Trang Ngân, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế đảm bảo thực hiện,
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, số 18(155), tháng 9/2009, Tr 37 –
46.

16


5.

Nguyễn Khắc Quang, Bất cập về thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của bị
can, bị cáo trong thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2010, Tr 53
– 59, 64.

6.

/>
7.

www.google.com

17



×