Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Một số tư tưởng triết học trong kinh duy ma cật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.49 KB, 90 trang )

I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN

Nguyễn thị thu hằng

MT S T TNG TRIT HC TRONG KINH
DUY-MA-CT

Luận văn thạc sỹ
CHUYÊN NGàNH: triết học
Mó s

: 60.22.80

Giỏo viờn hng dn: TS. Phm Qunh

Hà nội 2011

.

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………..3
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………….........3
2. Tình hình nghiên cứu……………………………………………......6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………..10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………………….11
6. Đóng góp của luận văn……………………………………………..11


7. Ý nghĩa của luận văn…………………………………………….…12
8. Kết cấu của luận văn…………………………………………….…12
Chương 1: KINH DUY-MA-CẬT VÀ VỊ TRÍ CỦA NÓ TRONG
TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO……….…13
1.1. Khái quát về kinh Duy-ma-cật……………………………….….13
1.1.1 Đặc điểm ra đời tác phẩm…………………………………….......13
1.1.2 Tóm tắt nội dung tác phẩm.............................................................20
1.2 Kinh Duy-ma-cật trong tiến trình phát triển tư tưởng Phật giáo…...27
1.2.1 Kinh Duy-ma-cật phá chấp Tiểu thừa……………………………27
1.2.2 Kinh Duy-ma-cật với tư tưởng Đại thừa………………………...33
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC TRONG KINH DUYMA-CẬT.........................................................................................................42
2.1 Thế giới quan trong kinh Duy-ma-cật...........................................42
2.1.1 Nội dung tư tưởng thế giới quan....................................................42
2.1.2 Giá trị tư tưởng thế giới quan trong kinh Duy-ma-cật........................48
2.2 Nhân sinh quan trong kinh Duy-ma-cật ......................................55
2.2.1 Quan niệm về con người trong kinh Duy-ma-cật...........................55

.

2


2.2.2 Những nhân tố nền tảng để kiến thiết một xã hội phát triển
bền vững.......................................................................................63
2.2.3. Giá trị tư tưởng nhân sinh quan trong kinh Duy-ma-cật......................70
KẾT LUẬN……………………………………………………………78
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………82

.


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu kinh điển là công việc không thể thiếu được để xác định
giá trị lịch sử thực sự của bất kỳ học thuyết triết học nào. Phật giáo tồn tại và
phát triển cho đến nay được 2555 năm lịch sử. Việc nghiên cứu kinh điển
Phật giáo sẽ góp phần giải đáp cho chúng ta những giá trị tư tưởng, ý nghĩa
triết học, tôn giáo của Phật giáo. Trong vô số những tác phẩm kinh điển Phật
giáo, tôi chọn kinh Duy-ma-cật để nghiên cứu vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, kinh Duy-ma-cật là bộ kinh có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong tiến trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Kinh Duy-ma-cật là bộ kinh
trọng yếu của Phật giáo Đại thừa đồng thời nó cũng giữ vai trò chuyển hướng
từ Tiểu thừa lên Đại thừa. Phật giáo trước Đại thừa (Phật giáo nguyên thủy và
Phật giáo bộ phái – Phật giáo tiền Đại thừa) được thành tựu với điều kiện chủ
yếu là thoát ly mọi ràng buộc thế tục - phải là một người xuất gia. Người cư
sỹ khó có khả năng thành đạo. Trong những thế kỷ đầu Phật lịch, quan niệm
đó được nhận thức gần như tuyệt đối. Nhưng đó chưa phải là ý nghĩa thâm
sâu của đạo Phật vì đạo Phật là đạo bình đẳng. Kinh Duy-ma-cật xuất hiện thì
người tại gia không chỉ có vai trò ngang hàng mà còn “siêu vượt” người xuất
gia. Hơn nữa, thời kỳ Phật giáo tiền Đại thừa, một số các đệ tử Phật tu hạnh
Thanh Văn, lấy mục tiêu giải thoát cá nhân làm chính (tự lợi). Điều này làm
cho tính tích cực, nhập thế của Phật giáo bị giới hạn. Kinh Duy-ma-cật xuất
hiện nhằm chỉ ra những giới hạn của người tu tập Thanh Văn đồng thời đề cao
con đường Bồ-tát đạo – con đường hành đạo mang tính nhập thế lấy mục tiêu
trên cầu Phật đạo (tự lợi), dưới hóa độ chúng sinh (lợi tha).
Không chỉ là bộ kinh giữ vai trò chuyển hướng từ Tiểu thừa lên Đại
thừa mà những vấn đề triết học trong kinh về thế giới quan cũng như nhân
sinh quan đều hàm chứa nhiều giá trị tư tưởng sâu sắc. Bản chất của các sự


.

4


vật, hiện tượng trong thế giới là gì? Vũ trụ là gì, trạng thái tồn tại của nó như
thế nào? Nó gồm các yếu tố nào tạo nên? Có sự vật nào trong vũ trụ tồn tại
“tự thân” (tồn tại không phụ thuộc vào cái khác) để ta có thể gọi tên chính xác
nó là gì hay không? Có cái gọi là vật chất tách rời với ý thức con người
không. Bản chất của hiện thực ẩn sau cái vẻ bề ngoài là gì, con người có thể
nhận thức tuyệt đối được nó hay không?… Đó là những câu hỏi luôn luôn
được đặt ra không chỉ đối với mọi nhà triết học mà cả các nhà khoa học tự
nhiên. Với nền tảng tư tưởng là “pháp môn bất nhị” (pháp môn không hai),
kinh Duy-ma-cật đã giải đáp những vấn đề trên rất sâu sắc, độc đáo. Kinh cho
rằng, về mặt hiện tượng, các sự vật hiện tượng có sinh, có diệt, có phân biệt,
đối đãi... Nhưng về mặt bản chất, không sự vật hiện tượng nào có tồn tại “tự
thân”. Thực tướng của vạn pháp là Không (vượt lên những phân biệt, đối đãi
nhị nguyên có – không của thế giới hiện tượng). Những giải đáp đó có nhiều
tương đồng đến “bất ngờ” với nghiên cứu khoa học, đặc biệt là Vật lý học
hiện đại. Do vậy, đây là lý do thứ hai chúng tôi nghiên cứu tư tưởng triết học
trong kinh Duy-ma-cật.
Bản chất hiện thực là vượt lên đối đãi nhị nguyên Có – Không của thế
giới hiện tượng. Con người cũng là một phần, một bộ phận của hiện thực. Vậy
bản chất của con người thực sự là gì? Có phải bản chất con người chỉ được xác
định thông qua các quan hệ xã hội bên ngoài hay ẩn sâu bên trong con người
còn có một ý nghĩa cao hơn như thế? Ta là ai và cái bí ẩn sâu thẳm nhất trong
mỗi con người là gì? Đó cũng là những câu hỏi mà mọi nhà triết học quan tâm
và giải đáp. Mỗi nhà triết học có cách trả lời khác nhau về vấn đề này. Phật
giáo nói chung, bộ kinh Đại thừa “Duy-ma-cật sở thuyết” nói riêng đã đưa ra

một cách tiếp cận độc đáo trong việc lý giải bản chất sâu thẳm nhất trong mỗi
con người. Đây cũng là lý do thứ ba chúng tôi nghiên cứu đề tài này.

.

5


Kinh Duy-ma-cật cho rằng bản chất sâu thẳm nhất trong con người
không phải là con người hữu ngã (con người cá nhân, ích kỷ) mà là con người
sống với tâm vô ngã, vị tha - “tâm thanh tịnh” vì như kinh nói: “tâm tịnh thì
quốc độ tịnh”. Tức là nếu tâm con người thanh tịnh, trong sạch, không bị
phiền não và luôn sống vì hạnh phúc của người khác thì dù hoàn cảnh nào con
người cũng tự tại và an lạc. Tâm vô ngã, vị tha hay tâm thanh tịnh chính là
chân tâm, Phật tính, tri kiến Phật (kinh Pháp hoa), nhà thiền nói là bản lai diệu
mục, hay của “báu trong nhà” theo cách nói của Trần Nhân Tông... Bằng cách
nào con người đạt được tâm thanh tịnh và nó có ý nghĩa như thế nào đối với
việc xây dựng một xã hội phát triển bền vững cũng là nội dung cốt lõi của
kinh Duy-ma-cật. Sẽ không thể hiểu hết con người nếu không xem Phật tính,
tâm vô ngã nơi con người là một đối tượng quan trọng cần khám phá.
Thứ tư, chúng tôi chọn đề tài này vì đây là bộ kinh thể hiện những giá
trị nhân sinh nhập thế, tích cực. Đạo Phật có phải là duy tâm, bi quan, lánh
đời hay không? Con đường giải thoát có phải là tiêu cực không? Kinh Duyma-cật phủ định điều này. Giá trị nhân sinh tích cực của kinh Duy-ma-cật thể
hiện trước hết ở chỗ, kinh cho rằng mỗi người đều có một bản tâm thanh tịnh.
Do vậy, mọi người đều có khả năng giải thoát bằng “sự chuyển hóa” của
chính mình mà không cần nhờ tới một đấng tối cao bên ngoài nào khác. Tính
tích cực, nhập thế trong kinh còn thể hiện ở con đường hành đạo của Bồ-tát.
Các vị Bồ-tát muốn xây dựng cõi “tịnh độ” (Phật quốc) phải hành Bồ-tát đạo
với hai mục tiêu: lợi mình và lợi người. Bồ-tát hành đạo để xây dựng một thế
giới “tịnh độ”, thế giới hạnh phúc ngay tại cõi nhân gian này. Bồ-tát ở đây

không phải chỉ là những người mang phẩm chất siêu nhiên, không phải chỉ là
những người xuất gia mà bất kỳ ai có ước nguyện được giải thoát (tìm niềm
an lạc, hạnh phúc) cho bản thân và cho người khác thì người đó cũng đang
hành Bồ-tát đạo. Người đó cũng là một Bồ-tát.

.

6


2. Tình hình nghiên cứu
Kinh Duy-ma-cật là kinh điển trọng yếu của Phật giáo Đại thừa. Nó
được lưu truyền từ Ấn Độ sang Trung Quốc, Tây Tạng, Mông Cổ, Triều Tiên,
Nhật Bản và Việt Nam.
Ở Ấn Độ, kinh Duy-ma-cật xuất hiện khoảng thế kỷ thứ II do vai trò
dẫn chứng trích dẫn của Luận sư Long Thọ (Nagarjuna, thế kỷ II-III). Trong
Ðại Trí Ðộ Luận (Mahaprajna-paramitopadesha), Long Thọ đã trích dẫn từ
kinh Duy-ma-cật và kinh Diệu Pháp Liên Hoa nhiều hơn những kinh điển
Đại thừa khác. Hiện nay kinh Duy-ma-cật không còn bản Phạn gốc. Ngày 30
tháng 6 năm 1999, bản Sanskrit và bản dịch tiếng Tây Tạng được phát hiện
ở thư viện của cung điện Potala, thủ phủ Lhasa, Tây Tạng, bởi giáo sư
Takahashi Hisao và chính thức được công bố tháng 3 năm 2004. Đây là bản
Phạn duy nhất có hiện nay. Tuy nhiên, niên đại sớm nhất được ghi dưới bản
Sankrit là (750-755) vẫn sau bản dịch của Huyền Trang đời Đường (603 678) khoảng trăm năm. Như vậy, đây chưa phải bản Phạn chuẩn để hiệu
chỉnh các bản dịch Hán.
Tại Trung Quốc, có các bản dịch từ Phạn sang Hán:
1) Phật thuyết Duy-ma-cật kinh, 2 quyển, (Q14, tr.519, Sh.474) do Ngô
Chi Kiêm dịch, đời nhà Ngô trong khoảng thời gian từ 223-253.
Từ thời Đông Tấn (317-420) đến thời Đường (618-907) và Tống (9601276), kinh Duy-ma-cật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với văn hóa Trung
Quốc. Trong "Quan âm và Duy ma trong văn học Trung Quốc", Tôn Xương

Vũ viết: "Tín ngưỡng Duy-ma-cật trước sau cơ bản xoay quanh bộ kinh mà
phát triển. Từ thời Đông Tấn đến thời Đường, các trường học miễn phí của
các tín đồ Phật giáo đã cấp cho bộ kinh này tạo nên rất nhiều chú giải, đến
mức khiến nó trở thành cuốn sách nhập môn nơi cửa Phật, tài liệu phổ cập
trong Phật giáo Đại thừa. Nhưng trong thế tục, mở đầu việc nghiên cứu một
.

7


cách nghiêm túc bộ kinh này là danh sĩ thời Đông Tấn. Đến thời kỳ Đường,
Tống, kinh Duy-ma-cật dường như lại trở thành sách đọc bắt buộc của tầng
lớp văn nhân, quan lại"[102, tr.13 ]. Từ thời Tấn đến Đường, có các bản dịch
kinh Duy-ma-cật sau:
2) Đời Tấn (265-420) việc dịch kinh của Trúc Pháp Hộ (đời Tây Tấn) có
vai trò đặc biệt quan trọng. Kinh Duy-ma-cật được ông dịch trong khoảng
niên hiệu Thái Thủy, Tấn Vũ đế (265), đến khoảng niên hiệu Vĩnh Gia năm
thứ hai đời Tấn Hoài đế (308) với tên là San Duy-ma-cật kinh, một quyển.
3) Dị Duy-ma-cật kinh (291), ba quyển, Trúc Pháp Lan dịch thời Tấn Huệ
4) Hiệp Duy-ma-cật kinh, năm quyển, Chi Mẫn Độ ( đời Tấn Huệ ) tập
hợp hai bản dịch của Trúc Pháp Hộ và Trúc Pháp Lan.
5) Duy-ma-cật sở thuyết kinh, ba quyển, (Q14, Tr.537, Sh.475), Cưu-mala-thập dịch, đời Diêu Tần (344- 413).
6) Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh, sáu quyển, (Q.14, Tr.557, Sh.476), Huyền
Trang, đời Đường (603-678).
Hiện nay trong Đại tạng kinh còn ba bản dịch của: Ngô Chi Khiêm,
Cưu-ma-la-thập và Huyền Trang. Trong đó bản do Cưu-ma-la-thập được
truyền bá rộng rãi nhất, với rất nhiều bản chú giải qua nhiều thế hệ khác nhau.
Trong Đại tạng kinh có các bản chú giải căn bản:
1) Chú Duy-Ma-Cật kinh, mười quyển, (Q.38, tr. 327, Sh.1775), Hậu Tần,
Tăng Triệu soạn.

2) Duy-ma nghĩa ký, tám quyển, (Q.38, Tr.421, Sh.1776), Tùy, Tuệ
Viễn soạn.
3) Duy-ma kinh huyền sớ, sáu quyển, (Q.38, Tr.519, Sh. 1777), Tùy,
Trí Khải soạn.
4) Duy-ma kinh lược sớ, mười quyển, (Q.38, Tr.562, Sh.1778), Đường,
Trí Khải thuyết, Trạm Nhiêm lược.

.

8


5) Duy-ma kinh lược sớ thùy dụ ký, mười quyển, (Q.38, Tr.711, Sh.1779),
Tống, Trí Viên thuật.
6) Tịnh Danh huyền luận, (Q.38, Tr. 853, Sh.1780), tám quyển, Tùy,
Cát Tạng tạo.
7) Tịnh Danh kinh quan trung thích sao (2 quyển), (Q.85, Tr. 501, Sh.
2778), Đường, Đạo Dịch soạn
8) Tịnh Danh kinh tập giải quan trung sớ (2 quyển) Đạo Dịch soạn
(Q.85, Tr. 440, Sh.2777), Đường
9) Duy-ma kinh nghĩa sớ, sáu quyển, (Q. 38, Tr. 908, Sh. 1781), Tùy,
Cát Tạng soạn.
10) Thuyết vô cấu xưng kinh sớ, mười hai quyển, (Q. 38, Tr. 993,
Sh.1782), Đường, Khuy Cơ soạn.
Như vậy, với các bản dịch và chú giải trên, kinh Duy-ma-cật có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với Phật giáo và các văn sĩ Trung Quốc. Nhà văn Lỗ
Tấn (1881-1936) nói về tầm quan trọng của kinh Duy-ma-cật như sau: “Các
nhân vật nổi tiếng từ đời Tấn đến nay, mỗi người có ba thú vui nhỏ, một là
Luận ngữ và Hiếu kinh, hai là Lão Tử, ba là Kinh Duy-ma-cật” [56, tr. 307]
Ngoài các bản dịch trên còn nhiều bản dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức

quan trọng khác được dịch từ các bản dịch Hán nêu trên. Đặc biệt là bản dịch
tiếng

Pháp

của

Étienne

Lamotte:

L'Enseignement

de

Vimalakīrti

(Vimalakīrtinirdeśa), Louvain, 1962.
Ở Nhật Bản, kinh Duy-ma-cật là một trong ba bản kinh bên cạnh kinh Pháp
Hoa và kinh Thắng Man mà Thánh Đức Thái Tử (Shotoku, 574 - 622) viết sớ
giải với tên là Duy-ma kinh nghĩa sớ, năm quyển, (Q. 56, Tr. 20, Sh. 2186).
Ở Việt Nam, hầu hết các đại sư danh tiếng khi phiên dịch từ tiếng Hán
sang tiếng Việt đều chọn bản dịch của Cưu-ma-la-thập. Có thể liệt kê một số
bản dịch và lược giải:
.

9


1) Tuệ Sỹ (dịch) (2008), Duy-ma-cật sở thuyết, Nxb. Phương Đông,

Tp. Hồ Chí Minh.
2) Tuệ Sỹ, Huyền thoại Duy-ma-cật (2008), Nxb Phương Đông, Tp. Hồ
Chí Minh.
3) Thích Huệ Hưng (dịch) (2009), Kinh Duy-ma-cật, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.
4) Thích Duy Lực dịch giải (1993), Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Nxb.
Tôn giáo, Hà Nội.
5) Thích Trí Quảng (1999), Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Thành Hội Phật Giáo
Tp. Hồ Chí Minh.
6) Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến (2006), Kinh Duy-ma-cật,
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
7) Thích Nhất Hạnh (2002), Bồ-tát tại gia, Bồ-tát xuất gia, kinh Duy-macật giảng luận, Nxb. Lá Bối.
8) Thích nữ Như Đức (2003), Thiền và thuật đối diện với cuộc đời,
Duy-ma hiện bệnh, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
Trong các bản dịch và chú giải trên, chúng tôi chủ yếu sử dụng bản
dịch Duy-ma-cật sở thuyết và cùng với bản dịch này là bản chú giải Huyền
thoại Duy-ma-cật của Tuệ Sỹ xuất bản năm 2008 để nghiên cứu. Tuệ Sỹ đã
tham khảo rất nhiều bản dịch và chú giải nổi tiếng: Tuệ Sỹ dịch từ bản Hán
của Cưu-ma-la-thập nhưng đối chiếu với hai bản Hán của Huyền Trang, Chi
Khiêm, bản dịch Tây Tạng, bản Sanskrit cũng như những bản chú giải căn
bản của Khuy Cơ, Tăng Triệu, Cát Tạng. Căn cứ vào tình hình biên dịch,
nghiên cứu kinh Duy-ma-cật ở Việt Nam, chúng tôi có nhận xét:
Các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu kinh Duy-ma-cật dưới góc độ
tiếp cận văn bản học, chú giải học. Chẳng hạn, căn cứ vào các bản Hán, các tác
giả dịch, chú giải những thuật ngữ quan trọng, chuyên ngành của Phật giáo.

.

10



Hoặc dưới góc độ tôn giáo học, các tác giả phân tích một số khái niệm, tư tưởng
trong Kinh Duy-ma-cật: pháp môn bất nhị, tâm tịnh thì quốc độ tịnh, thiền, xuất
gia, thuyết pháp, khất thực, bố thí… Qua đó, làm rõ được ý nghĩa, vai trò của
kinh Duy-ma-cật trong Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, cũng như thực
hành tu tập của cư sĩ và những người xuất gia theo đạo Phật.
Tuy nhiên, trong luận văn, chúng tôi tiếp cận kinh Duy-ma-cật dưới
góc độ lịch sử triết học nhằm làm rõ sự ra đời của tác phẩm cũng như vị trí
của kinh trong tiến trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Từ đó nghiên cứu
những vấn đề triết học cụ thể về thế giới quan, nhân sinh quan trong kinh
Duy-ma-cật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ một số tư tưởng triết học của kinh Duy-ma-cật.
- Nhiệm vụ:
+ Đặc điểm ra đời tác phẩm;
+ Vị trí, vai trò của kinh trong tiến trình phát triển tư tưởng Phật giáo;
+ Thế giới quan trong kinh Duy-ma-cật;
+ Nhân sinh quan trong kinh Duy-ma-cật;
+ Giá trị tư tưởng thế giới quan và nhân sinh quan trong kinh Duy-ma-cật.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở triết học hiện đại, lý luận Mác Lênin, ngoài ra còn kế thừa những thành tựu, kết quả nghiên cứu có giá trị về
triết học Phật giáo của các tác giả trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp: lôgich - lịch sử, phân tích - tổng hợp,
văn bản học và chú giải học.

.

11



5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Một số tư tưởng triết học trong kinh Duy-ma -cật
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Trong kinh Duy-ma-cật nhiều vấn đề triết học được đề cập đến: Thiền
trong kinh Duy-ma-cật, Tịnh độ, triết lý nhập thế, Duy thức tông, Hoa nghiêm
tông, Trung quán tông…Tuy nhiên, trong luận văn chúng tôi tập trung vào hai
nội dung chính: thế giới quan và nhân sinh quan.
+ Kinh Duy-ma-cật sở thuyết do Tuệ Sỹ dịch có 14 chương. Chúng tôi
nghiên cứu một số tư tưởng triết học trong tác phẩm nhưng tập trung vào các
chương I đến chương XII. Các chương XIII, XIV những vấn đề triết học
không chiếm ưu thế, chúng tôi không tập trung nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn xác định được đặc điểm ra đời của kinh Duy-ma-cật cũng
như các kinh điển Đại thừa nói chung.
- Luận văn xác định vị trí của kinh Duy-ma-cật trong tiến trình phát
triển Phật giáo. Ý nghĩa của kinh trong việc phá chấp Tiểu thừa cũng như vị
trí của nó trong tư tưởng Đại thừa.
- Luận văn khẳng định được tính có giá trị của phép biện chứng trong tư tưởng
thế giới quan của kinh Duy-ma-cật. Đặc biệt, tính biện chứng này phù hợp với những
nghiên cứu của khoa học hiện đại.
- Luận văn khẳng định cơ sở, nguồn gốc tư tưởng nhân văn, tích cực của Phật
giáo nói chung và kinh Duy-ma-cật nói riêng.
- Luận văn so sánh một số tương đồng giữa những vấn đề triết học trong kinh
Duy-ma-cật với một số tư tưởng triết học phương Đông và phương Tây.
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề nhân sinh quan, luận văn đưa ra một số
định hướng phương pháp luận để xây dựng một xã hội phát triển bền vững.

.


12


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Qua luận văn, một số quan niệm về triết học Phật giáo được nhìn nhận
một cách đúng đắn, biện chứng và tích cực hơn.
- Đây sẽ là tài liệu tham khảo cho những người muốn học và nghiên
cứu về phật giáo.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết, 9 tiểu tiết.

.

13


Chương 1:
KINH DUY-MA-CẬT VÀ VỊ TRÍ CỦA NÓ TRONG
TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO
1.1. Khái quát về kinh Duy-ma-cật
1.1.1 Đặc điểm ra đời tác phẩm
Để xác định bối cảnh lịch sử cụ thể, trực tiếp ra đời kinh Duy-ma-cật
là công việc khó khăn vì sự khan hiếm về nguồn tài liệu. Trong suốt 49 năm
thuyết giáo, phương pháp truyền đạo được đức Phật sử dụng là phương pháp
truyền khẩu. Sau Phật nhập diệt bảy ngày, đại hội kết tập kinh điển lần thứ
nhất (khoảng 544 TCN) tại Vương Xá ( Lajagrha), do Ca Diếp triệu tập cũng
tiến hành dưới hình thức hợp tụng (Samghiti). Sau Phật nhập diệt khoảng 100
năm, đại hội kết tập lần thứ hai (khoảng 444 TCN) tại Tỳ Xá Ly (Vaisali)

cũng được tiến hành bằng phương thức tương tự. Đại hội kết tập lần thứ ba ở
Hoa Thị ( Pataliputta) do vua A Dục (Asoka, 268-226 TCN) triệu tập (khoảng
250 TCN), lần đầu tiên tam tạng được biên soạn thành văn bản. Còn các bản
Hán dịch được biên dịch muộn hơn so với thánh điển Pali. Như vậy, khoảng
thế kỷ III TCN, tam tạng Phật giáo được soạn thành văn bản (bằng chữ Pali
và tiếng Sanskrit). Trước đó chủ yếu dùng phương pháp truyền khẩu. Hơn
nữa, Phật giáo Ấn Độ cũng có những giai đoạn bị suy tàn và vắng bóng một
thời gian dài do chiến tranh và sự xâm nhập của Hồi giáo (Phật giáo bắt đầu
suy tàn ở Ấn Độ từ thế kỷ VII và thế kỷ XII thì hình như biến mất). Chính vì
những lý do này nên khó có thể xác định bối cảnh lịch sử cụ thể về sự xuất
hiện của kinh Duy-ma-cật.
Khi các nhà Phật học nghiên cứu kinh Duy-ma-cật đưa ra những câu hỏi:
Hội đồng phiên dịch kinh Duy-ma-cật ở Ấn Độ bằng khẩu truyền và văn bản
gồm những ai và sự kiện ấy xảy ra lúc nào, do ai chủ xướng? Thời gian chính

.

14


xác xuất hiện kinh vào thời gian nào? Những câu hỏi đến nay đều chưa có câu
trả lời chính xác. Do vậy, chúng tôi xác định gián tiếp bối cảnh ra đời kinh
Duy-ma-cật thông qua bối cảnh xuất hiện Phật giáo Đại thừa.
Từ khi Phật giáo xuất hiện (khoảng thế kỷ VI TCN) cho đến nay, Phật
giáo không ngừng biến đổi và phát triển tại Ấn Độ và các nước khác trên thế
giới. Lịch sử Phật giáo có thể được chia làm ba thời kỳ: Phật giáo nguyên
thủy, Phật giáo bộ phái và Phật giáo Đại thừa. Tuy chia ba thời kỳ nhưng Phật
giáo là một thể thống nhất vì “cả ba phần căn bản, Tiểu thừa, Đại thừa có biểu
lí và bổ sung cho nhau thì mới là cái cây Phật giáo hoàn toàn” [75, tr.13].
Kinh Duy-ma-cật thuộc thời kỳ Phật giáo Đại thừa.

Thời kỳ Phật giáo nguyên thủy (khoảng giữa thế kỷ VI – V TCN) là giai
đoạn từ khi Phật sáng lập đạo Phật đến khoảng sau một trăm năm Phật nhập
Niết-bàn. Kinh điển thời nguyên thủy là kinh Nikàya, Pàli và A-hàm Hán
tạng. Đây là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy trong suốt
49 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi,
Vô ngã ... Các nhà nghiên cứu Phật học, các sử gia đều coi kinh tạng Nguyên
thủy là tài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức
Phật tuyên thuyết: “A-hàm bộ và luật bộ là những kinh điển gần với chân
tướng của Phật giáo nguyên thủy nhất” [75, Tr. 20]. Và cũng từ kinh điển
nguyên thủy “mà khảo sát cái nguồn gốc của tư tưởng đời sau, nhất là tư
tưởng Đại thừa.” [75, Tr. 24].
Sau Phật nhập diệt, các vị tu hành trưởng lão qua đời, phạm vi giáo hội
được mở rộng nhưng thiếu một cơ quan lãnh đạo thống nhất nên dẫn tới sự
tranh luận về giáo lý Đức Phật. Sự tranh luận này được thể hiện rõ nhất thuyết
“thập sự phi pháp” [5, tr. 54-55] và thuyết “ngũ sự” [76, Tr. 103]. Đây cũng là
nguyên nhân trực tiếp dẫn tới Phật giáo phân chia thành các bộ phái.

.

15


Sau 100 năm Đức Phật nhập diệt (thế kỷ V – II TCN), Phật giáo chia
thành hai bộ phái là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, từ hai bộ phái chính này
tiếp tục phân thành mười tám bộ (hoặc hai mươi bộ). Đặc trưng của Phật giáo
bộ phái là kết quả của tranh luận học thuật nên mang tính chất “tu viện”, làm
hạn chế tính thực tiễn, nhân sinh của Phật giáo: “Đến thời đại Bộ phái Phật
giáo, tổ chức Phật giáo đã khá hoàn bị. Những kinh điển căn bản và sự giải
thích về giáo nghĩa đã được xác định, rồi đến những quy định của giáo đoàn
cũng mỗi ngày mỗi trở nên tinh vi cho nên không bao lâu cái tinh thần hoạt

bát của Phật giáo nguyên thủy cũng đã phai mờ dần, và cuối cùng đối với
lòng người, Phật giáo không có được sự tiếp xúc chặt chẽ” [77, Tr. 50]. Khi
vua A Dục (Asoka) lên ngôi, vua ra sức ủng hộ Phật giáo nên đạo Phật lúc
bấy giờ hưng thịnh, làm rạng rỡ thêm cho lịch sử văn hóa Ấn Độ. Nhưng
trong nội bộ Phật giáo lại phân chia thành nhiều bộ phái, sự giải thích về giáo
lý Đức Phật có nhiều quan điểm bất đồng. Kết quả là Phật giáo bộ phái tuy đã
được chỉnh lý rất nhiều nhưng không thực sự đến được với quảng đại quần
chúng và “khoảng trước hay sau kỷ nguyên Tây lịch, thì bộ phái Phật giáo đã
đến một trạng thái đường cùng” [77, Tr. 51].
Như vậy, đến thời kỳ bộ phái, Phật giáo mang tính chất tranh luận học
thuật. Giáo lý không đến được với quảng đại quần chúng mà chỉ tập trung ở
những người xuất gia chuyên tâm tu học nghiên cứu. Hơn nữa, những người
xuất gia, chuyên tâm tu tập để mong giải thoát cho cá nhân. Do vậy, sự đóng
góp của nó đối với thực tiễn xã hội bị hạn chế. Phật giáo Đại thừa xuất hiện
trong bối cảnh đó nhằm làm sống lại giáo lý của Đức Phật. Đại thừa là một
khuynh hướng hiện đại hóa ngay trong nội bộ giáo lý Phật giáo. Tuy tinh thần
Đại thừa có gốc rễ từ Phật giáo nguyên thủy nhưng hưng khởi và thành phong
trào tư tưởng khoảng thế kỷ I trước hoặc sau công nguyên và đến thế kỷ II

.

16


được hình thành rõ nét cùng với sự xuất hiện của các nhà tư tưởng Đại thừa
cũng như các kinh điển Đại thừa trong đó có kinh Duy-ma-cật.
Mã Minh (Asvaghosa- thế kỷ II) được xem là sơ tổ của Đại thừa,
nhưng người đầu tiên đặt tiền đề căn bản cho cả phong trào Đại thừa là Long
Thọ (Nagarjuna, khoảng cuối thế kỷ II-III, sau Phật nhập diệt khoảng 700
năm). Kinh điển Phật giáo Đại thừa tuy được thành lập trước Long Thọ nhưng

về chân ý nghĩa của Phật giáo Đại thừa được tổ chức thành hệ thống là nhờ
vai trò của Long Thọ. Ông có nhiều tác phẩm, nhưng đặc biệt trong Đại trí độ
luận

(Mahaprajnaparamitasutra)



Thập

trụ

tỳ



sa

luận

(Dásabhùmikavibhàsà), ông đã dẫn chứng nhiều các kinh điển Đại thừa đã có
trước đó. Các nhà nghiên cứu Phật học như Kimurataiken [76, Tr. 58], pháp
sư Thánh Nghiêm, Pháp sư Tịnh Hải [49, Tr. 152] và hòa thượng Thích
Thanh Kiểm [41, Tr. 196] căn cứ vào vai trò của Long Thọ đối với sự xuất hiện
Đại thừa cũng như sự trích dẫn các kinh điển Đại thừa của ông đều thống nhất
cho rằng kinh Duy-ma-cật xuất hiện trước thời đại Long Thọ (trước thế kỷ II).
Kinh xuất hiện vào khoảng trước thế kỷ thứ II, vậy nó xuất hiện cùng thời Đức
Phật hay được thiết kế bởi phong trào Đại thừa sau này? Nhân vật Duy-ma-cật
là nhân vật có thật thời Đức Phật hay là nhân vật xuất hiện cùng với sự xuất
hiện phong trào Đại thừa? Nếu xuất hiện trong phong trào Đại thừa, ông là

nhân vật có thật hay chỉ là một hiện thân tưởng tượng của lý tưởng cư sĩ do tín
đồ Ðại thừa tạo ra?... Về những câu hỏi này có các quan điểm:
Thứ nhất, căn cứ vào những gì được ghi chép trong kinh, Kinh Duyma-cật xuất hiện thời Đức Phật, trước thời kỳ Phật giáo Đại thừa và kinh do
Phật thuyết, ông Duy-ma-cật là đệ tử tại gia của Đức Phật. Ông là trưởng giả
thành Tỳ-da-li. Hơn nữa, theo sự ghi chép của các nhà nghiên cứu Phật học
đời Đường như Huyền Trang (602-664) và Khuy Cơ thì hai ông đã từng đến
nước Phệ xá ly (Tì da li) thấy vẫn còn những di tích như được ghi trong kinh:

.

17


căn nhà của Duy-ma-cật, nhà trưởng giả Bảo Tích, chỗ Phật thuyết pháp.
Huyền Trang ghi: “Đến Phệ xá ly (Tì da li)... Tây bắc cung thành cách năm
sáu dặm có 1 già lam, cạnh già lam có 1 ngôi tháp, đó là chỗ xưa Phật nói
kinh Tì ma la cật (Kinh Duy-ma-cật). Đông bắc cách ba bốn dặm có 1 ngôi
tháp, đó là nhà cũ của Tì ma la cật. Nhà này hãy còn nhiều sự linh dị. Cách đó
không xa, có 1 phòng chất đá làm ra, đó là chỗ Tì ma la cật hiện bịnh thuyết
pháp. Bên cạnh có nhà cũ của Bảo tích, nhà cũ của Yêm ma la nữ” [Xem tài
liệu 53]. Đại sư Thái Hư (1889-1947) cũng cho rằng ở đời Đường có Vương
Huyền Sách từng đến Ấn độ. Bấy giờ nhà của Duy-ma-cật vẫn còn. Ông cũng
nghiên cứu các kinh khác như kinh Nguyệt thượng nữ chép “ngài Duy ma họ
Lôi, vợ là Kim Cơ, con trai là Thiện tư, con gái là Nguyệt thượng. Vậy ngài
Duy ma là người thật đời Phật” [Xem tài liệu 53].
Như vậy, căn cứ vào những ghi chép trong kinh và căn cứ vào sự ghi
chép của các nhà nghiên cứu Phật học như Huyền Trang, Khuy Cơ và Đại sư
Thái Hư, kinh Duy-ma-cật do Phật thuyết và nhân vật Duy-ma-cật là nhân vật
sống cùng thời với Đức Phật. Trong kinh ghi ông là vị trưởng giả sống trong
thành Tỳ-da-ly. Theo quan điểm này, phái Thiên Thai tông cũng cho rằng

kinh Duy-ma-cật thuộc thời Phương đẳng (Vaipulia), tức thời thứ ba trong
năm thời thuyết pháp của đức Phật [72, tr. 198]. Đây là thời kỳ Phật muốn
nâng các đệ tử từ Tiểu thừa (tu tập theo hạnh Thanh Văn) lên Đại thừa (theo
hạnh Bồ-tát).
Thứ hai, kinh Duy-ma-cật không phải là Phật thuyết. Nó xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của phong trào Đại thừa và nhân vật Duy-ma-cật có thể chỉ là
hiện thân tưởng tượng để biểu trưng cho lý tưởng Bồ-tát đạo của Đại thừa.
Giáo sư Phật học người Nhật Daisaku Ikeda (1928) cho rằng „„chúng ta không
có gì rõ ràng ngoài bản kinh để có thể xác định sự hiện hữu của Duy-ma-cật”
[Xem tài liệu 38]. Ông cho rằng tuy Huyền Trang có tới thành phố Tỳ Xá Ly

.

18


của Ấn Ðộ vào thế kỷ VII và thấy ngôi nhà của Duy-ma-cật nhưng chưa đủ để
chứng minh Duy-ma-cật là người có thật vì rất nhiều nhân vật chỉ có trong
văn chương hay huyền thoại cũng được gán cho nơi sinh, chỗ ở. Tuy vậy, ông
cũng không phủ nhận Duy-ma-cật là người có thật cũng giống như trường
hợp trước kia các học giả phương Tây đã phủ nhận sự xuất hiện trong lịch sử
Phật Thích Ca và vua A Dục cho đến khi các nhà khảo cổ chứng minh được
đó là những nhân vật lịch sử có thật.
Thứ ba, nhân vật Duy-ma-cật là nhân vật lịch sử có thật và cũng chính
là tác giả của kinh (kinh có tên đầy đủ là Duy-ma-cật sở thuyết). Ông Duyma-cật cũng như kinh Duy-ma-cật xuất hiện cùng với sự xuất hiện của phong
trào Đại thừa. Sự xuất hiện của Phật giáo Đại thừa như chúng tôi đã phân tích
là một tất yếu lịch sử. Sự phát triển của Phật giáo không tách khỏi sự phát
triển chung của xã hội. Tính chất tu viện, xa rời thực tế của các nhà Phật giáo
tiền Đại thừa không thích ứng được nhu cầu của thời đại, cần phải có một hệ
tư tưởng nhập thế hơn. Như vậy, sự xuất hiện của kinh Duy-ma-cật cũng như

nhân vật Duy-ma-cật là một tất yếu lịch sử. Do vậy, Tuệ Sỹ cho rằng “trong
một thời kỳ nhất định tất yếu xuất hiện một nhân vật hiện thực như vậy để
làm sáng tỏ khát vọng vĩnh cửu của con người, thúc đẩy lịch sử chuyển hướng
sang một giai đoạn mới; và đã có nhiều nhân vật lịch sử như vậy, cho nên
hình ảnh Vimalakirt (Duy-ma-cật) hiện thực được hóa thân thành nhân vật
huyền thoại. Nói cách khác, từ một con người hiện thực, Vimalakirti trở thành
biểu tượng cho tác nhân lịch sử” [69, Tr. 31].
Căn cứ vào kinh điển nguyên thủy thì không thấy ghi kinh Duy-ma-cật
và phải đến khoảng khoảng thế kỷ II mới xuất hiện nhờ vai trò chú giải, dẫn
chứng của Long Thọ cũng như các nhà dịch giả Trung Quốc. Kimura Taiken
cho rằng: “Nam phương Phật giáo, tức dùng kinh điển bằng văn Pali không
thấy ghi chép tên một cuốn kinh Đại thừa nào, không những thế mà ngay cả

.

19


trong các bản Hán dịch của A-hàm bộ cũng không thấy chép” [75, Tr. 20]. Do
vậy, có quan niệm (của các nhà Tiểu thừa) cho rằng kinh Duy-ma-cật cũng như
các kinh điển Đại thừa là “phi Phật thuyết”. Nhưng điều này cũng chưa thể
khẳng định kinh Duy-ma-cật không phải do Phật thuyết vì nếu bảo “Đại thừa
phi Phật thuyết thì ngoài một bậc Đại giác “cùng tận chúng sinh nghiệp tính”
ra, ai có được những tư tưởng siêu việt như tư tưởng trong các kinh Đại thừa?...
Thế giới quan “trùng trùng duyên khởi” một kiến trúc vĩ đại, trong Hoa
Nghiêm, thế giới quan “không” của Bát nhã, tư tưởng “chư pháp thực tướng”
trong Pháp hoa, tư tưởng “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kim cương…
tất cả những tư tưởng mênh mông, bao la và thăm thẳm ấy đều đã bắt nguồn từ
tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy.” [75, Tr. 15]. Như vậy, nội dung tư tưởng
của kinh Duy-ma-cật như lấy tâm làm chủ, tư tưởng duyên sinh, trung đạo, bất

nhị,... đều dựa trên nền tảng tư tưởng Phật giáo nguyên thủy. Do vậy, cũng
chưa có lý do để khẳng định kinh Duy-ma-cật không phải do Phật thuyết.
Theo chúng tôi, kinh Duy-ma-cật có thể do Phật thuyết vì nội dung của
nó mang đầy đủ những nội dung của tư tưởng nguyên thủy. Ông Duy-ma-cật
sống cùng thời với Đức Phật và là nhân vật chính của kinh. Nhưng sự khó
khăn về nguồn tài liệu nên khó có thể chứng minh được điều này. Do vậy,
kinh cũng có thể không phải do Phật thuyết mà là tác phẩm do một bậc “đại
giác” (ông Duy-ma-cật hay một nhà vận động Đại thừa) xây dựng trong
phong trào Đại thừa. Theo quan điểm này, tuy không phải do Phật thuyết
nhưng không thể phủ nhận đây là một kinh điển của Phật giáo. Phật giáo là
một cơ thể sống không thể được hoàn thiện ngay từ thời nguyên thủy. Muốn
hiểu Phật giáo phải đi vào sinh hoạt thực tiễn của nó. Do vậy, lịch sử Phật
giáo trở thành “lịch sử tâm chứng cá nhân” [65, Tr. 55]. Tất cả những học
phái, chủ thuyết, luận giải về giáo lý của Phật xuất hiện sau ngày Phật diệt độ
đều tạo thành cơ thể Phật giáo hoàn chỉnh. Phật giáo muốn phát triển thì phải

.

20


luôn biến đổi để phù hợp với sự thay đổi của xã hội, phù hợp với sự hiểu biết
của mỗi thời đại. Đó là quy luật phát triển của Phật giáo cũng như bất kỳ hệ tư
tưởng nào. Do vậy, kinh Duy-ma-cật do Phật thuyết hay không đó là vấn đề
của lịch sử và khảo cổ. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ tìm hiểu tư
tưởng triết học của kinh Duy-ma-cật. Quan trọng đây là một bộ kinh Phật giáo
chứa đựng những tư tưởng biện chứng và giá trị thực tiễn nhân sinh sâu sắc.
1.1.2 Tóm tắt nội dung tác phẩm
Kinh Duy-ma-cật nguyên âm tiếng Phạn là Vimalakirtinirdesa (Tỳ-mala-cật-lị-đế), trong đó: "Vimala" là vô cấu, trắng, trong sạch, "Kirti" là danh
(tên), "Nirdesa", dịch là sở thuyết, Vimalakrti dịch là Tịnh Danh, Vô Cấu

Xưng hoặc diệt cấu minh đều có nghĩa chung là sự trong sạch, không vấy bẩn,
danh tiếng tốt đẹp được truyền khắp thiên hạ. Duy-ma-cật, Tịnh Danh, Vô cấu
xưng... vừa chỉ tên một con người có thật xuất hiện trong giai đoạn Đại thừa
nhưng đồng thời vừa biểu trưng cho “một đức tính hay một giá trị phổ quát
được nhân cách hóa từ lý tưởng Bồ-tát đạo của Đại thừa‟‟[69, Tr. 32]. Như
vậy, kinh Vimalakirti-nirdesa, La-thập dịch là “Duy-ma-cật sở thuyết‟‟,
Huyền Trang dịch là “Thuyết Vô Cấu Xưng‟‟ có thể được hiểu theo hai nghĩa:
thứ nhất, đó là tác phẩm ghi những trần thuật của cư sỹ Duy-ma-cật - một
nhân vật lịch sử sáng chói nhất trong phong trào vận động Đại thừa. Thứ hai,
đó là tập hợp của học thuyết về sự giải thoát “bất tư nghị‟‟- giải thoát ngay
trong thế giới trần tục, ngay giữa dòng đời ô nhiễm (kinh còn có tên là Bất tư
nghị giải thoát). Đó là sự giải thoát mang tinh thần nhập thế của Đại thừa.
Theo bản dịch của Tuệ Sỹ, tác phẩm gồm mười bốn chương, nội dung cụ thể
của các chương như sau:
Chương I: Quốc độ Phật (Cõi nước Phật)
Chương này có hai phần chính: phần tổng quát - chung cho các kinh
điển Đại thừa, giới thiệu hoàn cảnh thuyết kinh. Phần cá biệt, giới thiệu nội

.

21


dung chủ yếu của kinh. Kinh mở đầu với tiêu đề “Quốc độ Phật” đã nêu rõ nội
dung chủ yếu của kinh: bằng những điều kiện gì, bằng những phương tiện gì,
để kiến thiết một thế giới thanh tịnh, trang nghiêm, hạnh phúc - bằng tâm
thanh tịnh.
Sự kiện xảy ra tại vườn Am-la trong thành Vaisali (Tỳ-da-ly), nơi Phật
Thích Ca thuyết pháp cùng pháp hội với rất nhiều Thanh Văn, Bồ-tát và chư
Thiên đến tham dự. Trong đó, đặc biệt các vị Bồ-tát được miêu tả rất rõ:

“hoàn toàn thanh tịnh; vĩnh viễn lìa các cái và triền; tâm thường an trụ nơi
giải thoát không còn các chướng ngại; có niệm, định, tổng trì, biện tài không
gián đoạn; bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, định và tuệ, cùng khả năng của
phương tiện... „ [69, Tr. 57]. Sau đó, trong pháp hội có thanh niên trẻ Bảo
Tích cùng với 500 thanh niên khác thuộc dòng tộc Li-thiếp-tì ca ngợi Phật qua
một bài kệ và xin hỏi Phật về đặc tính của cõi Phật thanh tịnh. Phật trả lời
muốn có một quốc độ thanh tịnh thì tâm phải thanh tịnh: “Nếu muốn làm
thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ
tịnh” [69, Tr. 82]. Bồ-tát muốn tâm thanh tịnh phải thực hiện hai công việc:
trên cầu Phật đạo (tự giác ngộ), dưới hóa độ chúng sinh (giúp chúng sinh giác
ngộ). Tâm của Bồ-tát thực sự thanh tịnh khi tất cả chúng sinh được hạnh
phúc: “loại của chúng sinh là quốc độ Phật của Bồ-tát... vì Bồ-tát tùy theo loại
chúng sinh được giáo hóa mà tiếp nhận quốc độ Phật… Bồ-tát tiếp nhận quốc
độ thanh tịnh chỉ vì lợi ích chúng sinh.” [69, Tr. 75]. Sau đó, Xá-lợi-phất (là
đại đệ tử của Phật) nghi ngờ sao tâm của Phật thanh tịnh mà thế giới này
không thanh tịnh. Phật cho rằng thế giới này vốn thanh tịnh nhưng do có tâm
phân biệt, chấp trước mà không thấy thế giới thanh tịnh: “do bởi tội của
chúng sinh nên không thấy vẻ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ Phật” [69,
Tr. 82]. Cùng một thế giới, cùng một hoàn cảnh nhưng mỗi người có cách

.

22


nhìn khác nhau, do vậy, mỗi người có một thế giới. Điều này phụ thuộc vào
tâm của người ấy như thế nào.
Chương II: Phương tiện quyền xảo
Phương tiện quyền xảo được hiểu là trí năng nhạy bén để tiếp cận vấn
đề, hay vận dụng linh hoạt các phương pháp để đạt được mục đích. Nội dung

của chương này nói về nhân vật chính của kinh là ông Duy-ma-cật. Cư sỹ,
Bồ-tát Duy-ma-cật là người: “đã từ lâu tâm của ông đã thành thục trong Phật
đạo, đã quyết định nơi Đại thừa. Mọi hành động của ông đều dựa trên tư duy
chân chính. An trú trong oai nghi của Phật, tâm trải rộng như đại dương‟‟ [69,
Tr. 88-89]. Hình ảnh của ông được diễn tả thông qua những phương tiện thiện
xảo ông vận dụng để làm lợi ích cho mọi người. Bằng phương tiện, ông là
một trưởng giả cư trú ở thành Tỳ-da-ly ở Ấn Ðộ để làm lợi ích chúng sinh.
Duy-ma-cật sống đời sống của một cư sĩ trọn vẹn và không ràng buộc: tuy là
người cư sĩ tại gia mà giữ gìn sự thanh tịnh của người xuất gia; Tuy có vợ con
nhưng vẫn thường tu hạnh thanh tịnh. Tuy sống giữa thân bằng quyến thuộc
nhưng không có những sợi dây ràng buộc…
Ông cũng bằng phương tiện hiện thân có bệnh để thuyết giáo. Những
nhân vật quan trọng trong thành phố Quảng Nghiêm đều đến thăm ông và
nhân đó, ông giảng thuyết cho họ về bản chất vô thường của tồn tại người.
Ông khuyên mọi người nên cầu thân Phật “để chấm dứt hết thảy tật bệnh” và
thân Phật cũng là thân xác thịt, thân vật lý này nhưng được sinh ra từ từ, bi,
hỷ, xả, bố thí, trì giới, trí tuệ…
Chương III: Chúng đệ tử và chương IV: Bồ-tát
Tiếp theo, ông Duy-ma-cật suy tư tại sao Phật không cho ai đến hỏi
bệnh an ủi ông. Phật đang thuyết pháp tại vườn Am-la trong thành Tỳ-da-ly
biết ý của ông, lần lượt yêu cầu mười đại đệ tử xuất sắc nhất đến thăm bệnh
Duy-ma-cật: Xá-lợi-phất (người thông minh nhất), đại Mục-kiền-liên (người

.

23


thần thông nhất), Ma-ha-ca-diếp (tinh tiến nhất), Tu-bồ-đề (giải nghĩa không
đệ nhất), Phú-lâu-na (thuyết pháp đệ nhất), Ca-chiên-diên (khả năng luận nghị

đệ nhất), A-na-luật (thiên nhãn đệ nhất), Ưu-ba-li (trì luật đệ nhất), La-hầu-la
(tu khổ hạnh đệ nhất) và A-nan-đà (học rộng nhất). Tuy nhiên, tất cả những vị
này đều từ chối đi thăm bệnh ông. Vì mỗi người trước đây đã từng bị ông phê
phán một vấn đề. Phương pháp ngồi thiền của Xá-lợi-phất, cách giảng pháp
của Mục-kiền-liên, Phú-lâu-na và Ưu-ba-li, việc đi khất thực của Ma-ha-cadiếp và Tu-bồ-đề, cũng như sự giải thích về “cái thấy” của A-na-luật, ý nghĩa
xuất gia của La-hầu-la và A-nan cho rằng Đức Phật có bệnh đều bị ông Duyma-cật chỉ ra hạn chế, có giới hạn.
Tương tự như các vị Thanh Văn, quan niệm về sự thọ ký của Bồ-tát Dilặc, quan niệm về đạo tràng của Bồ-tát Quang Nghiêm Đồng Tử, sự nhầm lẫn
giữa ma và Đế Thích của Bồ-tát Trì Thế và quan niệm về bố thí của Bồ-tát
Thiện Đức (Chương IV) đều bị ông Duy-ma-cật phê phán. Tất cả các vị
Thanh Văn và Bồ-tát đều không đủ khả năng với tài biện luận và trí tuệ “siêu
việt” của vị cư sĩ này nên không ai dám đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.
Chương V: Văn-thù-sư-lợi thăm bệnh
Mười vị Thanh Văn và bốn vị Bồ-tát ở chương III và IV đều không dám
đến thăm ông Duy-ma-cật, duy có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thăm. Trong
chương V, khung cảnh được chuyển về nhà cư sĩ Duy-ma-cật. Nơi đây, cuộc
đàm thoại giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật bắt đầu. Rất nhiều Bồ-tát, thiên,
nhân và các chúng sinh khác đến nghe cuộc đàm thoại giữa hai người. Các đề
tài được đàm luận ở đây là: tính không, sự phân tích sâu sắc về bệnh của Duyma-cật và lĩnh vực hoạt động của một Bồ-tát.
Chương VI: Bất tư nghị
Những gì siêu vượt tri thức thường ngày, siêu vượt khả năng suy lý, tư
duy của năng lực trí tuệ được gọi là “bất tư nghị”. Xá-lợi-phất cũng ở trong

.

24


pháp hội nhà ông Duy-ma-cật suy nghĩ pháp hội lớn như thế làm sao có chỗ
ngồi trong căn phòng nhỏ. Duy-ma-cật biết ý khuyên Xá-lợi-phất không nên
tìm chỗ ngồi mà phát tâm cầu pháp, sau đó ông giải thích ý nghĩa của việc cầu

pháp: “cầu pháp là không sở cầu đối với tất cả các pháp” [69, Tr. 174].
Tiếp theo, Duy-ma-cật nói với Văn-thù-sư-lợi, Xá-lợi-phất và đại
chúng về pháp môn giải thoát được gọi là “Bất khả tư nghị”. Trong chương
này xuất hiện rất nhiều hình ảnh siêu việt để diễn tả pháp môn bất khả tư
nghị: căn phòng nhỏ của ông Duy-ma-cật chứa 32.000 tòa sư tử to lớn, ngọn
núi Tu-di có thể đặt trong hạt cải, nước bốn đại dương chứa trong một lỗ chân
lông, đặt ba nghìn đại thiên thế giới trong lòng bàn tay, thời gian bảy ngày có
thể kéo dài thành một kiếp…
Chương VII: Quán chúng sinh
Cuộc đàm luận giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối.
Chương này chia làm hai phần: phần thứ nhất, từ đầu đến chỗ xuất hiện thiên
nữ; phần hai, từ cuộc đối thoại giữa Thiên nữ và Xá-lợi-phất đến hết. Phần
thứ nhất nói về cuộc đối thoại giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật. Văn-thù
hỏi Duy-ma-cật nên quán chúng sinh như thế nào? Làm sao để hành từ, bi, hỷ,
xả và khi kinh sợ sinh tử, Bồ-tát nên nương tựa vào đâu? Duy-ma-cật cho
rằng phải quán chúng sinh như trăng dưới nước, như mặt mình trong gương,
như dấu chân chim trong hư không… Tức là quán chúng sinh “có” nhưng
“không thực có”. Khi quán như vậy, Bồ-tát bằng tinh thần vô ngã, vị tha để
hành từ, bi, hỷ, xả đem lại hạnh phúc cho chúng sinh. Khi kinh sợ sinh tử, Bồtát phải dựa trên nền tảng tư tưởng vô trụ.
Cuộc đối thoại giữa Văn-thù và Duy-ma-cật kết thúc bằng câu nói của
Duy-ma-cật “từ gốc vô trụ này mà các pháp được kiến lập”. Tiếp nối tư tưởng
vô trụ này, xuất hiện hình ảnh thiên nữ tán hoa lên các vị Thanh Văn và Bồtát. Các Thanh Văn trong đó có Xá-lợi-phất phủi hoa đi còn các Bồ-tát thì

.

25


×