Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM dưới TRIỀU MINH MẠNG (1820 1840)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.12 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUỒNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

Ket-noi.com chia se
LÊ THỊ KIM DUNG

NGOẠI THUVNG VIỆT NAM


m

DƯỚI TRIỀU HIINH MẠNG (1820 -1840)
CHUYÊN NGÀNH : LỊCH s ứ ViỆT NAM
MÃ SỐ: 5.03.15

LUẬN
VĂN THẠC
s ĩ KHOA HỌC
LỊCH
sử
t
#



Người hướng dẫn khoa học
PGS.PTS NGUYỄN THỪA HỶ

HÀ NỘI - 1998



Ket-noi.com chia se
MỤC LỤC

M ỗ đ ầ u ................................................................................................................... I
Chương 1. Cơ sở hình thành chính sách ngoại thương triều
Minh M ạn g<1820 - 1840) ................................................................................ 12
1 Đường lối ngoại thương truyền thống qua các triều đại
phong kiến ị rước Nguyỗn .................................................................................. 12
2. Cơ sở kinh tế - xã hội nửa đầu thế kỷ XIX .........................................17
3. Bối cảnh thế giới và khu vực những thập kỷ đầu thê kỷ XIX .... 21
4. Vài nét về hoàng đế Minh Mạng ........................................................... 24
5. Tiểu kết ...................................................................................................... 28
Chương 2. Ngoại thương Việt Nam dưới triều Minh Mạng
(1820-1840).................................................................................................. ........ 30
1. Các cơ quan quản lý ngành ngoại thương ..........................................30
2. Thuế ngoại thương ...................................................................................33
3. Thái độ của Nhà nước đối với tầu thuyền và
thương nhân các nước phương Đ ô n g.............................................................. 53
4. Thái độ của Nhà nước đối với tàu thuyền và
thương nhân các nước phương T â y .....................................................................59
5. Tổ chức các cuộc cổng cấn ở nước n goài............................................70
6. Tiểu kếỉ ....................................................................................................... 79
Chương 3. Vai í rò và tác động của ngoại thương
dưới triều Minh Mạng ( ỉ 820 - 18 4 0 ) ............................................................... 80
1. Nhận định chung về ngoại thương...... .................................................. 80
2. Vai trò và tấc động của ngoại thương.................................................. 88
3. Tiểu k ế t .........................................................................................................95



Ket-noi.com chia se
Kết lu ậ n .............................................. ..................... ........................................... 97
Phụ l ụ c ......... ........................................................................................................ 103
1. Ảnh Minh M ạng..................................................................................... 104
2. Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn của Taberd...................................... 105
3. Bản đồ lộ trình của phái bộ Phan Huy C h ứ .................................... 106
4. Bảng thuế dưới triều Minh Mạng năm 1827 và 1831 ................... 108
5. Các loại hàng hoá xuất nhập cảng trong nửa đầu thế kỷ XIX .... 110
6. Bảng thống kê tầu thuyền các nước phương Tây
đã đến Việt Nam dưới triểu Minh M ạng........................................................ 1Ị 3
7. Bảng thống kê các chuyến đi công cấn dưới triều Minh M ạng.. 114
Tài liệu tham k h ả o ............................................................................................. 1 17


1

MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Nhà Nguyễn ( 1802 - 1945) là triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử
Việt Nam. Vương triéu Nguyễn được hình thành từ cuộc nội chiến chống lại
triều Tây Sơn (vương triều luôn được coi là tiến bộ), và rồi lại để cho đất nước
rơi vào tay tư bản Pháp, là cơ sở cho việc đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau, khi nhìn nhận, đánh giá về nhà Nguyễn.

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực thế kỷ XIX, muốn phát triển đất
nước phải mở rộng ngoại thương, (ạo động lực cho kinh tê hàng hoá phát triển,
giải phóng sức sản xuất xã hội. Mốt trong những vấn đề khi nghiên cứu về nhà
Nguyễn, đặc biệt là kinh tế, thường được giới sử học quan tâm và lên án gay
gắt đó là việc nhà Nguyễn thực hiện chính sách ngoại thương đóng cửa - bế
quan toả cảng", cô lập với thế giới bên ngoài làm cho đất nước suy yếu, lạc

hậu mang lại hậu quả nghiêm trọng là không thể đương đầu nổi với sự xâm
lăng của nước Pháp tư bản chủ nghĩa! Vậy nhà Nguyễn có thực sự thi hành
chính sách đóng cửa - bế quan toả cảng hay không ? Nếu có, thì ở mức độ
nào? Vì sao lại thực hiện chính sách đó? Chính sách đó ra sao? Tác động của
chính sách đó đối với tình hình chính trị, kinh tế, và xã hội Việt Nam giai
đoạn nay? .... Lý giải thoả đáng những vấn để trên sẽ góp phần nhìn nhân,
đánh giá một cách khách quan đúng đắn về nhà Nguyễn, cũng như trách
nhiệm của vương triều này trong việc bảo vệ độc lâp dân tộc.

Sau khi vua Gia Long mất, Phúc Đảm - hoàng tử thứ 4 con vua Gia
Long kế vị, lây niên hiệu là Minh Mạng. Triều Minh Mạng là triều đại khá


2

dài trong tịch sử nhà Nguyễn, cũng như trong lịch sỉr nước nhà. Vua Minh
Mạng là ông vua tiêu biểu của triều Nguyễn. Khác với triều Gia Long trước
đó, cũng như triều Tự Đức sau này, hai mươi năm Minh Mạng trị vì (1820 1840), là (hời kỳ tương đối ổn định và thịnh đạt nhất của vương triều phong
kiến nhà Nguyễn. Là ông vua thông minh, quyết đoán, trong cuộc đời làm vua
của mình, Minh Mạng đã làm được khá nhiều việc như: cải cách trên lình vực
hành chính, giáo dục, khoa cử, củng cố nhà nước quân chủ phong kiến tập
quyền

nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương

Tây, chính sách của ông thường bộc lộ những mâu thuẫn, những chủ trương
cải cách của ông không còn phù hợp nữa và trở nên lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm
sự phát triển của xã hội, mà trong đó chính sách ngoại thương là một biểu hiện
lõ nét nhất.
Nghiên cứu chính sách ngoại thương thời Minh Mạng vì thê sẽ góp một

phần không nhỏ trong việc nhìn nhộn, đánh giá toàn diện, và khách quan hơn
về Minh Mạng với những chính sách mà ông ban hành (trong đó có chính
sách ngoại thương), và rộng hơn, góp phần nhận thức, đánh giá triều Nguyễn,
về một giai đoạn lịch sử khá quan trọng trong lịch sử dân tộc trước khi thực
dân Pháp xâm lược.

Những vấn đề lịch sử kinh tế xã hội thời Nguyễn đang đặt ra cho chúng
ta hôm nay nhiều bài học bổ ích trong công cuộc đổi mới. Tích cực phát triển
kinh tế, mở lộng giao lưu, buôn bán với các nước trong khu vực, cũng như trên
thế giới, thì việc nghiên cứu lịch sử ngoại thương nói chung, dưới triều Minh
Mạng nói liêng, sẽ là việc làm cổ ý nghi ã thực tiễn sâu sắc.


3

Chính V! những ý nghiã khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đê
Ihi : Ngơại thi tong Việt N am thrói íriéit M inh M ạng (1820 - 1840) làm tlổ tíìi
luận văn Cao học của mình.

2- Lịch sử nghiên cứu vấn dề
Ngay từ những thập kỷ 60 -70, trong giới sử học đã có những cuộc tranh
luận, đánh giá về nhà Nguyễn, Đến thập kỷ 90, cuộc tranh luận về đề tài này
lại được đặt ra. Cho lới nay nhiều vấn để nhìn nhận, đánh giá về nhà Nguyễn
vẫn chưa được giải quyết, đòi hòi phải có những công trình nghiên cứu một
cách sâu sắc và rộng hơn nữa. Sự quan tâm cua các nhà nghiên cứu đã khẳng
định tầm quan trọng, bức xúc của vấn đề này.

Các công trình nghiên cứu ngoại thương dưới triều Nguyễn nhìn chung
CÒI1 ít. Đặc biệt ngoại thương dưới một triều đại - cụ thể hơn, dưới triều Minh
Mạng hầu như chưa được đề cập đến với tư cách một chuyên khảo riêng biệt.

Có một số tác phẩm và bài viết trong tạp chí chuyên ngành để cập đến ngoại
thương nói chung, tiêu biểu như: Ngoại tĩìươĩig Việt Nam hồi t h ế kỷ W ỉ ì XVIIỈ - đấu XỈX của Thành Thê VT [57], Kinh t ế x ã hội Việt Nơm dưới các
triều vua Nguyễn của Nguyễn Thê Anh [1 ]. Gần đây, PTS Đỗ Bang đã cho ra
đời cuốn: Kinh tếìììươỉì^ nghiệp Việt nam dưới triều Nguyễn [4]; và bài viết:
Chính sách ngoại ílitứ r n c ủ a friéu Nquyển - Thực chất và ỉìậu quả [3J. Ta có
thể xem đây như một bước tiên mới trong việc nghiên cứu về ngoại thương của
triều Nguyễn nói chung, cũng như triều Minh Mạng nói riêng.

Bên cạnh các tác phẩm và bài viết đổ, còn có một số tác phắm và bài
viết trong tạp chí chuyên ngành khác, đã tập trung ở một vài kliía cạnh có liên
quan đến vấn để ngoại Ihương cú a triều Nguyễn (tất nhiên trong đó có triểu


4

Minh Mạng), đáng chú ý tà: Mầm mỏng tư bản chủ tìghĩơ và sự phát triển của
chủ nghĩa tư bân ở Việt Nam dưới íỉìởi phong kiến của Đoàn Trọng Tmyên
[53]. Và cấc bài viết : Cềtìg ỈỈHứrng Hgỉriệp tỉ iâu Nguyễn của Chu Thiên [47],
Nhà Nguyễn vớt các íỉìiừrtìg nhân người Hoa thê kỷ XỈX của Trương Thị Yến
[60],Triều Nguyễn trước âm mưư hành tnửhìg cùa tư ìlân phươĩìg Tây của GS
Đinh Xuân Lâm [22], Thử tim himt (ình Inùhìg của Nho giáo írong dường Ịối
ngoại giao của triều NgụyềỉẰ nửa dầu thê kỷ XIXcủa Đinh Dung [12]....

Các cuốn sách, cũng như bài viết trực tiếp nghiên cứu về ngoại thương
nói chung, hay chỉ đề cộp đến một khí a cạnh có liên quan đến ngoại thương,
do được nghiên cứu lừ lâu, nên cách nhìn nhận, và phương pháp nghiên cứu
còn có nhiều hạn chế; hơn nữa, việc nghiên cứu lại ở một thời kỳ Ịịch sử khá
dài, nên phẩn trình bây cũng như phân tích không thể cụ thể và tỷ mỉ được...
Nhưng dẫu sao thì cấc công trình đó đã giúp chiing ta có được cấi nhìn khái
quát về đường lối ngoại Ihương của triều Nguyễn, và cííng từ đó đặt cơ sỏf cho

việc nghiên cứu ở một phạm vi hẹp hơn - trong một ngành dưới một triều đại

cụ thể, mà "Ngoại thương Việt Nam dưới triều Minh M ạng (1820-1840)” là
một ví dụ cụ thể.

3- Cơ sở tư liệu & phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu, đánh giá về hiểu Nguyễn là một công việc phức tạp. Nói như
vậy, bởi lẽ đáy là triều đại phong kiến gần hiện nay nhất, còn để lại rất nhiều
tư liệu. Song cũng chính vì nhiều tư liệu nên việc tiếp cận được hết nguồn tư
liệu này là rất khổ khăn, chúng ta phải hệ thống, so sánh đối chiếu, và phân
tích nhiều nguồn tư ỉiệu khác nhnu. Thêm vào đổ, như trên đã nối, triều
Nguyễn ra đời trong cuộc nội chiến chống nhà TAy Sơn (vương triển tương đối
tiến bộ) và lồi lại để cho (lất nước rơi vào lay tư bản Pliííp, (16 là cơ sờ cho viộc


5

đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, khi nhìn nhận đánh
giá triều Nguyễn nói chung, cũng như triểu Minh Mạng nói riêng.

3.1 .Cơ sở tư liệu
Nguồn sử liệu trước hết mà chúng tôi dựa vào làm cơ sở nghiên cứu
nhằm khái quát những chính sách và tình hình ngoại thương dưới thời Minh
Mạng là các bộ chính sử do Quốc sử quấn và Nội các triều Nguyễn biên soạn.
Đó là các bộ: Đại Nam thực lục chính hiên [38], Minh M ệnh chính yêu
[40], và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ [37]. Hiện nay, cả ba bộ sách
này đã được tổ chức dịch và xuất bản.

Một trong những công việc đầu tiên mà triều đình nhà Nguyễn sau khi
được thiết lập là ghi chép lại lịch sử. Quốc sử quán ỉà cơ quan làm chính sử

của nhà nước. Nhiểu tấc phẩm sử học do Quốc sử quán biên soạn có giá trị
còn để lại đến ngày nay, trong đó đặc biệt phải kể đến Đ ợi Nam thực lục. Dại
Nam tì lực lụt: (phẩn chính biên) ghi chép lại lịch sử thời các vua Nguyễn (từ
1802 đến 1884) theo dạng biên niên sử, trong đó Đ ẽ nhi kỷ là phần ghi chép
về thời vua Minh Mạng (từ tập V đến tập XXII). Mặc dù bộ sử này có những
nhược điểm như: viết theo nhãn quan của nhà nước phong kiến Nguyễn, chưa
vượt ra được thời đại của 11Ó, nhưng do có nhiều ưu điểm trong công tác biên
soạn, cho nên đây vẫn là bộ sử đầy đủ và hoàn chỉnh nhất của triều đại quân
chủ viết về mình trong lịch sử phong kiến Việt Nam, so với các triều đại khác
ở một số nước trên thế giới. Khi nghiên cứu bất cứ một khía cạnh nào của nhà
Nguyễn ta không thể không nghiên cứii D ại Nam ỉỉìực ĩ ục (phần chính biên).

Minh Mệnh chính yếu là tập ghi chép những chính sách trọng yếu dưới
triều Minh Mạng, cũng đo Quốc sử quán biên soạn. Ngay từ những trang đầu


6

của cuốn sách đã ghi

... nay bộ Minh Mệnh chính yếu chỉ nên chép thực ,

không nên chuộng hư văn, phàm những việc thuộc triều đại Gia Long và
không liên quan đến chính thể ị chỉ nên chép sơ lược mà thôi " [4 0, 1,10]. Từ
năm Minh Mạng 18 (1837) đến năm Minh Mạng 21 ( 1840) "Minh Mệnh
chính yếu" được giao khảo duyệt và nhuận sắc thêm. Minh Mệnh chính yếu là
bộ sách quý giúp chúng ta thấy được những chính sách mà nhà nước triều
Minh Mạng đã ban hành (tất nhiên trong đó có chính sách ngoại thương).

Năm 1829, vua Minh Mạng đặt ra cơ quan mới, lấy tên là Nội các. Nội

các là cơ quan được giao nhiệm vụ (hảo ra các chiếu chỉ, sắc dụ cho nhà vua
và xét chuyển các sắc, tấu, biểu, sách từ mọi cơ quan ở Kinh đô và các tỉnh đệ
lên cho nhà vua. Ngoni chức năng đó, Nội cấc còn biên soạn một số công
trình sử học có giá trị ctạí được những (hành tựu đáng kể ỉiong nền sử học
nước nhà. Trong các tác pliẩm sử học đó phải kể đến Kỉìâm định D ại Nam hội
điển sự lệ. Đây là một công trình lớn nhất và có giá trị nhất của Nội các triều
Nguyễn và được biên soạn theo loại Hội điển. Thể loại này được đặt ra nhằm
ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tính chất
và hoạt động của một triều đại, một nhà nước, những chính sách trọng yếu đã
được đem ra thi hành, ghi chép có hệ thống- Nghiên cứu chính sách ngoại
thương triều Minh Mạng thì Kỉiâm dịnỉt Dại Na nì hội điển sự ỉệ là tài liệu đặc
biệt quan trọng.

M ục Ịục châu ÌHÌìì triều Ngnyễn, tập II (triều Minh Mạng) [30] bao gổm
mục lục các loại công văn các bộ, nha, các địa phương ... gửi đến cho triều
đình do nhà vua trực tiếp xem và dìing hút son phê duyệt. Trong cấc loại cồng
văn được phê cluyệl (tó có những cái trở Ihàiíh quy định, chính sách dưới triều


7

Minh Mạng. Và tất nhiên, Mục lục châu hân triều Nguyễn -tập lĩ (triều Minh
Mạng) là thỉ liệu quan trọng để nghiên cứu vể ngoại thương dưới triều đại này.

Ngoài các bộ sấch nổi trên, dưới triển Nguyễn (tất nhiên trong đó có
triều Minh Mạng) còn có một sô công trình sử học, địa lý học lịch sử có ghi
chép một số mặt liên quan đến ngoại thương thời kỳ này như: D ại nam ììììất
thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn [39], trong đó có phần chép về các

chợ và ở một số chợ có người và (huyền buôn phương Tây đến buôn bán). Hải

trình chí lược của Phan Huy Chú [9J ghi chép về một chuyến đi công cán nước
ngoài của ông ở Giang Lưu Ba; Dại Ncrni điển ỉệ toát yéu[ 13] là cuốn sách
khái quát những chính sách mà nhà nước Nguyễn đã ban hành; và Quốc triều
('hỉnh biên toát yếu cùa Cao Xu An Dục (1842-1923) [11], ghi chép việc thực

hiện chính sách đổ của nhà nước ....Cấc bộ sách này giúp chúng ta bổ Sling
những sự kiện, cũng như góp phần củng cố cho những tư liêu trên.

Ngoại thương luôn mang tính quốc tế. Tìm hiểu ngoại thương ở bất cứ
một triều đại nào ta không thể chỉ nghiên cứii nguồn tài liệu trong nước, mà
còn phải kết hợp với nguồn tài liệu nước ngoài, như: của các cha cố, người
nước ngoài đến giao dịch và buồn bán, cũng như các tác phẩm của các nhà
nghiên cứu quan tăm đến vấn đề này như: J.B. Chaigneau, J.L.Taberd,
A.B.Woodside, G.Taboulet... với cấc tác phẩm: N otice sur ìa Corhinchine
(Ghi chép về xứ Đàng Trong 1820) của J.B.Chaigneau [68], N o te Of ì the
Geography o f C()( hincỉìina (Ghi chép về địa lý xứ Đàng Trong) của
J.L.Taberd [66], Vietnam and the Chíflese M odel (Việt Nam và mô hình
Irung Quốc) của A.B. W oodsiđe [67], La Geste Francaise en ỉndochiìie
(Hành động của Pháp ở Đống Dương) của G. Taboulet [72].....


8

3.2. Phương phấp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp chặt chẽ việc khảo cím
nguồn thư tịch cổ với việc tham khảo cấc công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài của nhfmg nhà sử học đi trước. Với một khối lượng tư liệu phong
phú, luận án đã sử dụng phương phấp lịch sử và phương pháp lô gích để miêu
tả lịch sử, thống kê, tổng hợp, phân tích, và đối chiếu. Phương pháp phân tích
định lượng bước đầu được sử dụng nhằm ỉượng hoá, phân tích thông tin do các

nguồn sử liệu khấc nhau đem lại làm cơ sở cho việc đưa ra những nhện xét, lý
giải các vấn đề đạt ra.

Nghiên cứu về ỉ Ịch sử nhà Nguyễn nói chung, cũng như triều Minh
Mạng nói riêng, thì việc dặt nhà Nguyễn cũng như triều Minh Mạng trong mối
liên quan khu vực với cấc quốc gia châu Á, đặc biệt là các quốc gia Đông Á
và Đông Nam Ả là lất cẩn thiết. Hơn thế nữa, chúng ta cẩn có một cấch nhìn
khách quan, chân (hực về sự tác động của cuộc cách mạng và công nghệ lổn
thứ nhất đối với các quốc gia phương Đông và Việt Nam đương thời trên quan
niệm biến đổi và phát (liển của các hiện tượng lịch sử trước khi đi đến nhận
định khách quan hơn, chân thực hơn về nhà Nguyễn.

4- Kết quẳ & đỏng góp của luận án
Các kết quả chính của luận án là:


Trình bày một cách hệ thống, phân tích những chính sách ngoại
íỉnrơng và việc thực hiện chính sách đó trên thực tê .



Bước đẩu lý giải nguyên nhân, những tiền đề kinh tế xã hội tác động
đến việc hình thành nên chính sách ngoại thương, cũng như tác động
của chính sácli đỏ dối với ngoại thương và tình hình chính trị, kinh tế
đirới triều Minh Mạng; gổp phẩn nhìn nhện, đánh gia về triều đại


9

này cững như toàn bộ triều Nguyễn trong bối cảnh tình hình thế giới

và khu vực nửa đầu thê kỷ XIX.

5- Nội dung và bố cục chính của luận án
Luận văn dài 102. trang đánh máy. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận,
luận văn gồm ba chương được trình bày theo bố cục sau:

Chương 1:

Cơ sở hình thành chính sách ngoại

thương dưới triều Minh Mạng.
Trong chương này chúng tôi để cộp đến các yếu tố đổng
đại và lịch đại đã tấc động đến việc hình thành chính sách ngoại
thương thời Minh Mạng. Đó là: sư kế thừa đường lối ngoại
thương truyển (hống của các triều đại phong kiến Việt Nam, cơ
sở kinh tế - xã hội Việt Nam, cũng như sự lớn mạnh của chủ
nghĩa tư bản phương Tây vào nửa đầu thê kỷ XIX với âm mưu
xâm chiếm nhằm lìm kiếm thị trường và mở rộng thuộc đia của
chúng, và một điều không thể thiếu được khi đề cập đến các yếu
tô hình thành nên cliính sách ngoại thương thời kỳ này là vai trò
cá nhân của ông vua trị vì lííc đó - Mình Mạng. Tất cả đã góp
phần hình thành nên đường lối ngoại thương thời kỳ này.

Ch Ương 2 : Ngoại thương Việt Nam dưới triều Minh Mạng
( 1 8 2 0 - 1840)
Đây là nội dung chính CỈIÍ1 luận án. Chương này chúng tôi
trình bầy mội cácli có hệ thống và phân tích các chính sách ngoại
thương mà nhà nước thời Minh Mạng đà ban ỉiành cũng như viỌc
(hực hiện các chính sách đó hôn thực lê như : cấc CO' quan quản



10

chế ngành ngoại thương, chính sách thuế, thái độ của nhà nước
đối với tầu thuyền và thương nhân các nước đến buôn bán, và các
chuyến đi công cán ở nước ngoài....được thực hiện ở thời kỳ này.

Chương 3 : Vai trò và tác động của ngoại thương dưới
triều Minh Mạng.
Sau khi trình bầy và phân tích chính sách ngoại thương thời
Minh Mạng, cũng như việc thực hiện các chính sách đó trên thực
tiễn, Trong chương này, mục đích của chúng tôi là đưa ra nhĩmg
nhộn xét, đánh giá về

ngoại thương thời Minh Mạng (1820­

1840), cũng như tác động của ngành kinh tế này đối với tình
hình chính trị, kinh tê và xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,
sức để kháng củn dân tộc trước sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản
phương TAy.

*

*
#

Luận án được thực hiện dưới sự giúp đỡ về mặt khoa học của PGS.
PTS Nguyễn Thừa Hỷ - người hướng dẫn chỉ bảo tôi rất tận tình trong suốt quá
trình hình thành luân ấn. Ngoài ra, trong quá trình hoàn thành luận án, ch lì 11 g
tôi cũng nhận được sự giúp đỡ về ỉư liệu cũng như những ý kiến đóng góp quý

báu của GS Phan Đại Doãn, PTS v o Văn Quân, cùng các thầy giáo, cô giáo
(rong khoa Lịch sừ trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, đặc biệt là
tổ bộ môn LỊcli sử ViỌl Nam c ổ lnmg dại. Qua clAy, tôi xin được bày lỏ lòng
biết ƠI1 chân thành nhAl tới 11 hững giúp đỡ quý báu trên.


Với một đề tài hẹp viết về một ngành, ở một triều đại, trong khoảng 20
năm (1820-1840) đòi hỏi phải nghiên cứu sâu sắc, lý giải so sánh,đối chiếu,
thời gian nghiên cứu có hạn, lại sử dụng một lúc khá nhiều phương pháp, bản
thân tôi còn thiếu kinh nghiệm trong việc nghiên cứu ... Mặc dù đã hết sức cố
gắng, song bản luận án này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Chííng tồi rất mong nhận được những lời chỉ bảo, những ý kiến đóng góp của
các thầy cồ giáo và các bạn đồng nghiệp

Hà Nội, (háng 6 năm 1998


12

CHUƠNG I

CO SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH NGOẠI THUƠNG
TRIỀU MINH MẠNG (18 20- 1840)

Chính sách ngoại thương thời Minh Mạng là sự kết hợp của nhiều yếu
tố. Tiếp thu đường lối ngoại thương truyền thống của các triểu đại phong kiến
trước đó, cơ sở kinh tế - xã hội trong nước, những biến động của tình hình thế
giới và khu vực thế kỷ XIX, cũng như tính cách cá nhân của Minh Mạng - ông
vua trị vì lúc đó, tất cả đã gổp phán hình thành nên chính sách ngoại thương
thời kỳ này.


1.

Đư&ng lôi ngoai thưons truyền thông qua các triều đai photi2

Viéi N a m trước N guyễti :
Nằm ở đông nam châu Á, với vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, lứa nước
luôn là cây trồng, lương thực chủ yếu của cư dân Việt Nam. Đã từ lâu, nông
nghiệp luôn được coi là ngành kinh tê cơ bản, và người nông dân luôn được
coi là lực lượng sản xuất chính trong xã hội với nền kinh tế tiểu nông, mang
tính chất tự nhiên, tự cấp tự tức. Văn minh Việt Nam là nển văn minh nông
nghiệp lúa nước, láy xóm làng làm đơn vị cơ sở. Tư tưởng: "trọng ruộng đất,
trọng nông nghiệp”, lấy nống nghiệp làm gốc, coi thường sự phát triển công
thương nghiệp là tư tưởng kinh íế huyền thống của Việt Nam, tư tưởng này có
ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế cùa người Việt.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá trong nước II cơ sở
quan trọng để phát Itiổn ngoại llurơng, mở rộng giao lưu, buôn bán với nước


13

ngoài. Nhưng ở Việt Nam, tư tưcmg "trọng nông’ luôn đi đôi với ức thương ,
"ức chế thương mại" (tất nhiên trong đó bao gồm cả ngoại thương) là chính
sách truyền thống của nhà nước phong kiến cũng như quyển lợi của giai cấp
thống trị Việt Nam. Kinh tế hàng hoá tuy có lịch sử lâu đời nhưng chỉ phát
triển ở trình độ nhất định. Trong xã hội phong kiến, sự phân tầng xã hội diễn
ra rất rõ ràng. Tầng lớp thương nhân luôn được xếp ở giai tầng thấp nhất: "sĩ,
nâng, cống, thương"; trong dân gian người ta luôn quan niệm rằng :

Nhất s ĩ , nhì nông

Hết ạọo , chạy rông
Nhất nânẹ , nhỉ s ĩ

Chúng ta đều biết rằng : Nho, Phật, và Đạo đều được du nhập vào Việt
Nam từ rất lâu, và có vai trò quan trọng trong hoạt động văn hoá cũng như tư
tưởng của nhân dân. Giáo lý cùn Nho giáo rất phù hợp với quá trình củng cố
trật tự, phát triển kinh tế văn hoá của xã hội phong kiến, vì vậy nên tôn giáo
này đã dần dần giữ vị trí ngày càng tăng trong việc đề cao uy quyền của tầng
lớp thống trị và hệ thống quan liêu, có nhĩmg lúc được coi là hệ tư tưởng chính
thống trong xã hội. Những nội dung của hệ tư tưởng này như : 'trọng nghĩa
hơn trọng lợi”, ’ trọng tinh thần hơn trọng vật chất"; cùng ảnh hưởng của chủ
nghĩa "Đại Hán" với thuyết trung tâm Hoa hạ Man diM... có điều kiện để bám
rễ sâu ở một nước như Việt Nam, kết hợp với tư tưởng kinh tế truyền thống
của dân tộc, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành chính sách ngoại
thương.
Là một nước nhỏ, cổ bờ hiển dài, hơn 3000 km, lại ở trung tâm Đông
Nam Á, nằm trên đường giao lưu quốc tế..., tất cả đã tạo ra cho Việt Nam một
khả năng lớn về ngoại thương, nhưng trên thực tế, xã hội Việt Nam là một xâ


14

hội 'phong b ế

VỊ trí địa lý như vậy, đã gây ra tâm lý lo sợ sự đe doạ từ phía

biển, đất nước luôn ở trong tư thế cảnh giấc đối phó và co về phòng thủ. Xuất
phát từ mục đích chính trị và quân sự - sợ nước ngoài nhòm ngó, đe doạ đến
nền an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền dân tộc, và trở thành lực lượng kìm
hãm sự phát triển của kinh tế hàng hoá, sự tách rời giữa nông nghiệp và thủ

cồng nghiệp, cũng như sự pliát triển của đô thị.

Kết hợp những tư

tưởng về kinh tế, chính trị, xã hội trên đây ... là cơ sở dẫn đến việc hình thành
và củng cố quan niệm truyền thống ’’trọng nông ức thương“ dưới thời phong
kiến. Đây là đặc điểm không thể thiếu được đối với các quốc gia phong kiến,
và giai cấp phong kiến thống trị ở Việt Nam cũng thường áp dụng chính sách
này.

Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, ngay trong buổi đầu của quá trình
xây dựng nhà nước quân cliỉi phong kiến tập quyển, nhà nước Lý - Trần đã có
quan hệ buôn bán với nước ngoài (nhưng mới chỉ ở phạm vi các nước láng
giểng trong khu vực), dặc biệt là buôn bán với Trung Quốc. Việc buôn bán
này được diễn ra ở cả hai phía : cả thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam và
cả thương nhân Việt Nam sang Trung Quốc buôn bán, thông qua Bạc dịch
trường lớn Khâm Châu. Ngoài ra, Đại Việt thời kỳ này còn buôn bán với các
quốc gia khác ở phía Nam bằng đường biển như : Chăm Pa, Xiêm La, cấc
nước vùng đảo Dừa (Inđônêxia) như : Qua Oa (Ja Va), Tam Phật Tề
(Pa lem bang ờ tây JaVa) ..... Sợ bị người nước ngoài (nhất là người Trụng
Quốc) đến do thấm tình hình nên các vua Lý, sau này là các vua nhà Trần chỉ
cho phép thương nhân tẩu (huyền nước ngoài buôn bán ở một số điểm cố định
do nhà BƯỚC kiểm soái. Được thành lập năm 1 149, cảng Vân Đồn (Quảng
Ninh) được coi là một địa điểm mậu dịch quan trọng buôn bán với thương
nhân ngoại quốc. Do ở vị trí xung yếu - trên con đường hải vân Tning Quốc và


15

Việt Nam nên sự kiểm soát ngoại thương ở Vân Đồn rât chặt chẽ, tất cả những

người buôn bán lậu đều bị trị tội. Năm 1348, nhà nước đã quyết định đổi trang
Vân Đồn thành trân Vân Đồn, đặt trấn quan, lố quan sát hải sứ \ một đội quân
đóng giữ ở đó, gọi là Bình hải quân. Ngoài cảng Vân Đổn, ở phủ Thanh Hoá:
,fcác phiên thuyền hải ngoại cũng tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền rất
đỏng" và" trao đổi lâm thổ sản, nhập các sản phẩm như tơ, vải, gấm
vóc...[58,379]. Trước đây, cũng có một thời kỳ, tầu thuyền nước ngoài đến
buôn bán còn tập trung ở cửa biển Diễn Chau, nhưng sau cảng này bị bồi lấp.

Sau khi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi lập ra
nhà Lê, lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thái Tổ. Thời Lê sơ (1428 - 1527), mà
trong đó tiêu biểu là triều Lê Thánh Tông (1460-1497), chế độ phong kiến tập
quyền Việt Nam đạt tới đỉnh cao. Nho giáo được coi là quốc giáo - hệ tư tưởng
chính thống trong xã hội. Chính sách ngoại thương dưới thời Lê sơ xuất phát
lừ nhu cẩu phòng vệ, ngăn ngừa âm mưu dò xét từ bên ngoài song đổng thời
đó cũng là 'một mặt của chính sách ức thương' [24,179]. Hạn chế sự phát
triển của kinh tê hàng hoá, kìm hãm ngoại thương đã khiến cho thương
nghiệp, cũng như ngoại thương không phát triển mạnh mẽ được, nhiều thương
nhân đã phải quay trở về sản xuất nông nghiệp, hay mới chỉ ở hình thức cho
vay nợ lãi. Mặc dù vây, trên thực tế kinh tế hàng hoá không hoàn toàn bị thủ
tiêu, Việc buôn bán, trong đó có buôn bán với nước ngoài, vẫn tiếp tục điễn ra,
ngay cả quan lại, sứ thần cũng tham gia vào việc buôn bán đó. Có thể nói,
trong lịch sử nước ta, dưới triều Lê mà đặc biệt là triều Lê Thánh Tông, chính
sách "trọng nông ức thương" dược thi hành triệt để.

1C ác viên quan kiểm soát mật hiện.


16

Tiếp theo sau giai đoan thịnh trị, thể chê nhà nước phong kiến tning

ương tập quyền Việt Nam ngày càng đi vào con đường suy yếu. Bước vào thế
kỷ XVII, các tập đoàn phong kiến Trịnh và Nguyễn ngày càng mâu thuẫn dẫn
đến nội chiến tương tàn, đất nước trong tình trạng phân liệt, chia cắt Đàng
ngoài và Đàng trong, (ỷ thời kỳ này, kinh tế hàng hoá trong nước, cũng như
việc tiếp xúc, buôn bấn với nước ngoài trở nên thường xuyên hơn, đặc biệt là
với các nước tư bản phương Tây. Không chỉ các lái buôn phương Đông có
quan hệ buôn bán lâu đời như Hoa Kiều, Nhật Bản, mà cả các lái buôn phương
Tây như: Bổ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp ....cũng đặt chân đến buôn bán ở
Việt Nam. Với mục đích giành quyền lợi cho tập đoàn mình như: giúp đỡ về
vũ khí, huấn luyện víí trang, can thiệp..., các tập đoàn phong kiến đã cấu kết
và tạo điều kiện thuận lợi cho cẩc lái buôn này, Đã có một thời (cuối thế kỷ
XVI và thế kỷ XVII), 1hương nghiệp nói chung, cũng như ngoại thương nói
riêng phất triển mạnh mẽ với sự phát triển của kinh tế hằng hoá, sự ra đời của
hàng loat đô thị như Thăng Long, Phô Hiến, Thanh Hà, Hội An...., trao đổi
buôn bán với nước ngoài diễn ra tấp nập nhộn nhịp, nhất là vào mùa buôn bấn.
ở thời kỳ này, kinh tế hàng hoa tuy đã được mở rộng và có một vị trí nhất
định, nhưng (rên cơ bản, đó vẫn là nền kinh tế phong kiến, ’những yếu tố phát
triển tư bản chủ nghĩa !hương mại còn rất nhỏ yếu" [53,10], và đóng vai trò
phụ thuộc lịch sử. Ngay sau khi chiến tranh kết thức, các tập đoàn phong kiến
ở cả Đàng trong và Đàng ngoài đã cố tình gây khó khăn cho các thương nhân
buôn bán. Do chính sách cỉia nhà nước, đến đầu thế kỷ XVIII các thuyền buôn
lần lượt bỏ đi, thương đi ếm đổng cửa và ngoại thương suy tàn. Đến cuối thế kỷ
đó ngoại thương trở nên tiêu điều, không có (ác dụng quan trọng đến nền kinh
tế trong nước, hoạt động của các thương nhân không được mở rộng, lưu thồng
hàng hoá không được ctắy mạnli.


17

Như vậy, trong lịch sử phong kiến v iệ t Nam, cho đên trước thời nhà

Nguyễn, nhìn chung ngoại thương là một ngành kinh tế bị kìm hãm. Hệ tư
tưởng Nho giáo ở Việt Nam, kết hợp với tư tưởng kinh tế truyền thống luôn
đổng nghĩa với chính sách trọng nông ức thương", đặc biệt hơn khi Nho giáo
giữ vị trí độc tôn, mà trong đó, nhà nước phong kiến thời Lê sơ (tiêu biêu là
thời Lê Thánh Tông) là biểu hiên điển hình. Cũng đã có thời kỳ ngoại thương
Việt Nam khá phát triển (như thời Lý -Trần và thế kỷ XVII “ XVIĨĨ), kinh tế
hàng hoá trong nước, buôn bán với nước ngoài diễn ra nhộn nhịp, song ngay
cả những thời kỳ đó thì ngoại thương cũng không thoáng mở, vẫn bị gò ép
trong hệ tư tưởng phong kiến, cũng như nỗi lo sợ đe doạ an ninh, chủ quyền
của quốc gia .

2 .C ơ sỏ kinh t ế - x ã hôi nửa đầu th ế k i X IX :
Sau một thời gian dài lưu lạc, với ý chí quyết tâm phục thù, dựa vào
tầng lớp địa chủ phong kiến vùng Gia Định, lại được sự giúp đỡ tích cực của
tư bản Phấp...Nguyễn ánh đã lật đổ được triều Tây Sơn, lộp ra nhà Nguyễn
(1802-1945). Là triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử Việt Nam, giai
cấp thống trị Nguyễn luôn thi hành các biện pháp cực đoan nhằm thiết lập lại
trật tự, khôi phục nhà 11ƯỚC phong kiến quan liêu sau khủn g hoảng.

Bước sang thế ký XIX, XII thế phát triển của xã hội Việt Nam có những
biến chuyển mới. Sau một thời gian loạn lạc kéo dài, vấn để phục hồi nông
nghiệp và phát triển thủ công nghiệp trở thành mội yêu cầu hết sức bức xúc.
"Vấn để đặt ra cho nhà nước quAii ¡chủ Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX là cởi trói
cho người nông dan và các lắng lórp bị trị khác thoái khỏi cơ chê "sở hữu
ruộng đất lớn” không còn lác dụng thúc đẩy sản xuất và mặt khấc, "mò cửa”


18

cho đất nước vươn ra thê giới bên ngoài, kích thích kinh tế hàng hoá và giao

lưu buôn bán, trao đổi hàng hoá

[33,25].

i

Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi đã thừa hưởng được thành quả to lớn
của phong trào nông dân Tây sơn, hoàn thành nốt công cuộc thống nhât đất
nước. Chưa có thời kỳ nào lãnh thổ đâ't nước lại được mở rộng và trải dài từ
mục Nam Quan đến mũi Cà Mali, do công sức bảo vệ, mở mang, và khai phá
của nhiều thế hệ, dặc biệt !à ở phía Nam dưới thời các chúa Nguyễn. Cũng như
các triểu đại phong kiến đi trước, với quan niệm 5nông giả thiên hạ chi đại
bản", Gia Long và cấc ông vua đáu triều Nguyễn đã thi hành chính sách
"trọng nông ức thương": dề cao nông nghiệp, hạn chế buôn bấn. Mác đã nói
rằng: tác dụng của thương nghiệp (tất nhiên bao gồm cả ngoại thương) đến
mức độ nào là do sự vững chắc của phương thức sản xuất cũ và cơ cấu nội tại
của nó quy định, ở Việt Nam, cấu trúc làng xã cổ tmyển vẫn là một hình thức
tổ chức sản xuất chủ yếu trong xã hội, và thế kỷ XVIII, XIX đến đầu XX là
thời kỳ tái lập lại làng xã. 'Nông thôn Việt Nam cho đến thế kỷ XĨX, thương
nghiệp vẫn chủ yếu nằm trong kinh íế tiểu nông, bổ sung và củng cố tiếp thêm
sức sống cho kinh tế tiểu nông. Thương nghiệp chỉ là một bộ phận trong kết
cấu kinh tế cfi nên khi tác động vào làng cổ truyền, nó vừa phân lã lại vừa
củng cố làng cổ truyền nlunig không thể đập phá được mô hình làng xã cu, lai
càng không thể xAy dựng được mỏ hình mới" [31]. Kinh tế tiểu nông làng xã
đóng vai trò chủ đạo, chi phối sự phát triển của thương nghiệp, thủ cồng
nghiệp.

Thực tế lịch sử cho thấy rằng, ngay sau khi thành lập, triều dinh n h i
Nguyễn dã cổ sự quan tầm nhất (lịnh đối với nông nghiệp, chú ý đến việc khai
hoang, phục hồi kinh tế như: ban hành nhiêu quyết định khai hoang; việc lấn

biển, tri thuỷ, tliuỷ lợi được đẩy mạnh; diện tích nông nghiệp được mờ lộng


19

với những biện pháp khác nhau; chính sách khuyến nông được đặc biệt được
coi trọng,... sản xuất nông nghiệp trên một chừng mực nào đó đã ít nhiều được
phục hồi và phát triển.
Thi hành chính sách

trọng nông ức thương , nhà nước Nguyễn đã

khuyến khích phát triển nông nghiệp, đồng thời hạn chế sự phát triển công
thương nghiệp, kìm hãm sự phái triển của kinh tế hàng hoá, khiến thị trường
dân tộc không được mở lộng: các hoạt động công thương nghiệp bị đánh thuế
nặng, quy định thủ tục kinh doanh phiền hà, nhà nước nắm độc quyền trong
việc buôn bán, trao đổi hàng hoá với nước ngoài, thi hành chính sách "đóng
cửa", đặc biệt là với các quốc gia phương Tây ... Với chính sách kìm hãm đó
của nhà nước đã khiến cho thử công nghiệp không phất triển được, sản xuất
thủ công nghiệp mới dừng ở mức thủ công cá thể chứ chưa xuất hiện được
mầm mông tư bản chủ nghĩa. Kinh tế hàng hoá tuy không hoàn toàn chặn
đứng, nhưng việc buôn bấn, lim lỉiông hàng hoá (đặc biệt là ngoại thương)
diễn ra chậm chạp, thưa íliớt, không có bước phát triển mạnh mẽ, khiến cho
các đô thị như Phố Hiến, Hội An... xuống cấp hoặc suy vong. Nếu như ở thế
kỷ XVII - XVIII đô thị phất triển mạnh mẽ với sự hưng khởi và phát triển của
hàng loạt các đô thị, thì đến thời kỳ này - nửa đầu thế kỷ XIX, đô thị hoà đồng
với nông thôn.

Cùng với những chính sách về kinh tế, các vua Nguyễn, đặc biệt !à
Minh Mạng, đã ra sức lăng cuờiig chê độ chuyên chế, thâu tóm trong tay

quyền lộp phấp, liànli pỉiấp, lư phấp và giám sát. Cuộc cải cách hành chính
được thực hiện dưới thời Minh Mạng (1 8 3 1- 1832) theo hướng cải cách bộ máy
Nhà nước quân chủ tệp quyển đạt tới mức hoàn chỉnh với một thể chế đầy đủ.
chặt chẽ và thống lìliấl, hoàn Ihiộn bộ máy chính quyền quy củ từ hung ương
đến địa phương - một chính quyền lộp trung hơn tất cả các chính quyền khác.


20

một nhà nước manh so với cấc nhà nước quần chủ trước đó. Bộ máy hành
chính nhà nước qua cải cách Minh Mạng đạt mức độ tập quyền cao, tập trung
quyền lực vào tay hoàng đế đi tới hiệu quả ngày càng lún sâu vào tình trạng
chuyên chế cực đoan và quan liêu cao độ. Nông nghiệp tuy vẫn là ngành sản
xuất chính dưới triển Nguyễn, nông dãn vẩn là lực lượng sản xuất cơ bản trong
xã hội, nhưng trên thực tế, sở hữu mộng đất công ngày càng bị thu hẹp, ruộng
đất công làng xã bị xâm lấn, nạn chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ cường hào
phát triển mạnh. Nông dân bị địa chủ, cường hào chiếm đoạt ruộng đất, lại
chịu SƯU thuế nặng nề, lại thêm thiên tai dồn dập, mùa màng thất bát, ngày
càng lâm vào tình trạng khốn cùng. Quần chiìng nông dân và sản xuất nông
nghiệp ngày càng bị suy yếu, nạn đói thường xuyên đã xảy ra. Chính sách
quân điền đã được thực hiện, nhimg cõng không có được (ác dụng đáng kể ...
Đó là những nguyên nhân phất sinh ra nhiều tệ nạn xã hội. Dưới thời nhà
Nguyễn đã có hàng (răm cuộc nổi dậy của nông dân và các dân tộc ít người nổ
ra liên miên, hiện tượng dân phiêu tán diễn ta trên khắp đất nước trong suốt
nửa đầu thế kỷ XIX. Cho dù xuất phát từ nguyên nhãn nào đi chăng nữa, thì
điều đó cũng chứng tỏ rằng tình hình xã hội đâ't nước không ổn định, chính
quyền nhà Nguyễn đã không đem lại cuộc sống yên bình cho đất nước, mâu
thuẫn trong xã hội đã diễn ra hết. sức gay gắt. Lạc hậu, bảo thủ và chuyên chê
là đặc điểm nổi bật của nhà nước trung ương tập quyền nhà Nguyễn nửa đầu
thế kỷ XIX.


Tóm lại, cho đến thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào
giai đoạn suy yếu, nền kinh tế cơ bản vẫn nằm trong khuôn khổ của một nền
kinh tế phong kiến, đó là nền kinh tế tự nhiên dưới sự thống trị của địa chủ
phong kiến. Nhà nước phong kiến Nguyễn tiếp tục chính sách "trọng nông ức
thương*', hạn cliế sự phất triển của cồng thương nghiệp. Kinh tế hàng hoá nói


21

chung, cũng như ngoại thương Việt Nam nửa đcìii thê kỷ XIX không có điêu
kiện phát triển. Sau một thời kỳ, thế kỷ XVII - XVIII, chính sách này có phần
được nới lỏng thì đến lúc này lại được phục hồi và phát triển: Kinh tê hàng hoá
và đô thị đã từng khởi sắc ở thời kỳ trước thì đến nay không phát triển, trong
xã hội không có tầng lớp đại thương, lại bị Hoa kiều lũng đoạn ....Ngoại
thương là lĩnh vực độc quyền của nhà nước với những luật lệ, thuế khoá nặng
nề, quy định cấm nhân dân buôn bán với nước ngoài và trao đổi một số mặt
hàng. Nhìn chung đây là một bức tranh đình đốn, thiếu những tiền đề phát
triển để tạo ra những chuyển biến mới mẻ, và là điều kiện để thực hiện chính
sách đóng cửa 'bê quan toả cảng", cô Ịập đất nước với thế giới bên ngoài được
tăng cường hơn.

3 . B ối cảnh th ế giói và khu vưc ỉthữĩtẹ thây kỷ đẩu thê kỷ X IX :
Cuộc cách mạng íư sản ở Anh năm 1640, tiếp theo đó là đại cách mạng
tư sản Pháp năm 1789, đã thực sự là cuộc tấn công vào thành trì của chế độ cũ
mục nát, lật đổ hoàn toàn quan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng người nông
dân khỏi sợi đây ràng buộc cổ hủ, xây dựng chế độ xã hội mới với cơ cấu tổ
chức mới, mở đường cho sức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Không chỉ
có ảnh hưởng lớn trong phạm vi châu Âu, các cuộc cách mạng này còn có ý
nghĩa lớn lao đối với (hời đại : Đó là sự phát triển cíia sức sản xuất tư bản chủ

nghĩa, sự thắng lợi của cách mạng tư sản và mở ra giai đoạn thắng lợi và bành
tnrớng cùa chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới .

Đến thê ký XIX, sau một thời kỳ dài phát triển, chủ nghĩa tư bản
phương TAy đã dần dán cluiyển sang tư bản độc quyền. Quá trình này ngầy
càng được thể hiện rõ vào khoảng 1815 - 1830 và tiếp tục cho đến cuối thê kỷ


22

XIX, gắn liền với cuộc đAu tranh gay gắt giữa các lì ước tư bản nhằm I11 Ở rộng
thị trường và phân ch in hệ thống thuộc địa .

Khác với phương Tây, ở phương Đông quá trình tan rã của chế độ
phong kiến, quá trình pli.it sinh và phát triển của chủ nghĩa lúc này đã trở
thành xu thế phát triển chung, nhưng sự biến chuyển diễn ra cực kỳ phức tạp.
Thời kỳ này được xem như thời kỳ phát triển khấc biệt giữa hai khu vực Đông
- Tây. Phương Đông thê kỷ XIX trở thành nơi bị nhòm ngổ, tranh giành quyền
ế

lực của các quốc g in phương Tfly. Tấí cả bị kéo vào gnổng máy chting củn chủ
nghĩa tir bản .
Cuộc cách mạng lư sản và cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất đã tạo
ra cho các quốc gia ítr bản ở ch A11 Âu (trong đó có nước pháp) bước phát triển
nhảy vọt về tiềm lực kinh tế và quốc phòng, một quân đội mạnh so với các
nước khác tiên thế giới. Nước Pháp đã đứng hàng thứ hai trong nền kinh tê tư
bản, cuộc cách mạng trên clà phất triển. Những tiến bộ và thành tựu mà nước
Pháp đạt được đã làm cho toàn lục địa châu Âu cũng như ngành công nghiệp
Pháp phát đạt hơn bao giờ hết. Thời kỳ này, nước Pháp đă qua giai đoạn thăm
dò và bước đầu chuyển sang giai đoạn thôn tính vũ trang, đe doạ các nước, mà

trong đó, Việt Nam là một trong những đôi tượng xâm chiếm của chúng. Sở dĩ
Pháp có ý định xAm chiếm Việt Nam là vì chúng thấy rõ ở đây miếng mồi héo
bở và vị trí quan trọng củn việt Nam trên COÎ1 đường buồn bấn với Trung
Quốc. Giai đoạn từ năm 1820 đến năm 1870 là bước khởi đầu của quá trình
bành trướng của tư bản Pháp ở Đồng Dương và Việt Nam. Sự xâm nhập của tư
bản Phấp là thừ (hách lớn lao quyết định vận mệnh sống còn cỉia nền độc lộp
dAn lộc. Clura hao giờ Irong lịch sử Việt Nam lại phải đương đẩu với kẻ tliìi
hơn hẳn mình về mọi mặt.


×