Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Hoàn thiện pháp luật thương mại nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.13 KB, 58 trang )

1
Mở đầu

1.tính cấp thiết của đề tài

Đổi mới, hội nhập và hợp tác là một quy luật tất yếu khách quan đối với bất
kỳ một quốc gia nào muốn đổi mới và phát triển nhằm nâng cao vị thế của mình
trên trờng quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hớng đó. Tuy nhiên, quá
trình đổi mới ở Việt Nam lại mang bản sắc riêng. Hợp tác và hội nhập đã mở ra
nhiều cơ hội phát triển cho tất cả các nớc nhng cũng đem lại không ít thách thức.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện và một trong những vấn đề cần
phải làm hiện nay là hoàn thiện hệ thống pháp luật, bởi vì hệ thống phâp luật
Việt Nam chủ yếu đợc hình thành trong thời kỳ tập trung bao cấp. Cho nên nó
không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Trớc tình
hình đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam ở các cấp độ khác nhau nhng các tác giả mới chỉ đi
sâu nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật ở một lĩnh vực cụ thể nh kinh tế, dân
sự, thơng mại: Hoàn thiện pháp luật thơng mại nhằm thúc đẩy hoạt động thơng
mại trong nớc và quốc tế của Lê Hoàng Anh ( Bộ thơng mại) trong tạp chí Dân
chủ và pháp luật số chuyên đề về pháp luật kinh doanh tháng 11/2004; Luận văn
Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế theo định hớng phát triển kinh tế xã hội ở
nớc ta của Khúc Thị Quỳnh Lâm, trờng Đại học Luật Hà Nội, 1996; Luận án
Một số vấn đề góp phần đổi mới và hoàn thiện pháp luật ngân hàng trong điều
kiện nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam của Vũ Tuấn Nghĩa, trờng Đại học Luật
Hà Nội, 1996; Luận văn Vấn đề hoàn thiện hợp đồng kinh tế của Trần Tiến
Thanh, trờng Đại học Luật Hà Nội, 1997... mà cha có đề tài nào nghiên cứu việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam một cách cơ bản và toàn diện. Do đó


không thấy rõ đợc nhiêu bất cập củ hệ thống pháp luật làm cơ sở cho việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.


2
3. đối tợng, phạm vi nghiên cứu đề tài

Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận về hệ thống pháp luật và đánh giá
thực trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam, sau đó nêu những phơng hớng hoàn
thiện hệ thống pháp luật trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế ở nớc ta
hiện nay.
4. phơng pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn đợc xây dựng trên nền tảng lý luận triết học Mác-Lênin, kết hợp
với các phơng pháp phân tích, tổng hợp,so sánh nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn của hệ thống pháp luật Việt Nam. Từ đó mạnh dạn đa ra các
kiến nghị góp phần làm cho việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện một cách
cơ bản hệ thống pháp luật Việt Nam.
5. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu đề tài

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của hệ thống pháp luật
nh các quan điểm về hệ thống pháp luật, cơ cấu của hệ thống pháp luật, đặc điểm
của hệ thống pháp luật, những yếu tố tác động đến sự phát triển của hệ thống
pháp luật
Luận văn cũng nghiên cứu những vấn đề thực tiễn của hệ thống pháp luật
Việt Nam, những thành tựu cũng nh những tồn tại và bất cập của hệ thống pháp
luật, trên cơ sở đó đa ra phơng hớng hoàn thiện.
6. cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn gồm hai chơng:

Chơng 1: đề cập một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống pháp luật Việt
Nam.
Chơng 2: đề xuất phơng hớng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong
điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


3
Luận văn giúp ngời đọc có cách nhìn bao quát về hệ thống pháp luật Việt
Nam, cũng nh thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay từ đó có cách
hiểu đầy đủ và cách nhìn nhận đúng đắn hơn về hệ thống pháp luật. Trên cơ sở
đó có những ý kiến đóng góp, những đề xuất mang tính chất tham khảo giúp các
nhà làm luật xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với
tình hình đổi mới và đáp ứng yêu cầu hội nhập và hợp tác quốc tế


4
Chơng 1
một số vấn đề lí luận cơ bản về
hệ thống pháp luật việt nam
1.1. Khái niệm hệ thống pháp luật

Để quản lý xã hội thì nhà nớc nào cũng ban hành các loại quy phạm
pháp luật. Các loại quy phạm pháp luật đó không tách rời nhau mà liên kết với
nhau chặt chẽ và đợc sắp xếp theo trật tự nhất định trong một chỉnh thể thống
nhất gọi là hệ thống pháp luật.Sự tồn tại hệ thống pháp luật ấy mang tính khách
quan vì nó xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu của chính cuộc sống xã hội hết sức đa
dạng và phức tạp. Đặc biệt, hiện nay trong điều kiện hội nhập và hợp tác quốc tế
thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam càng trở thành vấn đề mang tính

cấp bách.
Trong khoa học pháp lý hiện nay ở nớc ta còn có những quan điểm rất
khác nhau về khái niệm hệ thống pháp luật.
Quan niệm khá phổ biến cho rằng hệ thống pháp luật là tổng thể các
quy phạm pháp luật đợc chia ra thành công pháp và t pháp. Công pháp là toàn bộ
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan, tổ chức công
quyền với nhau và giữa cơ quan công quyền với các cá nhân có lịên quan đến
lĩnh vực công và các quyền chính trị. Công pháp gồm các nghành luật chủ yếu:
luật hiến pháp, luật hành chính, luật tài chính công. Ngợc lại, t pháp là những
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các cá nhân với nhau trong đó các
cá nhân có t cách là chủ thể của quan hệ pháp luật t. T pháp gồm các ngành luật
nh: luật dân sự, luật thơng mại, luật lao động. Việc phân chia này có u điểm là
chỉ rõ đợc những điểm khác biệt cơ bản( chủ thể, đối tợng, phơng pháp điều
chỉnh của mỗi bộ phận công pháp và t pháp, làm cơ sở cho việc tiếp cận và giải
quyết các vấn đề lý thuyết và thực tiễn đợc thuận lợi. Tuy nhiên, sự phân chia
này chỉ mang tính chất tơng đối và có hạn chế nhất định vì không bao quát hết
các trờng hợp, một số ngành luật không thể coi là công pháp hay t pháp hoàn
toàn.Ví dụ, luật hình sự là công cụ để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,


5
bảo vệ lợi ích công, đồng thời bảo vệ lợi ích cá nhân hoặc luật tố tụng cũng vừa
có đặc điểm của công pháp lại vừa có tính chất của t pháp.
Quan điểm truyền thống của nhiều nhà luật học cho rằng, cần có sự phân
biệt hai khái niệm: hệ thống pháp luật và hệ thống luật thực định. Hệ thống pháp
luật đợc hiểu là cấu trúc bên trong của pháp luật, còn hệ thống luật thực định là
hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật( hệ thống nguồn của pháp luật). Hệ
thống pháp luật đợc hình thành và phát triển phù hợp với cơ cấu của các quan hệ
xã hội, còn hệ thống luật thực định đợc hình thành trong quá trình ban hành các
bộ luật. Về nội dung, hai khái niệm này đợc xác định nh sau: Hệ thống pháp luật

là tổng thể các quy phạm pháp luật có tính thống nhất nội tại bền vững, đồng
thời có tính đôc lập nhất định, đợc phân định thành các ngành luật, chế định luật.
Còn hệ thống luật thực định là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đợc sắp
xếp theo trật tự thang bậc giá trị khác nhau và về thực chất đó là kết quả của quá
trình tập hợp hoấ và pháp điển hóa. Việc xác định này đã loại trừ các yếu tố:
nguyên tắc chính trị, triết học, kỹ thuật pháp lý ra ngoài phạm vi của khái
niệm.
Việc tách khái niệm hệ thống pháp luật thành hai khái niệm khác nhau
có điểm hợp lý là nó mở ra khả năng cho việc nghiên cứu sâu hơn những khía
cạnh lý luận và thực tiễn có liên quan đến hai khái niệm này, từ đó vận dụng vào
thực tiễn pháp lý để giải quyết các vấn đề liên quan nh: xác định ranh giới giữa
các ngành luật, chế định luậtTuy nhiên, nếu tách hai khái niệm này để nghiên
cứu mà không đặt chúng trong một thể thống nhất thì khi nghiên cứu sẽ không
xác định đợc thành tố tế bào chung cho hai khái niệm này và nh vậy sẽ khó khăn
trong việc xem xét các vấn đề có liên quan nh giới hạn nội dung, cấu trúc và các
mối liên hệ nội tại của các bộ phận trong hệ thống đó pháp luật.
Khác với quan điểm trên, những ngời không phân biệt hai khái niệm hệ
thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định, coi quy phạm pháp luật là
thành tố tế bào của hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, A.V.Miskevich cho rằng:
Mọi văn bản pháp luật, bằng cách này hay cách khác, cũng đều có ảnh hởng
đến kết quả cuối cùng của sự sáng tạo pháp luật đó là quy phạm pháp luật vì mối


6
liên hệ đó cho nên trong phần lớn các trờng hợp, nhiệm vụ xác định những đặc
điểm của văn bản quy phạm pháp luật đều dẫn tới việc xác định những đặc điểm
của quy phạm pháp luật1. Nh vậy, dù có tách hay không tách hai khái niệm này
để nghiên cứu thì quy phạm pháp luật vẫn phải đợc coi là thành tố của hệ thống
đó.
Một quan điểm khác cho rằng, chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật,

không thể phân biệt đợc hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật
thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng bao gồm
cả hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp
luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật đợc bảo
đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. Các nguồn đó là các trào lu pháp lý, kỹ thuật
pháp lý, các nguyên tắc chính trị, triết họcNh vậy, khái niệm hệ thống pháp
luật đã đợc mở rộng phạm vi tối đa, dung hợp vào hệ thống pháp luật cả những
yếu tố bên ngoài mang tính kỹ thuật, rời rạc.
Mặt khác, theo Giáo trình Lí luận chung về nhà nớc và pháp luật của
Khoa Luật trờng Đại học Quốc gia Hà Nội thì hệ thống pháp luật đợc định nghĩa
là: tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hớng và mục đích
của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, đợc phân định
thành các ngành luật, chế định pháp luật và đợc thể hiện trong các văn bản do cơ
quan nhà nớc ban hành theo những hình thức, thủ tục luật định1.
Theo quan điểm này thì hệ thống pháp luật đợc hiểu là hệ thống cấu trúc
của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật, bao gồm trong đó cả các nguyên
tắc, định hớng và mục đích của pháp luật.
Theo giáo trình Lí luận nhà nớc và pháp luật của trờng Đại học Luật Hà
Nội thì: hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ
nội tại thống nhất với nhau, đợc phân định thành các chế định pháp luật, các

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam- Những vấn đề lí luận và thực tiễn-PGS.TS Lê Minh
Tâm.Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội 2003, tr 47-48.
1

1


7
ngành luật và đợc thể hiện trong các văn bản do nhà nớc ban hành theo trình tự,

thủ tục và hình thức nhất định2.
Thông thờng, ngời ta xuất phát từ hai góc độ nghiên cứu pháp luật để
định nghĩa hệ thống pháp luật. Đó là cấu trúc bên trong của pháp luật và biểu
hiện bên ngoài của pháp luật. Từ góc độ cấu trúc bên trong của pháp luật, hệ
thống pháp luật đợc xem nh là hệ thống các quy phạm pháp luật, trong đó các
quy phạm pháp luật đợc chia thành từng nhóm lớn ( gọi là các ngành luật) để
điều chỉnh những lĩnh vực quan hệ xã hội cơ bản, và mỗi nhóm lớn quy phạm
pháp luật lại đợc chia thành từng nhóm nhỏ( gọi là chế định luật )để điều tiết các
bộ phận cấu thành các lĩnh vực quan hệ xã hội mà nhóm lớn quy phạm pháp luật
điều chỉnh.Từ cách hiểu này, hệ thống pháp luật đợc định nghĩa là hệ thống các
ngành luật mà mỗi ngành luật bao gồm các chế định luật và mỗi chế định luật đợc cấu tạo từ các quy phạm pháp luật. Nh vậy, có ba yếu tố cơ bản tạo nên cấu
trúc bên trong của pháp luật ( và của hệ thống pháp luật) là ngành luật, chế định
luật và quy phạm pháp luật. Từ góc độ biểu hiện bên ngoài của pháp luật, hệ
thống pháp luật đợc định nghĩa là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật,
trong đó các văn bản quy phạm pháp luật đợc chia thành văn bản luật( do Quốc
hội ban hành) và văn bản dới luật( do cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban
hành) nhằm điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất.
Việc hình thành hệ thống pháp luật thống nhất có ý nghĩa rất quan trọng.
Trớc hết, nó thúc đẩy công tác xây dựng pháp luật. Xây dựng các bộ luật, đạo
luật là cần thiết, nhng phải tiến hành hệ thống hóa kịp thời thì mới phát huy đợc hết tác dụng của pháp luật trong đời sống xã hội. Hình thành hệ thống pháp
luật giúp cho việc tìm hiểu và thi hành tốt, thi hành nghiêm túc pháp luật. Tìm
hiểu theo ngành luật, từng chế định pháp luật sẽ giúp hiểu biết về pháp luật của
nhà nớc hiện có những gì, những quy định hiện hành, những quy định đã hết
hiệu lực từ đó giúp cho việc thi hành dễ dàng.
1.2. Cơ cấu của hệ thống pháp luật
Giáo trình Lý luận nhà nớc và pháp luật-trờng Đại học luật Hà Nội. Chủ biên GS.TS Lê Minh Tâm. Nxb t pháp,
Hà Nội 2006, tr 401.
2



8
1.2.1. Hệ thống cấu trúc của pháp luật
Hệ thống cấu trúc của pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có
mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau đợc phân định thành các chế định pháp
luật và các ngành luật. Hệ thống cấu trúc bao gồm các thành phần cơ bản là quy
phạm pháp luật, chế định luật, ngành luật
Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung, do nhà
nớc ban hành( hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội cơ bản.
Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc của
pháp luật, vừa có tính khái quát, vừa có tính cụ thể.Tính khái quát thể hiện ở chỗ
nó là quy tắc xử sự chung, đợc áp dụng trong phạm vi rộng và trong thơì gian
dài. Còn tính cụ thể thể hiện ở chỗ nó là chuẩn mực để điều chỉnh quan hệ xã hội
cơ bản trong trờng hợp cụ thể đã đợc pháp luật dự liệu trớc. Quy phạm pháp luật
là một trong những cơ sở hay tiêu chí để xác định hành vi của con ngời, nhờ có
quy phạm pháp luật mà ta xác định đợc hành vi nào là phù hợp với pháp luật,
hành vi nào là trái pháp luật, hoạt động nào có ý nghĩa pháp lý và hành động nào
không có ý nghĩa pháp lý.
Xét về tính chất, quy phạm pháp luật mang đầy đủ những yếu tố thể hiện
bản chất của pháp luật nhng ở mức độ cụ thể nhất. Quy phạm pháp luật cũng là
một hệ thống nhỏ gồm ba bộ phận hợp thành và giữa chúng có mối liên hệ mật
thiết với nhau : giả định, quy định, chế tài.
Về phân loại, có nhiều cách và tùy thuộc vào từng tiêu chí cụ thể. Căn cứ
vào đối tợng điều chỉnh và phơng pháp điều chỉnh, quy phạm pháp luật đợc phân
chia theo ngành luật (ví dụ: quy phạm pháp luật hình sự, quy phạm pháp luật
hành chính, quy phạm pháp luật dân sự...)và chế định luật ( quy phạm pháp luật
thừa kế, quy phạm pháp luật hợp đồng...). Căn cứ vào nội dung, quy phạm pháp
luật đợc chia thành quy phạm pháp luật nguyên tắc, quy phạm pháp luật định
nghĩa. Căn cứ vào tính chất mệnh lệnh đợc ghi trong phần quy định ,quy phạm



9
pháp luật đợc chia thành quy phạm pháp luật cho phép, quy phạm pháp luật cấm
đoán và quy phạm pháp luật bắt buộc...
Chế định pháp luật
Trong mỗi ngành luật tồn tại nhiều chế định luật khác nhau. Chế định
luật là một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có
nội dung, tính chất đồng nhất thuộc đối tợng điều chỉnh của ngành luật có chế
định ấy. Ví dụ, ngành luật dân sự có chế định hợp đồng dân sự điều chỉnh các
quan hệ liên quan tới hợp đồng dân sự.
Nhiều chế định luật tồn tại trong một ngành luật nhng giữa các chế định
luật đều có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau. Nh vậy, việc xác định ranh
giới giữa các chế định luật nhằm tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy
phạm pháp luật phù hợp với từng ngành luật và phù hợp vơi thực tiễn đời sống xã
hội. Tuy nhiên, việc xác định ranh giới này phải đảm bảo nguyên tắc là phải đặt
chúng trong mối liên hệ qua lại trong một chỉnh thể thống nhất của hệ thống
pháp luật nói chung và của ngành luật nói riêng, không thể áp đặt một cách tùy
tiện, chủ quan.
Ngành luật
Ngành luật là một tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh
vực quan hệ xã hội nhất định, với phơng pháp điều chỉnh đặc thù. Ví dụ, ngành
luật dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh những quan hệ tài sản
có tính chất hàng hóa-tiền tệ và các quan hệ nhân thân phi tài sản, với các phơng
pháp điều chỉnh là mệnh lệnh-phục tùng và tự thỏa thuận, tự định đoạt.
Trong hệ thống pháp luật tồn tại nhiều ngành luật khác nhau điều chỉnh
những lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên việc phân định ranh giới giữa các ngành
luật nhiều khi trở nên rất phức tạp vì không phải lúc nào cũng tìm ra đợc sự tơng
đồng giữa các ngành luật với từng loại quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Sở dĩ có sự
không tơng đồng là do:Trong xã hội không phải bất cứ mọi loại quan hệ xã hội

nào cũng cần đến sự điều chỉnh của pháp luật và hơn thế nữa sự điều chỉnh của
pháp luật cung không cần phải ở những mức độ giống nhau bởi ở tính chất biến


10
đổi của các loại quan hệ xã hội. Ngoài ra, còn do sự phân công lao động xã hội
mà lĩnh vực hoạt động của con ngời không nhất thiết đồng nhất với nội dung vật
chất của hoạt động đó.
Vì vậy, một lĩnh vực quan hệ xã hội có thể do một ngành luật điều chỉnh hoặc
một ngành luật cùng một lúc có thể điều chỉnh nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội để
phân định thành các ngành luật độc lập.Vì vậy, việc phân định ranh giới giữa các
ngành luật cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau và đang là vấn đề
khoa học phức tạp. Tuy nhiên, dù có bất cứ một sự phân định nào cũng chỉ mang
tính chất tơng đối bởi các loại quan hệ xã hội không phải là bất biến mà nó luôn
thay đổi cùng với sự thay đổi của xã hội, mặt khác các loại quan hệ xã hội có
liên quan mật thiết với nhau và luôn thay đổi, không có những quan hệ biệt lập
và vì vậy, hệ thống pháp luật đợc xác lập để điều chỉnh các loại quan hệ xã hội
cũng mang tính chất đó.
1.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức chủ yếu của pháp luật xã hội chủ
nghĩa vì những lý do sau :
-

Tập quán pháp, xét về nguồn gốc, bắt nguồn từ tập quán đã lu

truyền trong xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà tập quán đợc hình thành
một cách tự phát, mang tính bảo thủ cao, ít biến đổi. Hơn nữa, tập quán pháp
không phải do cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất ban hành, do đó không thể
phản ánh tập trung và đầy đủ đợc ý chí, lợi ích của nhân dân lao động, không

đảm bảo đợc một trong những yêu cầu quan trọng nhất của nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa là triệt để tôn trọng giá trị pháp lý cao nhất của hiến pháp do
Quốc hội ban hành. Mặc dù vậy, nhà nớc xã hội chủ nghĩa cũng thừa nhận và
nâng lên thành pháp luật một số tập quán thể hiện văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ( ví dụ, tập quán nghỉ tết Nguyên Đán của Việt Nam). Cho tới nay ở
Việt Nam tập quán pháp không đợc thừa nhận là nguồn của pháp luật.
-

Tiền lệ pháp là quyết định về từng vụ việc cụ thể của tòa án hoặc

cơ quan hành chính đợc nhà nớc thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết các vụ
việc tơng tự xảy ra sau này. Việc áp dụng tiền lệ pháp đòi hỏi phải có sự đối


11
chiếu các tình tiết của vụ việc đang xem xét với các tình tiết của vụ việc tơng tự
đã đợc giải quyết trớc đó, cho nên nó dễ dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng. Đồng
thời, tiền lệ pháp cũng không thể đáp ứng đợc một trong những yêu cầu cơ bản
của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là triệt để tôn trọng tính tối cao của
hiến pháp vì nó không phải do cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất ban hành. ở
nớc ta, hằng năm, Tòa án nhân dân tối cao có tổng kết việc xét xử những vụ việc
mà cha có pháp luật điều chỉnh rồi đa ra văn bản hớng dẫn, trong đó nêu rõ đờng
lối, phơng hớng, cách thức xét xử trong khi chờ cơ quan nhà nớc có thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Nhng đây không phải là
những tiền lệ pháp mà chỉ là văn bản hớng dẫn chỉ đạo việc xét xử mà thôi.
Văn bản quy phạm pháp luật có những u thế riêng mà các văn bản khác
không có, bảo đảm cho nó xứng đáng là nguồn chủ yếu của pháp luật. Nhứng u
thế đó của văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở những đặc điểm dới đây:
- Một là, chỉ do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm
quyền ban hành. ở Việt Nam, theo Hiến pháp 1992 và Luật ban hành văn bản

quy phạm pháp luật ( có hiệu lực từ 01/01/1997, đợc sửa đổi, bổ sung năm
2002), các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật gồm: Quốc hội, ủy ban thờng vụ Quốc hội, Chủ tịch nớc, tập thể Chính phủ,
Thủ tớng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao,Viền trởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân các
cấp, ủy ban nhân dân các cấp ( theo Điều 18 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, tổ chức chính trị-xã hội có thể cùng với xơ quan nhà nớc có thẩm
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch khi có quy định của pháp
luật về việc tổ chức chính trị-xã hội đó tham gia quản lý nhà nớc).
- Hai là, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật luôn luôn theo thủ tục,
trình tự luật định. Chẳng hạn, ở Việt Nam, theo Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, việc ban hành luật phải theo trình tự sau: soạn thảo dự án luật, thẩm
tra dự án luật bởi Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, trình báo cáo
thẩm tra dự án luật lên ủy ban thờng vụ Quốc hội để ủy ban thờng vụ Quốc hội


12
cho ý kiến, trình dự án luật lên Quốc hội để Quốc hội thảo luận và thông qua,
công bố luật đã đợc Quốc hội thông qua bằng lệnh của Chủ tịch nớc.
- Ba là, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật gồm những quy tắc xử sự
có tính chất bắt buộc chung. Đó là những khuôn mẫu của hành vi mà mọi thành
viên xã hội hoặc các cá nhân, cơ quan nhà nớc, tổ chức có liên quan phải xử sự
theo.
- Bốn là, đợc nhà nớc bảo đảm thực hiện. Là tổ chức quyền lực của nhân
dân, nhà nớc sử dụng mọi biện pháp về kinh tế, chính trị, t tởng, đạo đức, văn
hoá, pháp luật, trong đó có cả biện pháp cỡng chế nhà nớc mang tính trừng phạt
để đảm bảo thực hiện các quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành. Biện pháp
cỡng chế có tính trừng phạt chỉ đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền áp dụng khi
có vi phạm pháp luật xảy ra và việc áp dụng đó cũng dựa trên cơ sở và nhằm giáo
dục, thuyết phục, cải tạo.

- Năm là, đợc thực hiện nhiều lần trong thực tế đời sống. Khác với văn bản
áp dụng pháp luật có tính cá biệt( văn bản này chỉ đợc thực hiện một lần khi có
hiệu lực pháp luật), văn bản quy phạm pháp luật đợc tất cả thành viên xã hội
hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện nhiều lần cho tới khi nó bị
đình chỉ hoặc bị sửa đổi hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ bởi cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền.
Nh vậy, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự
chung, đợc Nhà nớc bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hớng xã hội chủ nghĩa và đợc áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống.
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(có hiệu lực từ 01/01/ 1997, đợc sửa đổi, bổ sung năm 2002), các văn bản quy
phạm pháp luật đợc chia thành hai loại là văn bản luật và văn bản dới luật. Văn
bản luật do Quốc hội ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật, gồm Hiến
pháp, luật, bộ luật, nghị quyết. Văn bản dới luật do các cơ quan nhà nớc khác ở
Trung ơng và địa phơng ban hành nhằm thi hành các văn bản luật, gồm pháp


13
lệnh, nghị quyết của ủy ban thờng vu Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nớc; nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tớng Chính
phủ; quyết định chỉ thị, thông t của Bộ trởng, thủ trởng cơ quan ngang bộ; nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị,
thông t của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông t của
Viện trởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; nghị quyết, thông t liên tịch giữa các
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nớc có thẩm quyền với tổ
chức chính trị-xã hội trong trờng hợp tổ chức đó đợc pháp luật cho phép tham gia
quản lí nhà nớc; nghị quyết của Hội đồng nhân dân; quyết định, chỉ thị của ủy
ban nhân dân.
1.3. Đặc điểm hệ thống pháp luật


Hệ thống pháp luật Việt Nam đợc hình thành trong những điều kiện hoàn
cảnh lịch sử nhất định, gắn liền với sự phát triển của đất nớc. Hệ thống pháp luật
Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Tính thống nhất và hài hòa: các quy phạm pháp luật không phải do
một cơ quan nhà nớc ban hành mà chúng đợc ban hành bởi các cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền khác nhau nhằm điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội khác
nhau. Tuy nhiên, không vì thế mà các quy phạm pháp luật này mâu thuẫn với
nhau mà ngợc lại, các quy phạm pháp luật này liên quan chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau và đều nhằm mục đích là cùng nhau điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Các cơ quan nhà nớc khi ban hành các quy phạm pháp luật cũng phải
tôn trọng tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; các quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nớc cấp dới ban hành phải phù hợp và không trái với những quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nớc cấp trên; khi ban hành phải căn cứ vào Hiến
pháp, luật và các văn bản hớng dẫn của cơ quan nhà nớc cấp trên; quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nớc cấp trên là cơ sở để cơ quan nhà nớc cấp dới tiếp
tục cụ thể hóa, chi tiết hóa để các văn bản pháp luật này đợc dễ dàng thực hiện
trong thực tế.


14
- Hệ thống pháp luật Việt Nam đợc phân chia thành những bộ phận để
diều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội quan trọng. Xã hội mà chúng ta đang sống
tồn tại trong đó những mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng và phong phú và
những quan hệ xã hội quan trọng nhất, cơ bản nhất đều cần đến sự điều chỉnh
của pháp luật. Tuy nhiên, mỗi loại quy phạm pháp luật chỉ điều chỉnh một loại
quan hệ xã hội mà mỗi loại quan hệ xã hội lại có nhứng đặc điểm, tính chất riêng
cho nên cần phải có các nhóm quy phạm pháp luật tơng ứng để diều chỉnh. Vì
vậy, cần thiết phải phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận để điều chỉnh
những loại quan hệ xã hội khác nhau. Các yếu tố cấu thành nên hệ thống pháp
luật là ngành luật, chế định luật, quy phạm pháp luật. Việc phân chia hệ thống

pháp luật còn là căn cứ để xác định tính toàn diện của hệ thống pháp luật
- Tính khách quan: hệ thống pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển do nhu
cầu khách quan của sự phát triển xã hội và nhữnh đòi hỏi mang tính khách quan
của con ngời. Ví dụ: hiện nay tệ nạn tham nhũng trong cán bộ, công chức nhà nớc diễn ra ngày càng nhiều và đang trở thành vấn nạn ở nớc ta.Vì vậy, Nhà nớc
đã ban hành Luật phòng chống tham nhũng hoặc về mặt văn hoá nhiều luật mới
đã đợc ban hành nh Luật di sản văn hoá, Lụât du lịch...Nh vậy, hệ thống pháp
luật đợc xây dựng xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển xã hội chứ
không phải đợc hình thành từ ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ
chức nào. ở nớc ta hiện nay, với quá trình hội nhập và hợp tác, Đảng, Nhà nớc
và nhân dân ta đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật để đạt đợc các tiêu
chuẩn: toàn diện, đồng bộ, khoa học, có tính khả thi cao.
1.4. Những căn cứ để phân định các quy phạm pháp luật thành
các ngành luật

Muốn xây dựng đợc một hệ thống pháp luật thống nhất phải xây dựng đợc
các ngành luật, muốn xây dựng đợc các ngành luật phải xác định đợc căn cứ
phân định các ngành luật. Vì vậy, căn cứ chủ yếu để phân định ngành luật là đối
tợng điều chỉnh và phơng pháp điều chỉnh của pháp luật.


15
Đối tợng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà pháp luật hớng tới, tác động tới .
Mỗi quy phạm pháp luật chỉ điều chỉnh một hay một số quan hệ xã hội cơ
bản mỗi chế định luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội cơ bản đồng nhất về
tính chất và nội dung và mỗi ngành luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội cơ
bản giống nhau về tính chất và nội dung. Các quan hệ xã hội trong mỗi lĩnh vực
có tính dặc thù. Dựa vào tính đặc thù của các quan hệ xã hội cơ bản có thể xác
định đợc ranh giới giữa các ngành luật . Ví dụ: những quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình khác với những quan hệ mang tính chất
chấp hành và điều hành trong quản lý nhà nớc. Do đó, những quy phạm điều

chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực dân sự hợp thành ngành luật dân sự , những quy
phạm điều chỉnh những quan hệ mang tính chất chấp hành và điều hành phát
sinh trong quá trình quản lý nhà nớc hợp thành ngành luật hành chính.
Nhng trên thực tế, những quan hệ xã hội không phải lúc nào cũng là đối tợng điều chỉnh của một ngành luật duy nhất mà xuất phát từ mối quan hệ mật
thiết giữa các loại quan hệ xã hội với nhau mà nhiều khi quan hệ xã hội thuộc
đối tợng điều chỉnh của hai hoặc nhiều ngành luật. Ví dụ: quan hệ sở hữu không
chỉ là đối tợng điều chỉnh của ngành luật dân sự mà còn là đối tợng điều chỉnh
của luật hình sự, luật hành chính. Trong trờng hợp đó, nếu chỉ căn cứ vào đối tợng điều chỉnh thì rất khó xác định những quy phạm pháp luật là của ngành luật
nào. Vì vậy, phải dựa vào căn cứ đó là phơng pháp điều chỉnh.
Phơng pháp điều chỉnh là cách thức mà ngành luật sử dụng để tác động lên
các quan hệ xã hội thuộc đối tợng điều chỉnh của ngành luật đó. Nhà nớc sử
dụng nhiều phơng pháp điều chỉnh khác nhau, nhng có hai phơng pháp quan
trọng nhất là phơng pháp mệnh lệnh-phục tùng đợc sử dụng để điều chỉnh quan
hệ xã hội mà giữa các chủ thể không bình đẳng về địa vị pháp lý (quan hệ giữa
cơ quan tiến hành tố tụng với ngời tham gia tố tụng...) và phơng pháp bình đẳng,
tự thỏa thuận, tự định đoạt đợc sử dụng để điều chỉnh quan hệ xã hội mà giữa hai
bên tham gia bình đẳng về địa vị pháp lý (quan hệ giữa các bên trong hợp đồng,
quan hệ giữa các bên trong thừa kế,...)


16
Trong hai căn cứ để phân chia các ngành luật thì đối tợng điều chỉnh là
căn cứ quan trọng nhất vì mỗi ngành luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội
nhất định, trong khi đó một phơng pháp điều chỉnh có thể đợc sử dụng trong
nhiều ngành luật và một ngành luật cũng có thể đợc sử dụng cả hai phơng pháp
điều chỉnh. Ví dụ: ngành luật tố tụng hình sự sử dung cả hai phơng pháp mệnh
lệnh-phục tùng ( quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với ngời tham gia tố
tụng) và phơng pháp bình đẳng ( quan hệ giữa những ngời tham gia tố tụng với
nhau).
Tuy nhiên, việc phân định hệ thống pháp luật thành các ngành luật theo tiêu

chí đối tợng điều chỉnh và phơng pháp diều chỉnh chỉ mang tính chất tơng đối
mà thôi bởi một lĩnh vực quan hệ xã hội có thể thuộc đối tợng điều chỉnh của
nhiều ngành luật khác nhau và có thể đợc điều chỉnh bởi nhiều phơng pháp khác
nhau.
1.5. Những tiêu chí cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của
một hệ thống pháp luật

Không phải cứ xây dựng đợc tất cả các ngành luật là đã xây dựng đợc một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh mà phải xem ngành luật đó có cần thiết và có phù
hợp với điều kiện thực tế hay không. Vì vậy, việc đa ra các tiêu chí khi dựng hệ
thống pháp luật là rất cần thiết. Để đánh giá về một hệ thống pháp luật, xác định
mức độ hoàn thiện của nó cần dựa vào những tiêu chí đợc xác định về mặt lý
thuyết, từ đó liên hệ với hoàn cảnh và điều kiện thực tế trong mỗi giai đoạn nhất
định, xem xét một cách khách quan để từ đó rút ra những ra những kết luận, làm
sáng tỏ những u điểm và nhợc điểm của hệ thống pháp luật. Có nhiều tiêu chuẩn
để đánh giá mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật nhng có bốn tiêu
chuẩn cơ bản đó là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính khoa học và hiệu quả.
1.5.1. Tính toàn diện
Tính toàn diện là tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên thể hiện mức độ hoàn
thiện của một hệ thống pháp luật. Tính toàn diện thể hiện ở chỗ: ở cấp độ chung
hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành luật và đợc thể hiện thống nhất trong hệ
thống văn bản pháp luật tơng ứng; ở cấp độ cụ thể, tính toàn diện thể hiện ở chỗ:


17
mỗi ngành luật có đủ các chế định luật và mỗi chế định luật có đủ các quy phạm
pháp luật.
1.5.2. Tính đồng bộ
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự thống nhất của hệ
thống pháp luật đó.Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng đợc xem xét dới

hai góc độ: ở góc độ chung nhất đó là sự đồng bộ giữa các ngành luật với nhau,
mỗi ngành luật tuy điều chỉnh những lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau nhng
không chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Do đó, phải xác định đợc ranh giới phân
định các ngành luật. ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ thể hiện ở sự thống nhất,
không mâu thuẫn, không chồng chéo giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống
pháp luật là ngành luật, chế định luật và quy phạm pháp luật. Các quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nớc cấp dới ban hành khồng đợc trái với những quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nớc cấp trên; quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nớc cấp trên là cơ sở để cho cơ quan nhà nớc cấp dới tiếp tục cụ thể hóa, chi
tiết hóa.
1.5.3. Tính khoa học
Tính khoa học cũng là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật.Tính khoa học không chỉ đợc thể hiện về mặt
nội dung mà còn đợc thể hiện ở trình độ kỹ thuật pháp lý. Về mặt nội dung, các
quy phạm pháp luật đợc ban hành xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật
của các quan hệ xã hội, từ thực tiễn khách quan chứ không xuất phát từ ý chí chủ
quan của bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào. Đồng thời, mọi lĩnh vực quan
hệ xã hội quan trọng và cơ bản đều đợc điều chỉnh bằng pháp luật, không có
những khoảng trống. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh những lĩnh vực quan hệ
xã hội nào thì phải đợc thể hiện dới những hình thức văn bản phù hợp với các
quy phạm pháp luật đó.Tính khoa học còn thể hiện ở trình độ kỹ thuật pháp lý
nh những nguyên tắc tối u đợc vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật, cách biểu đạt bằng ngôn ngữ phải đảm bảo tính cô đọng,


18
lôgic, chính xác và một nghĩa; các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một lĩnh
vực quan hệ xã hội phải đợc trình bày ở trong cùng một văn bản.
1.5.4. Tính hiệu quả
Pháp luật đợc ban hành nhằm mục đích điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ

xã hội cơ bản và quan trọng, điều chỉnh hành vi của con ngời, do đó, khi pháp
luật đa vào thực tiễn phải phát huy đợc hiệu quả của nó. Pháp luật là phơng tiện
điều chỉnh các quan hệ xã hội nên hiệu quả điều chỉnh của nó trớc hết là làm
thay đổi đợc các quan hệ xã hội theo mong muốn đặt ra của nhà làm luật. Tuy
nhiên, để đạt đợc mục đích đó, không phải bằng bất cứ giá nào mà nhà làm luật
phải tính toán sao cho chi phí bỏ ra ít nhất nhng kết quả đạt đợc cao nhất. Muốn
vậy, pháp luật ban hành phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Pháp
luật phụ thuộc vào kinh tế, vì kinh tế là nguồn gốc phát sinh pháp luật, quan hệ
kinh tế là nội dung của pháp luật, cơ cấu kinh tế quyết định cơ cấu hệ thống pháp
luật. Nh vậy, pháp luật phải phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế, không đợc cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển kinh tế thì khi đó pháp luật mới phát
huy đợc tác dụng tích cực của mình. Vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật không đợc bỏ qua mối quan hệ khách quan này.
1.6. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi và phát triển của hệ
thống pháp luật

Hệ thống pháp luật tự bản thân nó không biến đổi và phát triển mà phải có
những yếu tố nhất định tác động đến nó. Chính các yếu tố này đã không ngừng
làm cho hệ thống pháp luật phát triển và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát
triển của đất nớc và tình hình thế giới. Có nhiều yếu tố tác động đến sự biến đổi
và phát triển của hệ thống pháp luật nhng có một số yếu tố chủ yếu sau:
1.6.1.Yếu tố về chính trị
Pháp luật và chính trị có quan hệ mật thiết với nhau. Đờng lối chính trị là sự
biểu hiện tập trung ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua quyền lực chính trị,
giai cấp thống trị thể hiện đợc ý chí, đờng lối, chủ trơng chính sách của mình.
Do đó, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, đờng lối chính trị trớc hết thể


19
hiện ở những chính sách kinh tế mà các chính sách kinh tế đó muốn biến thành
hiện thực phải thông qua pháp luật, cho nên đờng lối, chính sách của giai cấp

thống trị là cơ sở và nội dung của pháp luật, còn pháp luật là phơng tiện quan
trọng nhất thể hiện đờng lối, chính sách của giai cấp thống trị, trong đó có đờng
lối, chính sách về kinh tế. Vì vậy, khi đờng lối, chính sách về kinh tế thay đổi do
những thay đổi của hoàn cảnh trong nớc và quốc tế thì đờng lối chính trị cũng
phải thay đổi theo, dẫn đến sự thay đổi của pháp luật .
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chủ trơng, đờng lối
chính sách của Đảng cộng sản, trong đó đờng lối chính sách của Đảng chỉ đạo
phơng hớng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.Pháp luật luôn phản ánh
chính sách, chủ trơng, đờng lối của Đảng, là sự thể chế hóa đờng lối, chủ trơng
chính sách của Đảng. Trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải
thấm nhuần các quan điểm của Đảng để thể chế hóa thành các quy phạm phạm
pháp luật phù hợp. Tuy nhiên, các chủ trơng, chính sách của Đảng đề ra phải căn
cứ vào điều kiện và hoàn cảnh khách quan chứ không phải đợc đề ra bởi ý chí
chủ quan của bất cứ một cá nhân nào. Khi tình hình chính trị thế giới và trong n ớc có sự biến đổi thì Đảng cũng cần đổi mới t duy, quan điểm nhìn nhận cho phù
hợp vơi thực tiễn để khi thể chế hóa thành pháp luật thì đờng lối, chính sách của
Đảng mới nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Trong những năm gần đây, tình hình chính trị thế giới có nhiều thay đổi
mạnh mẽ. Đó là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế
giới; sự xóa bỏ sự phân biệt về chế độ chính trị giữa các quốc gia với nhau; sự
xuất hiện của khủng bố quốc tế; chiến tranh giữa các nớc hồi giáo ngày càng trở
nên mạnh mẽ... Tất cả những yếu tố chính trị đó buộc các quốc gia phải nhìn
nhận lại đờng lối đối ngoại của mình và trên cơ sở đó xây dng hệ thống pháp luật
cho phù hợp với tình hình trong nớc và quốc tế .
ở Việt Nam, tình hình chính trị cũng có nhiều thay đổi, tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội. Đồng thời Đảng cũng đổi mới t duy và có cách nhìn
nhận mới về thời cuộc.Với chủ trơng xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Đảng và Nhà nớc đang không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ


20

thống pháp luật cho phù hợp với điều kiện trong nớc và quốc tế. Đại hội Đảng
cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã khẳng định : Điều kiện quan trọng để phát
huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cờng pháp chế
xã hội chủ nghĩa....
1.6.2.Yếu tố kinh tế
Pháp luật lệ thuộc vào kinh tế, vì kinh tế là nguồn gốc phát sinh pháp luật;
quan hệ kinh tế là nội dung của pháp luật; cơ cấu kinh tế quyết định hệ thống
pháp luật; tính chất quan hệ kinh tế, trớc hết là quan hệ sở hữu đối với t liệu sản
xuất, quyết định tính chất của pháp luật. Nh vậy, pháp luật phải phù hợp với trình
độ phát triển của kinh tế, không đợc cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triẻn
kinh tế. Pháp luật phải luôn luôn phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế.
Tuy vậy, pháp luật cũng tác động trở lại đối với kinh tế. Nếu pháp luật phản ánh
đúng trình độ phát triển của kinh tế, thể hiện đợc ý chí, lợi ích của lực lợng tiến
bộ trong xã hội, thì nó sẽ tác động tích cực tới kinh tế. Ngợc lại thì tiêu cực.
ở Việt Nam, Điều15 Hiến pháp năm 1992 quy định: "nhà nớc xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nớc.
Nhà nớc thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu t nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
so với trớc đây, nền kinh tế nớc ta có sự thay đổi về chất và phơng thức quản
lý. Cơ chế của nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm ba chế đố sở hữu và sáu
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế t bản
t nhân, kinh tế t bản nhà nớc và kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Nhà nớc đã thừa
nhận các hình thức sở hữu ( trớc đây chủ thừa nhận hình thức sở hữu nhà nớc và
sở hữu tập thể) và các thành phần kinh tế khác.
Trớc đây, do quan điểm phát triển kinh tế và duy trì cơ chế quan liêu bao
cấp lâu dài nên nền kinh tế nớc ta đã bộc lộ những nhợc điểm lớn:



21
Trong kinh tế nhà nớc, có tình trạng các doanh nghiệp nhà nớc đợc bao
cấp về vốn, về xây dựng cơ bản ,về tín dụng, lấy ngân sách nhà nớc để bù lỗ. Do
vậy, một số doanh nghiệp nhà nớc kinh doanh trì trệ, kém hiệu quả, không đảm
bảo tính độc lập sáng tạo và tự chủ trong kinh doanh, tình trạng lãng phí mức
tiêu hao vật chất quá cao, bôi chi ngân sách, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý
kém sức cạnh tranh.
Đối với kinh tế tập thể, trớc đây các hợp tác xã nông nghiệp không tuân
theo nguyên tắc đặc trng của chúng trong thành lập và hoạt động sản xuất , do đó
sản xuất kém phát triển. Trong các lĩnh vực khác do t tởng coi thờng sản xuất
nhỏ đã không có điều kiện cho các hợp tác xã phát triển, vốn liếng nhỏ, trang
thiết bị đơn giản, trình độ tổ chức kinh doanh kém .
Các hoạt động kinh tế cá thể, tiểu chủ, t bản t nhân mới đợc chú ý từ sau
khi thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc, do đó còn tỏ ra non trẻ.
Bên cạnh những kết quả đạt đợc là những mặt tiêu cực lớn, cần đấu tranh nh nạn
buôn lậu, làm hàng giả, trốn thuế, trốn đăng ký kinh doanh. T bản t nhân cha đủ
sức đầu t vào các ngành có thời gian quay vòng vốn chậm trong các lĩnh vực
quan trọng nh công nghiệp nặng, vận tải, xây dựng cơ bản. Các lĩnh vực này hầu
nh cha có luật nào điều chỉnh và do đó khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng
cần nhanh chóng ban hành các văn bản luật để điều chỉnh nó.
Đặc biệt hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những
lợi ích kinh tế,Việt Nam cần phải đối mặt với những rủi ro lớn khi tham gia hội
nhập quốc tế:
- Đối với nền kinh tế có thể mất khả năng điều tiết và kiểm soát một số
ngành, một số lĩnh vực quan trọng trong quá trình hội nhập dẫn đến việc chiếm
lĩnh thị trờng của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia, và do đó làm tổn
hại đến lợi ích của khách hàng và ngời lao động.
- Thất nghiệp sẽ là một trong những vấn đề quan trọng đối với nền kinh
tế. Vấn đề cải cách đối với các doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sa thải những ng ời lao

động nhng nghành nghề yếu kém ...


22
- Tạo ra những hình thức căng thẳng về ngân sách.Trớc hội nhập, thuế
quan còn đóng vai trò là nguồn thu to lớn cuả ngân sách. Nay tham gia vào tiến
trình hội nhập phải đề cao tự do hoá và mở cửa thị trờng nên vị trí to lớn của thuế
quan sẽ mất đi và do đó gây khó khăn về ngân sách cho chính phủ.
- Gây sức ép ngày càng tăng đến các thể chế hiện hành khi các thể chế
này tiếp xúc nhiều hơn với cơ chế tự do của các nớc khác trên thế giới. Các khái
niệm đa dạng hoá sở hữu t nhân và doanh nghiệp, thị trờng sẽ tạo ra nhiều sức ép
hơn nên hệ thống sỡ hữu hiện hành và vai trò can thiệp của chính phủ trong nền
kinh tế thị trờng.
Với những nhợc điểm, yếu kém của nền kinh tế cùng với sự tác động của
qua trình hội nhập đòi hỏi Đảng và Nhà nớc phải không ngừng xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt nam nhất là pháp luật về kinh tế. Việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật là cần thiết và đang là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiên
nay.
1.6.3.Yếu tố về xã hội
Sự phát triển, hoàn thiện của pháp luật không tách rời với sự phát triển, tiến
bộ của nền văn minh nhân loại, của trình độ phát triển văn hoá xã hội cũng chính
điều này lại tạo cở sở và đặt yêu cầu cho hệ thống pháp luật. Do đó, trình độ phát
triển của pháp luật với trình độ phát triển văn hoá, xã hội thống nhất và biện
chứng với nhau. Không ở đâu mà pháp luật đợc gọi là phát triển khi trình độ dân
trí thấp, dân chủ bị vi phạm, công bằng xã hội không đợc thc hiện.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ơng (Khoá VI) tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ: Mục tiêu của
chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy
sức mạnh của nhân tố con ngời và vì con ngời. Kết hợp hài hoà giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trởng kinh tế với tiến bộ xã hội;

giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế


23
là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã
hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế1.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, pháp luật đợc ban hành
không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển kinh tế, pháp luật phản ánh
trình độ phát triển kinh tế. Vì vậy, pháp luật do nhà nớc ban hành phải phù hợp
với nền kinh tế hiện hành. Khi kinh tế phát triển, pháp luật cũng phải đợc hoàn
thiện để phù hợp và điều chỉnh kịp thời các quan hệ kinh tế với chủ trơng của
Đảng là phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa xã hội. Vì vậy, cùng
với sự hoàn thiện về pháp luật kinh tế là sự hoàn thiện pháp luật về văn hoá, xã
hội.
Mặc dù vậy, pháp luật về kinh tế, xã hội và việc thực hiện chính sách xã hội
vẫn còn thiếu sót nhiều và vì vậy vấn đề đặt ra là phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật đó trên cơ sở Hiến pháp 1992 bảo đảm sự điều chỉnh của pháp luật các vấn
đề chính sách xã hội thực sự có hiệu quả.
Chính sách xã hội cũng nh bất kỳ chính sách nào, chỉ có thể đợc thực hiện
và phát huy đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất khi đợc xác lập dới hình thức pháp
luật nhất định và đảm bảo thực hiện chúng bởi cơ chế pháp lý thích hợp. ở đây,
sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội nảy sinh trong lĩnh vực
các vấn đề xã hội vừa thực hiện vai trò của một phơng tiện tác động, công cụ
quản lý xã hội của nhà nớc, đồng thời vừa mang lại giá trị xã hội cho sự tồn tại
và phát triển của các quan hệ xã hội khi chúng trở thành các quan hệ pháp luật.
Nhờ những giá trị xã hội của mình, pháp luật đợc xem là hình thức quan trọng
nhất thể hiện chính sách xã hội của nhà nớc. Những phơng hớng, nguyên tắc và
biện pháp của nhà nớc nhằm giải quyết các vấn đề xã hội đợc quy định trong
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác mang tính chất bất bắt buộc
chung mà mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội phải nghiêm chỉnh thực hiện.

Có thể nói, chính sách xã hôi là một trong những yếu tố tác động đến sự
phát triển của hệ thống pháp luật. Sở dĩ nói nh vậy là vì xuất phát từ vai trò của
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,
1991, tr 73.
1


24
pháp luật đối với chính sách xã hội: chính sách xã hội đợc xác lập về mặt pháp lý
có nghĩa là những nội dung của chính sách xã hội nói chung và mỗi chính sách
xã hội nói riêng đợc chuyển qua ngôn ngữ của pháp luật, tức là xác lập những
nội dung đó dới hình thức quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi chủ thể xã
hội và do đó chính sách xã hội mang tính pháp lý rõ rệt; pháp luật đảm bảo hiệu
quả quản lý các vấn đề chính sách xã hội; xác định nội dung quản lý nhà nớc các
vấn đề chính sách xã hội, tổ chức và điều hành của hệ thống các cơ quan của nhà
nớc có trách nhiệm quản lý việc thực hiện các chính sách xã hội, quyết định các
hình thức và phơng pháp quản lý trong lĩnh vực chính sách xã hội.
ở Việt Nam trớc đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chính sách
xã hội bị xem nhẹ, do đó pháp luật không phát huy đợc hết hiệu quả, chính sách
xã hội không đợc xác lập một cách đầy đủ và đồng bộ không đợc sử dụng nh là
một công cụ có hiệu lực của nhà nớc để quản lý các vấn đề xã hội. Pháp luật
điều chỉnh các vấn đề thuộc chính sách xã hội, ở nớc ta cha có tính hệ thống, có
thể nói là kém phát triển nhất của hệ thống pháp luật.Về hình thức văn bản, hầu
hết các văn bản pháp luật về chính sách xã hội đều là những văn bản dới luật đợc
ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều lần nên không tránh khỏi những nhợc điểm.Về
nội dung, còn có một số văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề thuộc chính sách xã
hội không còn thích hợp với điều kiện hiện tại, đã lỗi thời và không còn khả
năng thực hiện trong cuộc sống vì nó không phù hợp với các quan hệ xã hội mới
phát sinh .
Trong hệ thống pháp luật hiện hành của nớc ta về chính sách xã hội còn một

số mâu thuẫn khác cũng cần đợc giải quyết cấp bách.Ví dụ, trên một số lĩnh vực
của chính sách xã hội có số lợng các văn bản pháp luật điều chỉnh chồng chéo
lên nhau, nhng ở một số lĩnh vực quan trọng khác lại cha nhiều văn bản pháp
luật để điều chỉnh. Mặt khác không ít các vấn đề thuộc chính sách xã hội lại đợc
giải quyết chủ yếu ở các quy định của pháp luật kinh tế, tài chính.Và ngợc lại,
một số quy định nhằm thực hiện chính sách kinh tế lại nhằm hạn chế việc thực
hiện chính sách xã hội.


25
Nội dung quản lý nhà nớc đối với các vấn đề về chính sách xã hội và tổ
chức bộ máy thực hiện chức năng quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội
của nớc ta hiện nay còn cha đợc xác định rõ ràng, phân tán, thiếu sự phân công
và xác định chính xác chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, các hình thức và phơng pháp quản lý phù hợp với các đặc điểm của các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực này. Có nhiều vấn đề đặt ra cha tìm đợc giải pháp hiệu quả, chẳng hạn đối
với từng chính sách cụ thể thì các cơ quan nhà nớc nào có trách nhiệm chính
trong việc chuẩn bị, hoạch định và thể chế hoá, những cơ quan nhà nớc nào có
chức năng thực hiện và quản lý? các hình thức và phơng pháp quản lý nhà nớc,
cơ chế điều chỉnh của pháp luật và bảo đảm thực hiện chính sách xã hội trong
cuộc sống dới những hình thức pháp luật đặc trng và thích hợp với tính chất, nội
dung và đặc điểm của những quan hệ xã hội trong lĩnh vực này nh thế nào?...
Nhu vậy, những vấn đề xã hội đặt ra cần giải quyết là rất lớn. Tuy nhiên, ở
nớc ta pháp luật điều chỉnh các vấn đề xã hôi cha nhiều thậm chí nhiều lĩnh vực
xã hội còn cha có văn bản luật để điều chỉnh mà đợc điều chỉnh chủ yếu bằng
những văn bản dới luật về các lĩnh vực khác nhau, do đó không đảm bảo tính
toàn diện và tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải hoàn
chỉnh hơn nữa sự điều chỉnh của pháp luật các vấn đề thuộc chính sách xã hội và
quản lý thực hiện chính sách xã hội ở nớc ta hiện nay.
1.6.4.Chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại cũng là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy

việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngày nay, thế giới đang bớc vào quá trình
toàn cầu hóa. Xu thế này là tất yếu khách quan và tạo ra nhiều thay đổi trong
quan hệ giữa các nớc. Để theo kịp xu hớng này và để không bị tụt hậu so với sự
phát triển của thế giới, các nớc cần phải mở rộng quan hệ giao lu hợp tác với các
nớc khác về mọi mặt. Và một trong những phơng tiện quan trọng để thực hiện
chủ trơng này là không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc
gia. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy sự
phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia phải
phù hợp với luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế.


×