Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong TTHS và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.03 KB, 18 trang )

1

Đề 3: Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong TTHS và việc hoàn thiện
pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

MỤC LỤC
I – ĐẶT VẤN ĐỀ
II – NỘI DUNG
1. Khái quát chung
2. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS
a. Quyền của người bào chữa
b. Nghĩa vụ của người bào chữa
3. Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật
a. Về quyền của người bào chữa
b. Về nghĩa vụ của người bào chữa
c. Một số giải pháp khác

III – KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

I – ĐẶT VẤN ĐỀ
Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Ngoài việc quy định
cho người vị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, Bộ luật tố tụng hình
sự còn quy định cho họ được nhờ người khác bào chữa cho mình. Hiện nay
trong tố tụng hình sự vai trò của người bào chữa ngày càng được thể hiện rõ
ràng tại các phiên tòa và trong các giai đoạn tiến hành tố tụng khác.Quy định về


người bào chữa trong tố tụng hình sự đã có từ rất lâu trên thế giới.Tuy nhiên ở
nước ta vai trò của người bào chữa chỉ được nâng cao từ sau cải cách tư pháp,
tạo cơ sở cho việc nâng cao công tác bảo vệ quyền và lợi lích hợp pháp của
người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo.Mặc dù vậy những quy định về người
bào chữa vẫn còn có những điểm chưa hợp lí. Vậy, quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa được quy định ra sao? Liệu đã hoàn thiện và hợp lý chưa?

II – NỘI DUNG
1. Khái quát chung
Người bào chữa có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người có nguy cơ bị buộc tội. Do vậy, pháp luật cảu hầu hết các
nước trên thế giới đều ghi nhận việc tham gia tố tụng của người bào chữa. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS Việt Nam năm 2003 thì người bào chữa
có thể là: “luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo; bào chữa viên nhân dân.” Từ quy định này, có thể thấy ở Việt Nam hiện
nay pháp luật vẫn chưa quy định khái niệm cụ thể thế nào là người bào chữa.
Tuy nhiên có thể hiểu rằng, người bào chữa là người được các cơ quan tiến
hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định
người bị tạm giữ, bị can, bị cá vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị


3

cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cụ thể hơn
thì:
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật
tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người đại

diện hợp pháp cho người bị tạm giữ bị can , bị cáo là cha mẹ hoặc người giám
hộ của người bị tạm giam ,bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần.
- Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa
cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo.
Tuy là các chủ thể khác nhau tham gia vào vai trò của người bào chữa
nhưng quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trên là giống nhau theo quy định
của pháp luật.
Ngoài ra luật còn quy định về những người không được bào chữa theo
khoản 2 Điều 56 BLTTHS :
“ 2.Những người sau đây không được bào chữa:
a. Những người tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân tích của
người đã hoặc đang tiến hành tố tụng.
b. Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người
giám định hoặc người phiên dịch.”
Việc những người trên tham gia bào chữa có thể gây ảnh hưởng đến khách
quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích
của họ và họ còn có nghĩa vụ trụng thực không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can,
bị cáo.Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án.


4

2. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS
a. Quyền của người bào chữa
Quyền của người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS
năm 2003.Trong có gồm những quyền sau:
- Người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và

có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà
mình bào chữa.
Người bào chữa tham gia vào công tác lấy lời khai giúp người bị tạm giữ
ổn định về mặt tâm lí. Đồng thời cũng góp phần ngăn ngừa được vi phạm pháp
luật có thể xuất hiện từ phía các cán bộ điều tra như hạn chế các quyền của họ,
có hành vi bức cung, dùng nhục hình. Tạo áp lực cho những người tiến hành
hoạt động điều tra phải cẩn thận hơn.Mặt khác việc này cũng giúp người bào
chữa nắm rõ những chứng cứ, bám sát được vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tranh tụng tại phiên tòa.
- Đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung để
có mặt khi hỏi cung bị can.
Đây là một quy định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm
1968. Quy định này giúp cho người bào chữa chủ động về thời gian để có thể
tham dự cuộc hỏi cung, kịp thời tìm hiểu nắm bắt nội dung của vụ án ngay từ
đầu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thu thập tài liệu,
chứng cứ cần thiết cho việc bào chữa.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng , người giám định ,người phiên
dịch theo những quy định của luật tố tụng hình sự 2003.
Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch khi có đủ căn cứ theo luật định và xét thấy những
người này tiến hành hoặc tham gia ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích


5

của người mà mình bào chữa. Việc quy định mở rộng quyền này cho người bào
chữa góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được vô tư, khách quan,
đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến lợi ích của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo được công bằng và chính xác.

- Có quyền thu thập tài liệu chứng cứ liên quan tới công tác bào chữa cho
bị can, bị cáo Chứng cứ có thể thu thập từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, trừ
trường hợp các tài liệu đó là bí mật nhà nước.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc người bào chữa thu thập tài liệu, đồ
vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa không phải là hoạt động tố tụng, không
có giá trị bắt buộc những người, tổ chức, cơ quan được yêu cầu cung cấp tài
liệu, đồ vật hay những tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Các cá nhân, cơ
quan, tổ chức cungc ấp tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến bào chữa là hoàn
toàn tự nguyện. Đây là biện pháp nghiệp vụ cần thiết để người bào chữa có tài
liệu, chứng cứ để thực hiện nhiệm vụ bào chữa có hiệu quả.
- Có quyền đưa ra tài liệu , đồ vật hoặc yêu cầu.
Người bào chữa cũng được quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng,
trưng cầu giám định… nếu xét thầy điều đó là cần thiêt svà có lợi cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Những yêu cầu này một mặt nhằm bảo vệ quyền hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị cam, bị cáo, đồng thời giúp cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
- Có quyền gặp người bị tạm giam ,bị can, bị cáo trong trại tạm giam.
Qua những buổi tiếp xúc trực tiếp mà người bào chữa có thể nắm bắt được
những tình tiết vụ việc. Thu thập được những chứng cớ có lợi trong công tác gỡ
tội cho người phạm tội. Ngoài ra người bào chừa cũng góp phần phố biến pháp
luật tới người có hành vi phạm tội giúp họ hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong quá trình tham gia tố tụng, để bị cáo thành khẩn khai báo để có thể
được giảm trách nhiệm hình sự.


6

- Tham gia thu thập chứng cứ tài liệu, đọc ghi chép hồ sơ vụ án liên quan
tới công tác bào chữa.

Qua việc đọc hồ sơ, người bào chữa sẽ nắm toàn bộ nội dung vụ án, nắm
được những chứng cứ buộc tội, cũng như những chứng cứ gỡ tội, những tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với người mà họ đảm nhận việc bào
chữa. Bên cạnh đó, người bào chữa cũng có điều kiện phát hiện những sai lầm,
thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, trên cơ sở đó đưa ra những
yêu cầu, khiếu nại cần thiết với cơ quan có thẩm quyền.
- Tham gia xét hỏi, trình bày lời bào chữa tranh luận tại phiên tòa.
Trong suốt quá trình tham gia tố tụng của người bào chữa thì có thể nói giai
đoạn tranh luận , bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa lá quan trọng nhất. Trong giai
đoạn này người bào chữa thể hiện rất rõ vai trò của mình trong việc đưa ra
những luận điểm nhằm gỡ tội cho bị cào, đưa ra những lí lẽ, lập luận của mình
để bác bỏ những lời buộc tội của bị cáo theo quy định của pháp luật.
- Khiếu nại những quyết định, hành vi tố tụng sai trái của những người tiến
hành tố tụng.
Pháp luật quy định cho người bào chữa có quyền này nhằm đảm bảo cho
hoạt động tố tụng luôn mang tính khách quan và toàn diện, tránh được những
oan sai ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó,
việc quy định người bào chữa có quyền này nhằm đảm bảo quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân trong tố tụng hình sự.
- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không
phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Tất
nhiên, kháng cáo đó phải theo hướng có lợi cho bị cáo đúng như nhiệm vụ bào
chữa của họ tại phiên tòa.


7


b. Nghĩa vụ của người bào chữa
Nghĩa vụ của người bào chữa được quy định trong khoản 3 Điều 58 Bộ luật
tố tụng hình sự 2003. Trong đó bao gồm những nghĩa vụ sau đây :
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng rõ những tình
tiết để nhằm giảm tránh nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo.
Trong phạm vi pháp luật cho phép, người bào chữa có nghĩa vụ thực hiện
các hành vi tố tụng khác nhau để bào chữa hiệu quả cho người bị buộc tội.
Người bào chữa không được làm bất cứ việc gì xấu đi tình trạng của người bị
buộc tội.
- Giúp người bị tạm giam, bị can, bị cáo, về mặt pháp lí nhằm bảo vệ tốt
nhất quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
Không phải bất kỳ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nào cũng có kiến thức về
pháp luật. Trong những trường hợp này, người bào chữa có vai trò rất quan
trọng, không chỉ là người tư vấn, giúp đỡ về mặt pháp lý mà họ còn là nguồn
động viên giúp cho những người này có tâm lý ổn định, nhận thức được hành vi
của mình. Từ đó có thái độ ăn năn, hối hận và tin tưởng và sự khoan hồng của
pháp luật.
- Không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình nhận bào chữa
nếu không có lí do chính đáng.
Quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi
vì người bào chữa là người có thể tham gia suốt quay trình giải quyết vụ án, họ
là người nắm bắt được các chứng cứ, tình tiết của vụ án, nếu từ chối bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ làm quá trình thu thập chứng cứ bị gián
đoạn gây ảnh hưởng quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như gây
ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.
- Hoạt động bào chữa phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự thật, tôn
trọng pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hay xúi dục người khác khai
báo gian dối hay cung cấp chứng cứ sai sự thật.



8

Người bào chữa là những người có kiến thức và hiểu biết về pháp luật. Vì
vậy, khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thì trước hết họ phải tôn trọng sự thật và pháp luật, sử dụng pháp luật làm
phương tiện để thực hiện mục đích bào chữa, không được sử dụng các biện pháp
trái pháp luật trong khi bào chữa.
- Có mặt theo giấy triệu tập của tòa án.
Mọi sự chuẩn bị của người bào chữa là nhằm bào chữa cho bị cáo trước tòa.
Sự giúp đỡ và bảo vệ của người bào chữa tại phiên tòa là không thể thiếu được
với bị cáo. Tại phiên tòa, trong quá trình xét hỏi, tranh luận, người bào chữa có
thể phát hiện hoặc cung cấp thêm những tình tiết mới có lợi cho bị cáo, nếu họ
vắng mặt thì đây có thể coi là một bất lợi cho bị cáo mặc dù có thể họ đã gửi
trước bản bào chữa cho Tòa án.
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết đượ khi thực hiện việc
bào chữa; không sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào
mục đích xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền , lợi ích hợp pháp cảu cơ quan, tổ
chức và cá nhân.
Nhằm đảm bảo những bí mật thuộc về nội dung vụ án được xác định trong
quá trình điều tra nói riêng và quá trình giải quyết vụ án nói chung. Quy định
nghĩa vụ này cho người bào chữa là cần thiết trong việc bảo vệ bí mật quốc gia
và lợi ích chung toàn xã hội.

3. Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật
a. Về quyền của người bào chữa
Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, nhục hình… là
vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm uy tín của cơ quan
điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất dân chủ, không
khách quan… Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có
quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, có



9

mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra luật sư chỉ được
tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt luật sư.
Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy chứng nhận người bào
chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt
động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có luật sư mới có giá
trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất mâu thuẫn và
tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải được điều tra viên
đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật sư bào chữa thì phải
hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung buộc tội ghi
lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật sư (mặc dù Điều 305 BLTTHS
quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định luật sư) nhưng họ không thực
hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối luật sư trong khi họ chưa hề thực
hiện Điều luật là chỉ định luật sư thì bản cung lại được chấp nhận là hợp pháp,
Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Đây là lỗ
hổng lớn mà lần sửa đổi BLTTHS tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải quyết
thấu đáo.

Để khắc phục, luật cần chi tiết theo hướng ngoài điểm điều luật đã quy định
điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; cách thức
trao đổi, liên hệ để thông báo với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo
mật thông tin điều tra. Khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề,
nội dung điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về
quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản
đối câu hỏi mớm cung, bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội
dung biên bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định
tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung. Điểm e khoản 2 Điều

58 cần bổ sung theo tinh thần: luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị
tạm giữ,bị can, bị cáo khi cần thiết. trong trường hợp đặc biệt, một số tội cụ thể
luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm
nghe của cán bộ tố tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp


10

chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó
khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức
và hạn chế thời gian được gặp.
Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra, truy tố
mà không có sự tham gia của luật sư thì không được công nhận là chứng cứ. Sự
bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những
nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung
khai nếu vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư trong các buổi lấy cung có 2 ý
nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức cung, nhục hình; và không
để xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát
bởi việc lấy cung đã có người thứ ba chứng kiến.
Để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa hoàn chỉnh hơn, cần bổ sung
vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ
“người bào chữa” nhằm đảm bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào
chữa biết được khi tham gia tố tụng. Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho
phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc
gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nếu vẫn quy định chung chung là không
được tiết lộ bí mật điều tra mà không kèm theo quy định khả năng áp dụng chế
tài nếu có sự vi phạm thì cơ quan điều tra e ngại và cho việc giữ bí mật điều tra
là cái cớ để không tạo điều kiện luật sư tham gia làm cho quy định đó thiếu tính
khả thi. Luật không qui định cụ thể cơ quan tố tụng phải chịu chế tài thế nào nếu
không tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của người bào chữa

không được thực hiện và hầu như bị vi phạm. Luật cần quy định các chế tài cụ
thể đối với các hành vi cản trở của Điều tra viên cũng như cơ quan điều tra đối
với sự tham gia của luật sư.
Đã có rất nhiều ý kiến cần phải mở rộng quyền của người bào chữa hơn
nữa.Tuy nhiên còn có nhiều ý kiến cho rằng, việc mở rộng các quyền của người
bào chữa sẽ gây nhiều “khó khăn” cho các cơ quan tiến hành tố tụng? Có lẽ điều
đó chỉ đúng một phần nhỏ khi ở phương diện là người tiến hành tố tụng năng lực


11

và trình độ còn hạn chế ở mấy năm trước khi sửa đổi BLTTHS năm 2003. Nay
để đáp ứng yêu cầu cải cách đồng bộ hệ thống các cơ quan tư pháp thì đội ngũ
cán bộ tư pháp đã được tăng cường về năng lực chuyên môn và nhận thức nghề
nghiệp để đáp ứng xu thế hội nhập của đất nước. Đến nay phải nói rằng vấn đề
này không còn là hạn chế không thể khắc phục mà chúng ta phải coi đó là những
“khó khăn cần thiết” để bảo đảm một nền tư pháp trong sạch, góp phần chống
oan sai trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, và chính ý nghĩa và mục
đích lớn lao đó thì chúng tôi cho rằng từ việc mở rộng quyền của người bào
chữa ở lần sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 thì nay cần quy định thêm cơ
chế đảm bảo quyền ngay trong luật bằng cách quy định sự tham gia của luật sư
là bắt buộc. Quy định này sẽ khắc phục sự phân biệt và hướng dẫn không bình
đẳng của mỗi cơ quan THTT về việc đảm bảo quyền của luật sư trong trường
hợp luật sư mời khác luật sư chỉ định. Cần phải nhìn nhận một thực tế tích cực là
có sự tham gia của luật sư trong các hoạt động tố tụng thì người THTT phải thận
trọng và kỹ càng hơn trong mọi hoạt động của mình. Mặt khác, luật sư là người
hiểu luật, thông thạo về tố tụng nên sẽ là nhà “tư vấn” quan trọng cho cơ quan
và người THTT mỗi khi họ “làm theo thói quen” hoặc do quá bận mà “lỡ quên”
quy định của BLTTHS mà không thực hiện đúng trình tự bắt buộc của quy trình
tố tụng. Như vậy, sự sửa đổi , bổ sung theo hướng phân tích trên sẽ là tạo điều

kiện thuận lợi hơn cho cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình đồng thời đảm bảo quyền của người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, BL TTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập chứng cứ
của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho phép luật sư chỉ thu thập
chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích
của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật quốc gia, bí mật công tác.
Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những người và các cơ quan, tổ
chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người khác có lưu giữ hoặc biết về những
tình tiết liên quan có lợi cho họ. Bộ luật quy định người bào chữa có quyền có
mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và
nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi những người này là quy định quyền


12

nhưng không đảm bảo quyền cho luật sư. Vì vậy cần quy định luật sư tham gia
hỏi cung được hỏi bị can và những người khác (nếu là đối chất) sau khi cán bộ
điều tra đã hết câu hỏi như trình tự hỏi tại phiên tòa là của người bào chữa có
quyền có mặt trong các hoạt động điều tra khác “quyền có mặt..” này của người
bào chữa chỉ là người “chứng kiến” nhưng cũng không được đảm bảo. Vậy tại
sao sự “chứng kiến” của luật sư lại khó khăn như vậy trong khi luật sư sẵn sàng
tham gia. Rõ ràng khi quy định cho luật sư quyền này nhà làm luật phải xuất
phát từ nguyên tắc chung là đảm bảo quyền của bị can trong mọi hoạt động và
mọi giai đoạn tố tụng họ đều có quyền có luật sư. Đồng thời sự có mặt của luật
sư nhằm đảm bảo hạn chế sự vi phạm tố tụng của cơ quan THTT dù ở bất cứ
giai đoạn nào.

b. Về nghĩa vụ của người bào chữa
Thực tiễn hoạt động bào chữa của người bào chữa cho thấy các quy định
trên của BLTTHS 2003 được người bào chữa thực hiện đúng sẽ góp phần cùng

với cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của ng bị tạm giữ bị can bị cáo.Tuy nhiên, cũng còn không ít trường
hợp do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ pháp luật quy đinh nên người
bào chữa đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm
vụ bào chữa cho người bị tạm giữ bị can bị cáo.Có luật sư khi bào chữa không
làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ cho bị can bị cáo mà lại buộc
tội lại bị can bị cáo.Ngược lại có luật sư đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả những
biện pháp mà pháp luật cấm để biện bạch cố tình đổi trắng thành đen vì những
khoản thù lao mà thân chủ trả rất hậu.Có những luật sư xui bị cáo giả vờ ốm để
hoãn phiên tòa, có luật sư vừa mới khai mạc phiên tòa ko cần xin phép chủ tọa
phiên tòa đã lớn tiếng tuyên bố : “ tòa án đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm
trọng pháp luật”; có luật sư lợi dụng mối quan hệ với tòa án để nhằm làm tác
động giảm trách nhiệm cho bị cáo mà mình bào chữa mà không sử dụng các
biện pháp để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm


13

trách nhiệm cho bị can, bị cáo; có luật sư cố tình không có mặt tại phiên tòa
hoặc nêu ra những lí do không chính đáng để hoãn phiên tòa như: Vì phải bào
chữa ở vụ án khác ko về kịp hoặc vì chưa có thời gian nghiên cứu hồ sơ…Mặc
dù pháp luật đã quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật mà mình biết
được khi làm nhiệm vụ, nếu tiết lộ bí mật điều tra thì tùy trường hợp phải chịu
trách nhiệm theo các điều 263, 264, 286, 287, 327, 328 bộ luật hình sự, nhưng
có nhiều trường hợp những bí mật nhà nước , bí mật điều tra bí mật công tác và
cả bí mật về đời tư mà người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín vẫn bị người bào
chữa tiết lộ, thậm chí dùng nó để gỡ tội cho bị can bị cáo mà mình bào chữa.
Người bào chữa là do người bị tạm giữ bị can bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ lựa chọn nhưng trong những trường hợp bị can bị cáo bị khởi
tố truy tố hoặc bị đưa ra xét xử về tội mà khung hình phạt đối với tội ấy là tử

hình hoặc bị can bị cáo là người chưa thành niên là người có nhược điểm về thể
chất hay tinh thần, thì tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng mà cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, hay tòa án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử
người bào chữa cho họ hay đề nghị Ủy ban mặt trân tổ quốc việt nam, tổ chức
thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên tổ chức mình.Việc
phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo và việc văn phòng
luật sư cử người bào chữa cho bị cáo là nghĩa vụ của đoàn luật sư và văn phòng
luật sư.Quy định này nhằm bảo đảm quyền dc bào chữa của bị can bị cáo trong
những trường hợp mà họ không có khả năng tự bào chữa được.Nếu đã cử mà bị
can bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay đổi hoặc từ chối
người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu cầu của họ.
Thực tiễn xét xử đã có 1 số tòa án đã hiểu không đúng quy định này nên 1
số trường hợp lúng túng trong việc yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng
luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Về phía tòa án cũng có trường hợp lẽ ra
không cần phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư củ người bào
chữa cho bị cáo nhưng vẫn yêu cầu.Ví dụ bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi
nhưng khi đưa vụ án ra xét xử họ đã hơn 18 tuổi, bị cáo không mời người bào


14

chữa nhưng tòa án vẫn yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử
người bào chữa cho bị cáo.
Việc cử người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa nói chung được thực hiện
nghiêm túc nhưng việc cử người bào chữa cho bị can trong giai đoạn điều tra
chưa được quan tâm đúng mức, rất ít trường hợp cơ quan điều tra hoặc viện
kiểm sát yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa
cho bị can ở giai đoạn điều tra, có trong hợp luật sư đăng kí bào chữa cho bị can
nhưng hơn 3 tháng vẫn chưa được cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận nhiệm
vụ. Việc người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi khởi tố bị can đối với bị

can là người chưa thành niên người có nhược điểm về tâm thần và thể chất là
điều bắt buộc và mọi hoạt động điều tra của cơ quan điều tra phải có mặt của
người bào chữa.
Với những quy định mới về người bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự
2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần cho việc điều tra
truy tố xét xử đúng người đúng tội đảm bảo dân chủ công bằng văn minh.Tuy
nhiên để các quy định bộ luật tố tụng hình sự 2003 được thực hiện, các cơ quan
có thẩm quyền cần ban hành các văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể từng quy
định của bộ luật tố tụng hình sự 2003 về chế định người bào chữa.

c. Một số giải pháp khác
Thứ nhất, cần tăng cường đào tạo đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất
lượng.
Luật sư là những người được đào tạo chuyện sâu, hiểu biết về pháp luật.
Hoạt động bào chữa của luật sư mang tính chất chuyên nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Thực tiễn hoạt động tố tụng nước ta cũng cho thấy chủ yếu luật sư tham
gia với tư cách là người bào chữa. Nhưng hiện nay đội ngũ luật sư ở nước ta vẫn
còn thiếu những luật sư giỏi, trình độ chuyên môn sắc são, đặc biệt là số luật sư


15

có năng lực và ngoại ngữ. Vì vậy, trong thời gian tới luật sư phải thường xuyên
cập nhật kiến thức, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để
đáp ứng cho hoạt động bào chữa có hiệu quả. Nhà nước cần có sự quan tâm và
tăng cường hơn nữa đối với việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ luật sư chuyên
nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, trình dộ chuyên môn cao. Cần có môi trường
thuận lợi để luật sư phát huy hết vị trí và vai trò của mình. Bên cạnh đó cũng cần
xây dựng hệ thống các quy định, biện pháp, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với

luật sư trong những trường hợp luật sư tham gia theo chỉ định. Điều này sẽ giúp
làm giảm tình trang luật sư không làm đúng trách nhiệm của mình.
Thứ hai, cần bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật đối với bào
chữa viên nhân dân.
Khi tham gia tố tụng, vai trò của bào chữa viên nhân dân chưa thực sự nổi
bật. Một phần do trình độ hiểu biết pháp luật của họ chưa cao. Bên cạnh đó,
pháp luật nước ta chưa có văn bảo quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân.
Do vậy, cần sớm ban hành những văn bản quy định cụ thể về bào chữa viên
nhân dân tương tự như quy định về luật sư. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu
biết của bào chữa viên nhân dân bằng cách: mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ với
thời gian phù hợp với đặc thù công việc, có thể từ 1 đến 2 tháng, giúp trang bị
những kỹ năng cần thiết cơ bản nhất để họ thực hiện tốt vai trò của mình khi
tham gia bào chữa bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giải thích pháp
luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật công dân.
Đối với người dân, cần tuyên truyền, phồ biến nâng cao nhận thức. Vẫn
còn nhiều người dân chưa nhận thức được vai trò quan trọng của người bào
chữa, cho rằng việc mời người bào chữa là không cần thiết. Trong khi đó họ
phần lớn là những người hiểu biết hạn chế về pháp luật nên không thể tự bào
chữa cho mình. Do vậy, quyền và lợi ích hợp pháp trong nhiều trường hợp chưa
được đảm bảo. Việc thay đổi nhận thức của người dân nói chung về vị trí, vai trò


16

của người bào chữa là cơ sở quan trọng để quyền và lợi ích hợp pháp của họ
không bị xâm phạm.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, cần có thái độ thiện cảm và tích cực hợp
tác hơn với người bào chữa, phải tạo điều kiện thuận lợi, không gây cản trở cho
người bào chữa khi họ thực hiện các quyền của mình.

Đối với người bào chữa, cần phải nhận thức được vai trò của mình, bằng
trình độ, hiểu biết pháp luật; tận tâm, tận lực bảo vệ quyền và lợi ích cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở quy định của pháp luật. Tránh tình trạng tiêu
cực, như đã nói ở trên, của nhiều luật sư lợi dụng hiểu biết về pháp luật, trong
nhiều trường hợp còn “lách luật” vì mục đích trục lợi cho bản thân mà quên đi
đạo đức cao cả của luật sư nói riêng và những người làm nghề luật nói chung.

III – KẾT LUẬN
Với những quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS 2003 và việc
chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần cho việc điều tra truy tố xét xử
đúng người đúng tội đảm bảo dân chủ công bằng văn minh.Tuy nhiên để các
quy định BLTTHS 2003 được thực hiện các cơ quan có thẩm quyền cần ban
hành các văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể về chế định người bào chữa. Đồng
thời chúng ta cũng lên xem xét những quy định được coi là chưa hợp lý đế tìm
hướng nghiên cứu và sửa đổi chúng sao cho phù hợp với pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nâng cao nhận
thức của quần chúng nhân dân, tăng cường hiệu quả của hoạt động bào chữa.


17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
2. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
3. Bộ luật TTHS của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2003.
4. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự, PGS.TS Võ Khánh
Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005;

5. “Người bào chữa trong vụ án Hình sự”, Trần Văn Bảy, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 1/2001;
6. “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự”,
Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04/2007;
7. Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của HĐTP
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất
“Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
8. Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp luật, Số 5/2004, tr.
18 – 26.
9. “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”, Văn
Hoàng Anh, Khóa luận Tốt nghiệp, Hà Nội, 2010;
10. “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong TTHS Việt Nam”, Đỗ
Đình Nghĩa, Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2004.
11. “Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả việc
tham gia tố tụng của người bào chữa”, Đinh Kiều Anh, Khóa luận
Tốt nghiệp, Hà Nội, 2011.


18

MỤC LỤC



×