Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ LIÊN ĐỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.19 KB, 18 trang )

Bài làm
I. Lời mở đầu
Thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới là một trong những quan hệ pháp
chế đinh nghĩa vụ dân sự điều chỉnh . Nó cũng chứa đựng những nội dung
cơ bản của chế định nghĩa vụ dân sự, bên cạnh đó nó cũng có thêm một số
đặc trưng khác mà pháp luật quy định.
Có thể nói quan hệ dân sự liên đới đã góp phấn rất lớn trong việc bảo
đảm quyền lợi cho chủ thể coa quyền tròn các quan hệ pháp luật dân sự.
Đây là một quan pháp luật được luật đân sự điều chỉnh khá chặt chẽ. Nhưng
bên cạnh đó nó cũng còn tồn tại không ít vấn đề cả trong lí luận và thực tiễn.
Và trong phạm vi bài tiểu luận của mình em xin làm rõ vân đề này.

II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận
Khái niệm thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới
Theo khoản 1 điều 298 thì thưc hiện nghĩa vụ dân sự liên đới là:
“Nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện
và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ
phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.”
Như vậy từ đó có thể thấy thực hiện nghĩa vụ dân sự là một chủ thể có
quyền và có nhiều chủ thể cùng phải có trách nhiệm liên đới thực hiện nghĩa
vụ. Sự ra đời của chế định liên đới thực hiện nghã vụ dân sự nhằm góp phần
bảo đảm rằng bên có quyền luôn được đảm bảo quyền lợi ngay cả khi một

1


trong số những người thuộc bên có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ.
Về khái niệm thực hiện nghĩa vụ liên đới có một số ý kiến cho rằng nó
phải bao gồm các điểm được quy định tại khoản 1 điều 299 BLDS 2005:


“Nghĩa vụ dân sự đối với nhiều người có quyền liên đới là nghĩa vụ mà theo
đó mỗi người trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có
nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”. Nhưng đây là khái niệm chỉ việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với nhiều người có quyền liên đới. Có thể hiểu
ở dây là một chủ thể có nghĩa vụ và nhiều chủ thể có quyền. Nó hoàn toàn
trái ngược với thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới ở trên là một chủ thể có
quyền và nhiều chủ thể có nghĩa vụ.
1.2Nội dung của thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới.
Trước tiên có thể khẳng định thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới nó là
một quan hệ pháp luật dân sự trong chế đinh nghĩa vụ dân sự vì thế nó phải
có đầy đủ nội dung cơ bản của chế định này. Như chủ thể, nội dung, khách
thể, đối tượng….
Từ khái niệm ở trên ta có thể thấy một trong những nội dung nổi bật
của chế định này đó là luôn có từ 2 người trở lên phải liên đới cùng chịu
trách nhiệm thực hiện một nghĩa vụ nào đó đối với bên có quyền. Những
người này phải cùng có một mối liên hệ nào đó trong việc làm phát sinh
nghĩa vụ đối với bên có quyền. Mối liên hệ này có thể là do các ben thỏa
thuận hoặc do pháp luật quy định. Nếu không có mối liên hệ này thì cho dù
là cùng phải thực hiện một nghĩa vụ đối với một chủ thể có quyền thì cũng
không làm phát sinh quan hệ dân sự liên đới.

2


Chính mối liên hệ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ này giúp cho bên có
quyền có thể yêu cầu bất cứ chủ thể nào trong bên có quyền phải thực hiện
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nghĩa là ngoài phần của họ trong khối
nghãi vụ thì họ còn có thể phải thực hiện cả phần của những người khác nếu
bên có quyền yêu cầu thực hiện.
Khi một chủ thể bên có nghĩa vụ đã thực hiện cả phần nghĩa vụ của

người khác thì họ có quyền yêu cầu những chủ thể đã được họ thực hiên
thay phần nghĩa vụ của mình, phải có nghĩa vụ hoàn trả lại phần nghĩ vụ mà
người đó đã thực hiện thay. Đồng thời khi một người thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ thì sẽ chấm dứt toàn bộ quan hệ dân sự liên đới giữa chủ thể có
quyền và các chủ thể có nghĩa vụ.
Bên chủ thể có quyền có thể miễn phần nghĩa vụ cho bất kì ai trong số
những chủ thể có quyền, khi đó những chủ thể có nghãi vụ còn lại vẫn phải
liên đới thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi phần còn lại của nghĩa vụ. Bên
cạnh đó nếu chủ thể có quyền chỉ định một trong số các chủ thể có nghĩa vụ
phải thực hiện toàn bộ nghĩa mà mà sau đó lại miễn thực hiện cho người đó
thì nghĩa vụ liên đới cũng chấm dứt toàn bộ.
2. Một số vấn đề trong thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới
2.1 Một số vấn đề lí luận
2.1.1 Nghĩa vụ dân sự liên đới trong quan hệ hoàn lại.
Như ở trên vừa phân tích một trong các đặc điểm của quan hệ dân sự
liên đới đó là khi một chủ thể trong số các chủ thể có nghĩa vụ đã thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ đối với bên có quyền thì những chủ thể còn lại trong bên có
nghĩa vụ phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả lại phần còn nghĩa vụ của các
3


chủ thể đó theo quy định tại khoản 2 điều 299 BLDS: “Trong trường hợp
một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người
có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối
với mình.”.
Như vậy ở đây có thể hiểu điều khoản này quy định một người phải
“thực hiện toàn bộ nghĩa vụ” thì mới phát sinh quan hệ nghĩa vụ liên đới đối
với những khác chưa thực hiện nghĩa vụ. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu một
người không phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mà chỉ thực hiện phần lớn
nghĩa vụ. Hay nói một cách khác là nếu trong trường hợp 2 trong số nhiều

chủ thể có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền thì quan hệ dân
sự giữa những người có nghĩa vụ ở đây sẽ là quan hệ gì? Thiết nghĩ luật nên
làm rõ điều này.
2.1.2 Đối tượng của thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới
Tại khoản 1 điều 282 BLDS quy định chung về đối tượng của nghĩa
vụ dân sự như sau: “Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công
việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện.”. Như vậy có thể thấy đối
tượng của nghĩa vụ dân sự có 2 loại thứ nhất là tài sản và thứ 2 là công việc.
Và trong điều 298 BLDS, điềuluật điều chỉnh quan hệ nghĩa vụ dân sựu liên
đới cũng không có quy định riêng nào về đối tượng của loại quan hệ nghĩa
vụ này. Như vậy có thể hiểu quan hệ nghĩa vụ dân sự liên đới cũng có 2 loại
đối tượng đó là tài sản và công việc.
Đối với loại đối tượng là tài sản ta rất dễ dàng để bắt gạp loại đối
tượng này trong quan hệ nghĩa vụ dân sựu liên đới, nhưng còn đối với loại
đối tượng là công việc thì rất ít khi phát sinh trong thực tế. Bởi vấn đề đặt ra
đối với loại nghĩa vụ này là quan hệ hoàn lại giữa các bên sẽ được giải quyết
4


ra sao nếu một trong số các chủ thể có nghĩa vụ đã thực hiện toàn bộ nghĩa
vụ. Bởi nếu là tài sản thì có thể tính giá trị tài sản nhưng đối với những công
việc có tính chất đặc thù không thể chia phần thì không thể biết rằng khi
thực hiện đâu là phần của mỗi người để có thể hoàn trả.
2.1.3 Quan hệ liên đới trong trường hợp một trong số những chủ thể
có nghĩa vụ “chết” mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
Như ở trên đã nói bên có quyền có thể chỉ định bất kì cai trong các
chủ thể có nghĩa vu phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Như vậy, có thể hiểu
nếu chủ thể có quyền nhận thấy bất kì chủ thể nào không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ thì có thể yêu cấu các chủ thể khác thuộc bên có nghĩa vụ phải
liên đới thực hiện thay. Khi đó sẽ phát sinh quan hệ hoàn lại giữa các chủ thể

có nghĩa vụ. Với quy định như vậy pháp luật đã bảo đảm được quyền lợi của
bên có quyền.
Nhưng nếu một trong số các chủ thể có nghĩa vụ “chết”, có thể là một
cá nhân chết tự nhiên,hoặc chết về mặt pháp lí mà không có tài sản để lại.
Hay một pháp nhân “chết” mà không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ thì
khi này chủ thể có quyền có thể yêu cầu một trong số các chủ thể có nghĩa
vụ phải liên đới thục hiện nghĩa vụ và như vạy có thể đảm bảo quyền lợi cho
mình. Nhưng nếu chủ thể có nghĩa vụ phải liên đới thực hiện cả phần nghĩa
vụ này thì sẽ không thể làm phát sinh quan hệ hoàn lại bởi bên kia đã chết và
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Như thế sẽ không thể đảm bảo quyền
lợi cho chủ thể đã phải liên đới thực hiện thay.

5


Chia phần trong thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới
Nghĩa vụ dân sự liên đới hiểu ở một khía cạnh nào đó là nghĩa vụ dân
sự không thể phân chia. Nhưng vấn đề đặt ra nếu đã là không thể phân chia
thì làm sao có thể xác định phần trách nhiệm của mỗi người để sau này đặt
ra vấn đề hoàn lại nếu một trong những người có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ đối với chủ thể có quyền. Và trong các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ nghĩa vụ dân sự liên đới cũng không đặt ra vấn đề xác đinh
phần trách nhiệm của mỗi chủ thể trong những chủ thể của bên có nghĩa vụ.
Điều này đã dẫn tới một số sai sót trong thực tế xét xử của một số vụ án.
2.2Một số vấn đề trong thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới
2.2.1 Xác định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới
còn nhiều bất cập
Nghĩa vụ dân sự liên đới chỉ phát sinh khi các chủ thể có nghĩa vụ liên
đới một mối liên hệ nào đó và có thể là do thỏa thuận hoặc do pháp luật quy
định. Nhưng trong nhiều trường hợp khi có tranh chấp xảy ra, các bên đương

sự kéo nhau kiện ra tòa, tòa án đã đưa ra những phán quyết gây nhiều tranh
cãi. Mà dưới đây là một ví dụ:
Theo phía nguyên đơn trong vụ kiện, ông D. đã ba lần mượn ông
550 triệu đồng nhưng hai bên không làm giấy tờ vay mượn mà làm hợp
đồng dưới dạng mua bán nhà. Ông D. thỏa thuận nếu không trả được
tiền nợ thì sẽ bán căn nhà cho ông với giá 800 triệu đồng. Sau đó, ông
nhiều lần yêu cầu nhưng ông D. không trả nợ nên ông khởi kiện đòi ông
D., một là phải bán nhà cho ông, hai là phải trả lại số tiền đã vay.

6


Ngược lại, ông D. cho biết: “Tôi không hề biết nguyên đơn là ai. Tôi
cũng không vay tiền của nguyên đơn. Khi nguyên đơn đến gặp tôi đòi
thanh toán tiền thì tôi mới biết ông ta”.
Theo ông D., sau khi tự dưng bị đòi tiền, ông về hỏi chị gái (tòa sơ
thẩm xác định là người có nghĩa vụ liên quan trong vụ án) thì mới hay
bà này đã lén lấy giấy tờ nhà, giả mạo chữ ký của ông trong giấy bán
nhà cho nguyên đơn để vay 300 triệu đồng với lãi suất 5%/tháng. Trả
được ít lâu thì người chị mất khả năng thanh toán nên tiền gốc và lãi lên
đến 450 triệu đồng.
Thương chị, ông đã đến thương lượng với nguyên đơn xin giảm tiền lãi
và trả dần nhưng nguyên đơn không chịu. “Nay tôi yêu cầu nguyên đơn
trả lại giấy tờ nhà. Số tiền nợ tôi không vay nên không trả” - ông D. nói.
Trong quá trình giải quyết án, phía nguyên đơn đã thay đổi yêu cầu
khởi kiện, chỉ đòi chị em ông D. phải trả tiền nợ.
Hòa giải không thành, tòa đưa vụ án ra xét xử. Tòa nhận định: Người
ký giấy bán nhà không phải là ông D. nên hợp đồng này vô hiệu,
nguyên đơn phải trả lại giấy tờ nhà cho ông D. Còn về việc mượn nợ,
có cơ sở khẳng định chị của ông D. có mượn số tiền trên. Ông D. có

biết việc mượn nợ của chị gái, có chủ động liên lạc với nguyên đơn để
xin trả nợ dần.
Từ đó, tòa đã tuyên buộc chị em ông D. phải liên đới trả 550 triệu đồng
tiền nợ, không tính lãi vì nguyên đơn không yêu cầu. Cả hai cùng phải
nộp 26 triệu đồng án phí.

7


Ở vụ việc này có thể thấy việc tòa án phán quyết buộc ông D phải liên
đới chịu trách nhiệm trả nợ là hết sức phi lí. Tòa án không thể suy luận rằng
“Ông D. có biết việc mượn nợ của chị gái, có chủ động liên lạc với nguyên
đơn để xin trả nợ dần.”. Như đã nói ở trên việc xác định các chủ thể có trách
nhiệm liên đới trong các quan hệ nghĩa vụ dân sự là phải dựa vào mối liên hệ
giữa các chủ thể. Các mối liên hệ này có thể được pháp luật điều chỉnh hay
do các chủ thẻ thỏa thuận mà có. Ở đay rõ rang trước khi xảy ra vụ việc ông
D không hề biết chị gái vay nợ nên không thể có chuyện ông thỏa thuận với
chị gái. Thêm nữa việc chị gái ông sống chung với gia đình ông cũng không
thể xác đinh ông phải có trách nhiệm liên đới trả nợ. Việc ông đứng ra
thương lượng thay chị gái trả nợ không có nghĩa là ông là người đứng ra vay
nợ vì thế việc tòa án buộc ông liên đới trả nợ là hoàn toàn bất cập và trái
luật.
Hay như ở vụ việc dưới đây việc xác định trách nhiệm liên đới đã gây
ra rất nhiều khó khăn cho quá trình thi hành án và hoạt động của doanh
nghiệp:
Theo bản án phúc thẩm số 397, để thực hiện phương án liên doanh đáo
nợ và vay thêm tiền, Phạm Huy Phước đại diện cho Tamexco ký các
hợp đồng liên doanh số 88 ngày 29/12/1994 và số 02 ngày 06/1/1995
với 13 công ty TNHH, nội dung hợp tác đầu tư và kinh doanh đất đai ở
phường 11 (nay là P.12), TP. Vũng Tàu. Sau đó, 13 công ty này đã trực

tiếp ký hợp đồng tín dụng vay của Firsvinaband (FVB) 13 triệu USD để
chuyển cho Tamexco góp vốn liên doanh. Theo nội dung thỏa thuận
hợp đồng liên doanh, Tamexco cam kết bảo lãnh thanh toán khoản vay
cho các công ty này bằng tài sản thế chấp của Tamexco. Trên thực tế,
FVB không giao đồng nào cho 13 công ty trên, đồng thời FVB đã thu
8


lãi trước hơn 1,5 tỉ, số còn lại đã cấn trừ nợ cũ và cho Tamexco vay
thêm.
Tại bản án số 397/HSPT ngày 31/3/1997, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh đã tuyên: Buộc Công ty Tamexco bồi
thường cho Firsvinabank 137.439.500.000 đồng (giá trị 13 triệu USD
thời điểm xét xử); Phạm Huy Phước, Trần Lịnh và 13 công ty TNHH
Tân Hoàng Mỹ, Thuận Hưng, Song Phụng, Dolphin, Phong Điền, Tiền
Phong, Thạnh Phú, Vạn Linh, Hoàng Long, Tiến Long, Bê Ta, Sao Mai
Vũng Tàu, Sao Mai TP.HCM phải liên đới cùng với Tamexco bồi
thường cho Firsvinabank số tiền trên.
Nhưng đến nay, ông Lê Minh Hải đại diện công ty Dolphin vẫn chưa
thể THA được do vướng mắc cụm từ “liên đới” trong bản án 397 nêu
trên, việc thi hành án gặp rắc rối, khó khăn. Ông Hải cho rằng, với tư
cách là cá nhân chịu trách nhiệm thay mặt Cty Dolphin thì trong việc
này, Dolphin chỉ có lỗi là ký vay khống 1 triệu USD với Firstvinabank
để phục vụ cho việc đáo nợ của Cty Tamexco chứ không lấy tiền để
phục vụ cho kinh doanh của đơn vị hay cá nhân.
Do việc THA của công ty Dophin gắn với các lô đất tại Vũng Tàu, nên
UBND tỉnh BR-VT đã gửi công văn đến nhiều cơ quan ban ngành để
được giải thích bản án rõ ràng hơn.
Theo quan điểm của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tại công văn số
1111/UBND-VP ngày 26/2/1010 gửi TANDTC, thì việc bồi thường

thiệt hại phải dựa trên nguyên tắc gây thiệt hại đến đâu thì bồi thường
9


đến đó, không thể buộc một người phải bồi thường thiệt hại không do
họ gây ra. Các công ty nêu trên, mỗi công ty bị quy trách nhiệm ký hợp
đồng khống gây thiệt hại 1 triệu USD cho FVB thì mỗi công ty phải
chịu trách nhiệm liên đới cùng Tamexco, Phạm Huy Phước và Trần
Lịnh trong phạm vi 1 triệu USD chứ không phải là liên đới trách nhiệm
trong toàn bộ thiệt hại là 13 triệu USD.
Ở vụ việc này có thể thấy việc tòa án buộc ông Hải là đại đại diên của
Dophin phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thượng toàn bộ 13 triệu Dola cho
Firstvinabank là hoàn toàn không hợp lí. Bởi ở thời điểm vụ việc xảy ra
Dophil chỉ là 1 trong số 13 đơn vụ kí hợp đồng vay tài sản với
Firstvinabank. Không thể căn cứ vào việc Dophil có tham gia kí kết hợp
đồng liên doanh với 13 công ty còn lại để buộc Dophil phải có trách nhiệm
liên đới. Bởi ở đây Tamexco là công ty đã đứng ra bảo lãnh cho cả 13 công
ty, còn Dophil chỉ là một trong số 13 công ty thực hiện vay mà thôi. Thêm
nữa mỗi công ty được ấn định vay 1 triệu Dola là hoàn toàn riêng rẽ và
không liên quan tới nhau.
2.2.2 Xác định nghĩa vụ dân sự liên đới trong các vụ án hình sự.
Trên thực tế hiện nay việc nhiều chủ thể cùng gây ra thiệt hại và pahir
liên đới bồi thường khá phổ biến, nhất là hiện nay xu hướng bạo lực trong
giới trẻ khá phổ biến, các vụ đánh hội đồng, gây hậu quả nghiêm trọng
thường xuyên xảy ra. Ở các vụ việc này tào án không chỉ gặp khó khăn trong
việc đưa ra mức lượng hình đối với hành va đánh người gây thương tích mà
còn rất khó khăn trong việc quyết định mức bồi thường và trách nhiệm bồi
thường của các bị cáo cho nạn nhân. Thường thì tòa án sẽ quyết định các bị
cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho gia đình nạn nhân mà không đưa
10



ra mức bồi thường cụ thể của mỗi bị cáo đối với nạn nhân, điều này gấy khó
khăn rất lớn cho công tác thi hành án. Dưới đây là một vụ việc như thế:
Trong 2 ngày 28 và 29/10, TAND TP Hà Nội mở phiên sơ thẩm xét xử
10 bị cáo với tội danh giết người. Nhóm thanh niên này bị đưa ra xét xử
kiểu "tập thể" vì đã cùng nhau đánh chết một người đi trộm chó.
Vào khoảng tháng 4/2009, thôn Tiên Lữ - Tiên Phượng – Chương Mỹ Hà Nội thường xuyên bị mất trộm chó. Người dân thôn này bức xúc vì
những thanh niên địa phương khác đến bắt trộm chó vào ban đêm. Một
nhóm thanh niên trong làng đã họp nhau lại, bàn kế hoạch phục kích
đánh kẻ trộm chó.
Tối ngày 1/5/2009, tại khu vực chợ thuộc xã Tiên Phương – Chương
Mỹ - Hà Nội, nhóm trai làng đã chuẩn bị sẵn các hung khí, gồm: dao,
kiếm, tuýp sắt phục kích kẻ trộm chó. Cầm đầu nhóm này là Vũ Tuấn
Giang (35 tuổi) và Nguyễn Danh Hải (38 tuổi).
Hai người này đã trực tiếp lên kế hoạch, chia làm 2 tổ để phục kích ở
các chốt. Tổ 1 gồm các đối tượng: Tống Văn Khoa (24 tuổi), Vũ Tuấn
Toàn (24 tuổi), Nguyễn Danh Mạnh (24 tuổi), Nguyễn Đình Nghị (25
tuổi) và Tống Nguyên Tường (26 tuổi). Những người này có nhiệm vụ
chặn ở trên tỉnh lộ 419, đoạn ngang lối chính lên chùa Trăm Gian, khi
thấy kẻ trộm chạy qua thì kéo bàn ghế ở chợ ra để chặn lối đi và báo
cho tổ 2.
Tổ 2 gồm các đối tượng: Vũ Tuấn Giang, Nguyễn Danh Hải, Nguyễn
Đình Hải (31 tuổi), Nguyễn Đình Tài (26 tuổi). Những người này chặn

11


ở phía trước tổ 1, cách khoảng 100m và nhận nhiệm vụ xông ra chặn
đánh kẻ gian.

Khoảng 2h sáng ngày 2/5/2009, tổ 2 của Giang phát hiện thấy anh Trần
Văn Sơn (37 tuổi, tạm trú tại Chúc Sơn – Chương Mỹ - Hà Nội) điều
kiển xe máy Wave, chở anh Nguyễn Vinh Quang (29 tuổi, trú tại Phú
Lâm – Hà Đông – Hà Nội) đi trên tỉnh lộ 419, hướng về Quốc Oai. Anh
Quang ngồi sau mang theo bao tải dứa và cầm 1 thanh sắt có một đầu
buộc dây phanh xe đạp thắt thành thòng lọng. Lập tức, Giang hô “Nó
đấy!”.
Hai thanh niên đi xe máy đã bị nhóm thanh niên xông ra đánh túi bụi.
Ngay cả chiếc xe máy của nạn nhân cũng bị đập phá nát bét. Trong quá
trình đánh nạn nhân Sơn, do tiếng la hét gây náo loạn nên nhiều người
dân quanh đó đã tỉnh giấc và ra xem. Có thêm 2 đối tượng là Tống Văn
Giang và Vũ Kim Thế, tuy không tham gia vào nhóm phục kích nhưng
chứng kiến vụ việc cũng xông ra “đánh hôi”.
Về phần anh Quang, chạy thoát thân được khoảng 200m thì bị các đối
tượng đuổi kịp và cũng bị chém, đấm, đá hội đồng. Chỉ đến khi có sự
xuất hiện của công an, hai nạn nhân mới được giải thoát và đưa đi cấp
cứu. Do vết thương quá nặng, anh Sơn đã chết sau đó.
Trước khi xét xử, gia đình bị hại đã nhận được bồi thường từ các bị cáo
tổng cộng 55 triệu đồng nên đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các
bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa, ông Trần Văn Long (bố đẻ anh Sơn) đã
rút lại đề nghị này và chỉ xin giảm hình phạt cho những bị cáo thực sự
ăn năn, biết lỗi.

12


Với các tình tiết trên, cùng với nhân thân tốt của các bị cáo, HĐXX đã
tuyên phạt Vũ Tuấn Giang 12 năm tù. 10 bị cáo còn lại chịu mức án 710 năm tù. Ngoài ra, các bị cáo còn phải liên đới bồi thường thêm hơn
20 triệu và 400.000 đồng/tháng cấp dưỡng cho bố mẹ anh Quang.
Ở vụ việc này ta không xét đến nội dung của TNHS mà các bị cáo đã

bị TAND thành phố Hà Nội tuyên phạt mà chỉ đặt ra vấn đề đối với phần
trách nhiệm dân sự. Ở đây TAND thành phố Hà Nội chỉ tuyên phạt các bị
cáo phải liên đới bồi thương và cấp dưỡng hàng tháng cho bố mẹ anh Quang
mà không quy định rõ việc các bị cáo mỗi người phải chịu trách nhiệm đến
dâu trong phạm vi khối nghĩa vụ. Nghĩa vụ dân sự sẽ được chia đều hay căn
cứ vào mức độ hành vi mà quy đinh. Việc thiếu rõ ràng này sẽ gây khó khăn
rất lớn nếu sau này phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể có nghĩa vụ với
nhau.
2.2.3 Nghĩa vụ liên đới của vợ chồng
Theo quy định tại điều 25 Luật HNGĐ 2000 thì: “Vợ hoặc chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong
hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình.” Theo quy định này thì vợ hoặc chồng sẽ phải liên đới chịu trách
nhiệm đối với các giáo dịch hợp pháp mà một bên vợ, chồng thực hiện mà
được xác định là nhằm đáp ứng như cầu sinh hoạt thiết yếu cảu gia đình.
Xung quanh vấn đề này có rất nhiều thắc mắc liệu mình có phải chịu trách
nhiệm khi vợ, hoặc chồng thực hiện mà mình không biết thì có pahir chịu
trách nhiệm không. Và dưới đây là một trong số các thắc mắc được đăng lên
các diễn đàn pháp luật nhờ tư vấn giải đáp:

13


Chồng tôi vay nợ số tiền khá lớn để chi tiêu cá nhân mà tôi không hề
biết. Nếu anh ấy không trả được nợ, bị kiện ra tòa thì tôi có trách nhiệm
cùng anh ấy phải trả món nợ đó không? Trường hợp chồng tôi qua đời
thì tôi có phải trả nợ thay không?
Thực trạng này không pahir là hiếm trong cuộc sống vợ chồng, nhiều
người vì lí do này lí do khác đã vay các khoản nợ mà không cho vợ, chồng
của mình biết. Và đến khi có tranh chấp xảy ra vợ, chồng hợ mới biết. Và

khi này vấn đề cốt lõi là phải chỉ ra khaonr vay đó có đáp ứng vao cuộc
sống nhằm bảo đảm cuộc sống thiết yếu của gai đình hay không. Trong
nhiều trường hợp để trốn tránh trách nhiệm cả 2 bên vợ,chồng đều tìm mọi
cách phủ trách nhiệm cho người kia. Đây là một điều hết sưc đáng buồn.
2.3Một số phương hướng hoàn thiện
Cóhể khẳng định đa số các vấn đề phát sinh của quan hệ thực hiện
nghĩa vụ dân sựu liên đới đều phát sinh từ việc một số điểm pháp luật quy
định thiếu chặt chẽ hoặc tồn tại một số bất cập. Vì vậy việc bổ sung hoàn
thiện hệ thống pháp luật là hết sức cần thiết.
Trước hết cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về nghĩa vụ dân sự liên
đới . Khoản 1 điều 298 BLDS nên bỏ đi cụm từ “thực hiện toàn bộ”, và thay
thế vào đó cụm từ “thực hiện phần nghĩa vụ của người khác.
Luật cần quy định việc xác định phần nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong
khối nghĩa vụ liên đới. Bởi chỉ có như thế mới hạn chế được các sai sót
trong việc áp dựng pháp luật để giải quyết vụ việc của tòa án cũng như hạn
chế tranh chấp có thể xáy ra sau này giữa các chủ thể có nghĩa vụ.

14


Tiếp đó việc bắt một chủ thể nào đó phải chịu rủi ro khi phải thực hiện
thay phần của một chủ thể đã “chết” là hoàn toàn bất cập. Khi ấy có thể nên
có quy định việc các chủ thể thuộc bên có quyền và bên có nghĩa vụ mỗi bên
cùng phải gánh chịu một phần nào đó sẽ hợp tình, hợp lí hơn.

III.Kết luận
Như vậy có thể thấy bên cạnh những mặt đa được thì quan hệ thực
hiện nghĩa vụ dân sự cũng còn tồn tại rất nhiều vấn đề cả trong lí luận và
thực tiễn. Do đó yêu cầu đặt ra là cần nhanh chóng khắc phục những vấn đề
còn hạn chế, bất cập này.


15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội “Giáo trình luật Dân sự việt
Nam”. Nxb CAND,2006

2.

TS Lê Dình Nghị “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam”. Nxb
Giáo Dục

3.

BLDS 2005
MỘT SỐ WEBSITE

1. />option=com_content&view=article&id=374:2&catid=19:2&Itemid=
45
2. />3. />MỘT SỐ TỪ VIẾT TĂT
1. BLDS: Bộ Luật Dân Sự 2005
2. BLHS; Bộ luật hình sự 1999
3. TAND: Tòa án nhân dân

16



MỤC LỤC
I.Lời mở đầu……………………… …………………………….1
IIGiải quyết vấn đề………………………………………………1
1.Cơ sở lí luận…………………….……………………………1
1.1Khái niệm thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới………………………1
1.2Nội dung của thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới…………………...2

2. Một số vấn đề trong thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới……..3
2.1 Một số vấn đề lí luận……………………………………….3
2.1.1 Nghĩa vụ dân sự liên đới trong quan hệ hoàn lại…………………3
2.1.2 Đối tượng của thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới ………………4
2.1.3 Quan hệ liên đới trong trường hợp một trong số những chủ thể có
nghĩa vụ “chết” mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ…………………5
2.1.4Chia phần trong thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới……… ……6

2.2.Một số vấn đề trong thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới….6
2.2.1Xác định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới còn
nhiều bất cập……………………………………………………………… ..6
2.2.2 Xác định nghĩa vụ dân sự liên đới trong các vụ án hình sự……10

2.2.3 Nghĩa vụ liên đới của vợ chồng……… ……………13
2.3 Một số phương hướng hoàn thiện………………………13
III.KẾT LUẬN……………………………………………………………16

17


18




×