Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Vai trò của tòa án nhân dân trong cải cách tư pháp ở việt nam hiện nay luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.04 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG HẢI YẾN

VAI TRß CủA TòA áN NHÂN DÂN
TRONG CảI CáCH TƯ PHáP ở VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG HẢI YẾN

VAI TRß CủA TòA áN NHÂN DÂN
TRONG CảI CáCH TƯ PHáP ở VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LƢƠNG THANH CƢỜNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dƣơng Hải Yến


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM...................................... 8
1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở
VIỆT NAM ........................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm tƣ pháp và cải cách tƣ pháp ................................................. 8
1.1.2. Mục tiêu, quan điểm cải cách tƣ pháp ................................................ 18
1.1.3. Phƣơng hƣớng và nhiệm vụ của cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay ... 19
1.2.

TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP ................... 28


1.2.1. Khái quát về tổ chức, hoạt động của Tịa án nhân dân ....................... 28
1.2.2. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp ...... 37
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 44
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ...............45
2.1.

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG
CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ............................. 45

2.1.1. Hoạt động xây dựng, trình Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội các dự án theo thẩm quyền ............................................................ 45
2.1.2. Hoạt động xét xử các vụ án, vụ việc theo thẩm quyền ....................... 51
2.1.3. Hoạt động tổng kết công tác xét xử, bảo đảm áp dụng pháp luật
trong xét xử ......................................................................................... 56


2.1.4. Quản lý đào tạo bồi dƣỡng cán bộ công chức, thẩm phán .................. 57
2.2.

ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP ............................................... 60

2.2.1. Ƣu điểm ............................................................................................... 60
2.2.2. Hạn chế, bất cập .................................................................................. 61
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 67
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP .............................................. 68
3.1.


TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT
ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ................................................. 68

3.1.1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho hoạt động của tòa án nhân dân ....................... 68
3.1.2. Đổi mới hoạt động của tòa án nhân dân.............................................. 69
3.2.

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN .................. 77

3.3.

BẢO ĐẢM CƠ SỞ VẬT CHẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TẾ ..... 81

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CCTP:

Cải cách tƣ pháp

TAND:

Tòa án nhân dân


TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thành lập
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và Nhà nƣớc ta đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của ngành Tòa án.
Cùng với sự ra đời của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hồ, ngày 13/9/1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33c thiết lập Toà án quân sự tiền
thân của ngành toà án để "xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì
có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" [17].
Trải qua các giai đoạn cách mạng, các quy định về ngành Tòa án nhân
dân (TAND) đã nhiều lần đƣợc cải cách, sửa đổi, đã dần hồn thiện và nâng
cao vị trí, vai trị của ngành Tồ án, góp phần củng cố, từng bƣớc xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện quyền tƣ pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong
những chức năng rất quan trọng của Nhà nƣớc Việt Nam và đƣợc giao cho
TAND. Do vậy, TAND có vai trị rất quan trọng trong bộ máy nhà nƣớc.
Tồ án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tƣ pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp

đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định
bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện,
phương tiện làm việc; trong đó xác định Tồ án có vị trí trung tâm và xét xử
là hoạt động trọng tâm” [3].
Vai trị của Tồ án biểu hiện qua chức năng và thẩm quyền của Toà án
đƣợc quy định trong Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2014
(TCTAND), Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004,
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tồ án là cơ

1


quan xét xử duy nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức
năng xét xử của Toà án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm
và xun suốt q trình hoạt động của Tồ án. Điều 102 Hiến pháp 2013 quy
định Tịa án gồm Toà án nhân dân Tối cao (TANDTC), và các Toà án khác do
luật định là những cơ quan xét xử của Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; Điều 1 Luật TCTAND 2014 quy định Toà án xét xử những vụ án hình
sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết
những việc khác theo quy định của pháp luật.
Chỉ có Tồ án mới có quyền nhân danh Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tuyên bố một ngƣời có tội hay vơ tội.
Theo quy định tại Điều 2 Luật TCTAND 2014 thì: TAND là cơ quan
xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ
pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân.
Tồ án cịn là nơi biểu hiện quyền lực nhà nƣớc rõ ràng nhất, mọi phán
quyết của Toà án có tính cƣỡng chế nghiêm khắc của Nhà nƣớc. Theo quy

định tại Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: Các bản án và quyết định của
TAND đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những ngƣời và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Toà án là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật có hiệu quả nhất, bằng việc đƣa lên phƣơng tiện thông tin đại chúng các
phiên toà xét xử, tổ chức xét xử lƣu động ngoài tác dụng răn đe, giáo dục, phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung, cịn có tác dụng tun truyền, giới thiệu, giải
thích về pháp luật để mọi ngƣời hiểu biết thêm về pháp luật và hƣớng họ tới
“Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Bằng hoạt động của mình, Tồ

2


án góp phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
TAND có vai trị quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thông qua việc xét xử các vụ án theo thẩm quyền.
TAND là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con
ngƣời, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử của ngành TAND vẫn còn những mặt
hạn chế, bất cập, làm ảnh hƣởng đến vai trò của ngành toà án nhƣ: chất
lƣợng xét xử chƣa đáp ứng yêu cầu, tình trạng án bị cải, sửa tuy ít nhƣng
khơng giảm mà có xu hƣớng tăng, vẫn cịn án tồn đọng, đặc biệt ở khâu xem
xét đơn yêu cầu theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm; việc nâng cao chất
lƣợng tranh luận tại phiên tòa chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ ở các cấp tòa án
khác nhau; việc tuyển chọn, xây dựng, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ so với yêu

cầu vẫn chƣa đáp ứng; đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán còn
thiếu và yếu, trình độ chun mơn khơng đồng đều; cơ sở vật chất của các
tòa án chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức...
Mặt khác, vị thế của ngành Tòa án trong bộ máy nhà nƣớc chƣa đƣợc
xứng tầm. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tƣ pháp (CCTP) đã xác
định vai trò trung tâm của ngành Tòa án trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp
nhƣng ở nhiều nơi, nhiều địa phƣơng vai trò của ngành Tòa án vẫn chƣa đƣợc
chú trọng đúng mức. Một số lãnh đạo địa phƣơng coi Tòa án nhƣ một sở, một
phòng vẫn còn khá phổ biến, dù mức độ biểu hiện khác nhau. Nhiều bản án có
hiệu lực pháp luật khơng đƣợc thực thi, điều trớ trêu là có những vụ án khó
khăn, cản trở lại đến từ các cơ quan nhà nƣớc khác.

3


Hệ thống pháp luật chƣa đồng bộ, chƣa hoàn chỉnh cũng gây khó khăn
cho các Thẩm phán. Nhiều phán quyết công tâm nhƣng do hệ thống pháp luật
quá phức tạp cũng dẫn đến bị hủy sửa.
Quy định bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm, trong khi hệ thống Tòa án
hoạt động theo địa bàn, không đƣợc độc lập theo hệ thống ngành dọc cũng là
những “vịng kim cơ” khiến các Thẩm phán khi ngồi trƣớc cơng đƣờng khó
có đƣợc sự chí cơng, vơ tƣ cần phải có.
Mức lƣơng theo thang bảng của Nhà nƣớc chung cho các ngành hiện
nay vẫn là một thách thức với cán bộ, Thẩm phán ngành Tịa án. Ở ngành
khác nhƣ y tế, giáo dục… có thể có thêm thu nhập từ làm các nguồn khác,
nhƣng ngành Tịa án thì khơng thể có.
Do đó, việc nghiên cứu “vai trị của Tồ án nhân dân trong cải cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay” là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực
tiễn, để tìm kiếm thêm các luận cứ khoa học cho việc nâng cao, bảo đảm vai
trị của TAND trong CCTP.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số bài viết và cơng trình khoa học nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này. Đối với các đề tài về cải cách tƣ pháp có đề tài
khoa học cấp Đại học quốc gia của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn
Ngọc Chí đồng chủ trì: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền”, năm 2004; sách chuyên khảo do GS.TSKH.
Đào Trí Úc, PGS.TS Vũ Cơng Giao chủ biên: “Cải cách tư pháp vì 1 nền tư
pháp liêm chính”, năm 2014; sách chuyên khảo do GS.TSKH Đào Trí Úc
chủ biên: “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”,
2002; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thế Anh: “Chiến lược
cải cách tư pháp với mục tiêu bảo vệ công lý ở Việt Nam”, năm 2014;
GS.TSKH Lê Văn Cảm với bài viết: “Về quyền tư pháp và các nguyên tắc

4


cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 20, 21, 22 năm 2014. Đối với đề tài
về Tịa án nhân dân có Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Phụng Vƣơng:
“nâng cao vị trí, vai trị của TAND đáp ứng u cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay”, năm 2012; bài viết của tác giả Trần Văn Tú
về “Các quy định về Tòa án nhân dân trong Hiến pháp (sửa đổi Hiến pháp
năm 1992) và hướng hoàn thiện Luật tổ chức Tịa án nhân dân”, Tạp chí
Tịa án nhân dân, số 1 năm 2014; Th.s Lê Văn Minh có bài: “Bảo đảm thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp và
đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư
pháp”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 3 năm 2014; tác giả Dƣơng Đại Nghĩa
với bài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án nhân dân trong q trình
cải cách tư pháp”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 18 năm 2010……
Các cơng trình trên đã đề cập một phần đến vấn đề này, tuy nhiên nhìn

chung chƣa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hồn thiện vẫn đề:
“Vai trị của Tịa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay”.
Đây là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên luận văn sẽ tiếp thu có chọn lọc những kết
quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học pháp lý có liên quan để phát triển
và hồn chỉnh vấn đề nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích của luận văn
Đƣa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của TAND đáp ứng tốt nhất những nhiệm vụ cải cách tƣ pháp đặt ra.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của TAND trong cải
cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích và đánh giá thực trạng về vai trò của TAND.

5


- Đề xuất những quan điểm và giải pháp pháp lý cơ bản nhằm nâng cao
vai trò của TAND đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng: trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu các quy định của pháp luật về vai trị của TAND, các chủ trƣơng chính sách
CCTP của Đảng và Nhà nƣớc kể từ khi Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005;
qua thực tiễn hoạt động của ngành Tòa án trên phạm vi cả nƣớc.
- Phạm vi nghiên cứu: các số liệu từ năm 2005 đến nay; nghiên cứu các
nội dung về: CCTP nói chung, vai trị của Tịa án đƣợc quy định theo Hiến
pháp và trong cơng cuộc CCTP hiện nay.
Vai trị của TAND các góc độ phi pháp lý (kinh tế, chính trị) khơng đề
cập trực tiếp trong luận văn này.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt đƣợc những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận Luận văn
đƣợc triển khai nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách tƣ pháp.
Quá trình nghiên cứu cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa
học nhƣ: đối với chƣơng 1 sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử; đối với chƣơng 2 tác giả sử dụng phƣơng pháp phân tích, phƣơng
pháp so sánh, tổng kết thực tiễn; đối với chƣơng 3 sử dụng phƣơng pháp tổng
hợp, đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở
lý luận và thực tiễn về vai trò của TAND trong CCTP ở Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn, các kết luận của luận văn có giá trị tham khảo cho việc
nâng cao vai trò của TAND trong CCTP ở Việt Nam, các tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy về Luật.

6


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Lý luận về vai trò của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ
pháp ở Việt Nam.
Chương 2:

Thực trạng vai trò của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp.

Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân trong cải
cách tƣ pháp.


7


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm tƣ pháp và cải cách tƣ pháp
1.1.1.1. Khái niệm tư pháp và các cơ quan tư pháp
Lịch sử khoa học pháp lý chứng minh rằng, có nhiều luật gia, nhà
nghiên cứu đã tiếp cận ý nghĩa đích thực của cơ quan tƣ pháp theo nghĩa hẹp.
C.L. Montesquieu - ngƣời đƣợc coi là “cha đẻ” của học thuyết “tam quyền
phân lập”, trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (1748) chỉ ra rằng:
Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội
phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Ngƣời ta gọi đây là
quyền tƣ pháp. Theo ông, Quyền phán xét không nên giao cho
một Viện Nguyên lão thƣờng trực mà phải do những ngƣời trong
đoàn thể dân chúng đƣợc cử ra từng thời gian trong một năm, do
luật quy định thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ theo sự
cần thiết [11].
Theo Montesquieu thì cơ quan tƣ pháp chính là tồ án-cơ quan xét xử,
cơ quan thực hiện nhánh quyền lực tƣ pháp.
Nối tiếp những tƣ tƣởng của Mongtesquie, mƣời bốn năm sau, trong tác
phẩm Bàn về khế ước xã hội (1762), J.J. Rousseau đã viết:
Khi ngƣời ta không thể định rõ một tỷ lệ chính xác giữa các
bộ phận cấu thành của Nhà nƣớc, hoặc khi mà những nguyên nhân
khách quan làm suy yếu không ngừng mối quan hệ giữa các bộ
phận ấy, thì ngƣời ta phải đặt một cơ quan đặc biệt, không tham dự

vào bất cứ một bộ phận nào. Cơ quan này đặt mỗi bộ phận vào

8


đúng vị trí của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa
Chính phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan quyền
lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần. Cơ quan này tôi gọi là cơ
quan tƣ pháp (tribunal) [9].
Với quan niệm nhƣ vậy, thì giống nhƣ Montesquieu, Rousseau cũng
cho rằng, nói đến cơ quan tƣ pháp phải hiểu đó là Toà án, là hoạt động xét xử.
Chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của các luật gia thời Khai sáng, khi làm bản
Hiến pháp năm 1787, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã quy định ở Điều III, khoản 1
nhƣ sau: “Quyền lực tư pháp Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và
những toà án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp”.
Những năm sau này, hầu hết hiến pháp của các nƣớc tƣ bản nhƣ Nhật, Pháp,
Đức, Thuỵ Điển,… đều quy định cơ quan thực hành quyền tƣ pháp là Tòa án.
Nhƣ vậy, theo quan niệm có tính chung nhất về cơ quan tƣ pháp, từ học thuyết
đến quy định pháp luật thành văn của các nƣớc có lịch sử lập hiến lâu năm, đều
hiểu Toà án là cơ quan tƣ pháp trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc.
Nhƣ vậy có thể nói rằng, trên phƣơng diện lý thuyết cũng nhƣ trong
thực tiễn tổ chức hệ thống bộ máy nhà nƣớc ở các quốc gia, ngƣời ta coi tƣ
pháp là một trong ba nhánh quyền lực quan trọng của hệ thống quyền lực nhà
nƣớc và đồng nhất tƣ pháp với hoạt động xét xử của Tòa án. Lý thuyết và
thực tiễn ở các nƣớc có nền pháp lý văn minh cho thấy “Tư pháp” là một
trong những biểu hiện rõ nét nhất của Nhà nƣớc pháp quyền và của nền tƣ
pháp dân chủ, bình đẳng và cơng bằng, bảo vệ hữu hiệu các quyền con ngƣời,
quyền cơng dân. “Tư pháp” chính là biểu tƣợng của lẽ phải, công lý để giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong xã hội ở các cấp độ khác nhau từ tranh
chấp dân sự đến tranh chấp chính trị.

Ở Việt Nam tồn tại khá nhiều cách hiểu khác nhau về tƣ pháp. Theo Từ
điển Tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học do GS. Hồng Phê chủ biên thì thuật

9


ngữ “Tư pháp” đƣợc hiểu là: “Việc xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ
kiện tụng trong nhân dân (nói khái quát)” [12].
Theo quan điểm của GS. TS. Nguyễn Đăng Dung, thì “Tư pháp là một
lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và
phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật
khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật” [7].
Ngoài ra, theo TS. Đinh Văn Ân, TS. Võ Trí Thành quan niệm “Tư
pháp” đƣợc hiểu theo ba khía cạnh:
Về khía cạnh pháp lý, đƣợc quan niệm nhƣ là một ý tƣởng
cao đẹp về một nền công lý, giải quyết các tranh chấp trong xã hội
đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng; các biểu hiện của một giá trị
về lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Về khía cạnh thể chế Nhà
nƣớc, tƣ pháp đƣợc sử dụng để chỉ một quyền lực trong ba quyền
lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tƣ pháp. Trong việc
xác định ba quyền, quyền tƣ pháp đƣợc xem là đồng nghĩa với
quyền xét xử, một hoạt động duy nhất chỉ do Tịa án thực hiện. Và
theo khía cạnh khoa học tổ chức, tƣ pháp đƣợc sử dụng để nói về tổ
chức tƣ pháp, một tập hợp của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, nhiều
chức danh liên hệ đến cơng tác xét xử [1].
Tóm lại,“Tư pháp” là một hoạt động nhân danh cơng lý của Tịa án để
giải quyết các tranh chấp trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng
và đƣợc coi là quyền xét xử của Tịa án. Theo đó, tƣ pháp trong nhà nƣớc
pháp quyền đòi hỏi Tòa án (với tƣ cách cơ quan thực hiện chức năng xét xử)
cần có những phán quyết chính xác, cơng bằng, một mặt nhằm bảo vệ những

giá trị xã hội cao quý nhất của xã hội tránh khỏi sự xâm phạm của các vi
phạm pháp luật đi ngƣợc lại lợi ích của xã hội, của nhân dân và Tổ quốc.
Giống nhƣ khái niệm “Tư pháp”, ở Việt Nam cũng có các quan niệm

10


khác nhau về cơ quan tƣ pháp tuỳ theo cách tiếp cận của ngƣời nghiên cứu.
Quan niệm thứ nhất, liên quan đến việc xem xét cơ quan tƣ pháp theo nghĩa
hẹp, có tác giả đã đƣa ra khái niệm về tƣ pháp hình sự nhƣ sau:
Tƣ pháp hình sự trong Nhà nƣớc pháp quyền là dạng thực
hiện quyền lực nhà nƣớc của hệ thống cơ quan có thẩm quyền nhân
danh cơng lý (cơ quan tài phán – Tồ án) để xét xử và đƣa ra phán
quyết đối với vụ án hình sự nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến
định, nhân thân, các quyền và tự do của con ngƣời và của cơng dân,
cũng nhƣ hồ bình và an ninh của loại, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh
chống tội phạm, góp phần đƣa các nguyên tắc đƣợc thừa nhận
chung của Nhà nƣớc pháp quyền vào đời sống thực tế. Hoặc quyền
tƣ pháp là khả năng và năng lực riêng có của các cơ quan Tồ án
chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nƣớc thực hiện để tác động
đến hành vi của con ngƣời, đến các quá trình xã hội [18].
Từ các định nghĩa này có thể thấy, cơ quan tƣ pháp chỉ là Toà án.
Quan niệm thứ hai tiếp cận cơ quan tƣ pháp theo nghĩa rộng có tính hệ
thống, theo đó “khái niệm tư pháp khơng chỉ được dùng cho Tồ án, mà cịn
cả các cơ quan nhà nước khác thực hiện chức năng có liên quan đến xét xử.
Trước hết đó là Viện kiểm sát, rồi đến các cơ quan điều tra, thi hành án” [8].
Quan niệm thứ hai này phản ánh nhận thức khá phổ biến trong giới nghiên
cứu khoa học pháp lý hiện nay [19].
Cũng có thể tiếp cận khái niệm cơ quan tƣ pháp từ Hiến pháp và các
đạo luật. Khác với các nƣớc, ở Việt Nam các bản Hiến pháp năm 1959, năm

1980, năm 1992 khơng có quy định cụ thể về cơ quan tƣ pháp. Riêng Hiến
pháp năm 1946 có chƣơng VI quy định riêng về cơ quan tƣ pháp bao gồm
Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Tồ án đệ nhị cấp và sơ cấp. Cũng
có ý kiến cho rằng, Hiến pháp năm 1946 là khá điển hình cho việc vận dụng

11


hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền mà một trong những biểu hiện là
có chƣơng quy định riêng về cơ quan tƣ pháp và không chịu sự giám sát của
Nghị viện. Các Hiến pháp sau này đã có sự thay đổi về cấu trúc, theo đó
khơng cịn chƣơng quy định riêng về cơ quan tƣ pháp mà thay vào đó là
chƣơng quy định về TAND và Viện kiểm sát nhân dân VKSND. Tuy nhiên,
tìm hiểu kỹ về Tồ án quy định trong Hiến pháp năm 1946 thì thấy rằng, cơ
cấu của Toà án nƣớc ta thời kỳ này có những điểm khá đặc thù, khơng hồn
tồn giống nhƣ quan niệm về cơ quan tƣ pháp theo nghĩa hẹp ở trên. Theo Sắc
lệnh số 13 ngày 24-1-1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán,
Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân
cơng giữa các nhân viên trong Tồ án, Sắc lệnh số 31 ngày 19-3-1947 sửa đổi
Sắc lệnh số 131 ngày 20-7-1946 về tổ chức Tƣ pháp công an, Sắc lệnh số
258-SL quy định cách tổ chức Công an quân pháp trong thời kỳ kháng chiến,
thì trong cơ cấu tổ chức của Tồ án khơng chỉ có thẩm phán xét xử (thẩm
phán ngồi) mà cịn có thẩm phán buộc tội (thẩm phán đứng) đƣợc gọi là
Chƣởng lý, Biện lý, Phó Biện lý giữ vai trị cơng tố viên. Trong cơ cấu tổ
chức của Tƣ pháp cơng an có cả Biện lý, Phó Biện lý, Thẩm phán sơ cấp.
Biện lý có nhiệm vụ thi hành những bản án có hiệu lực. Trong quân đội, công
an quân pháp đƣợc giao thẩm quyền thi hành bản án của Toà án binh. Nhƣ
vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên xây dựng nền tƣ pháp non trẻ thì nội
hàm khái niệm cơ quan tƣ pháp theo Hiến pháp năm 1946 đã đƣợc thu nhận
thêm những thành tố khác nhƣ cơ quan công tố, điều tra, thi hành án. Cùng

với sự phát triển của hệ thống pháp luật về tƣ pháp, ngày 21-12-1999 Quốc
hội đã ban hành Bộ luật Hình sự (mới) thƣờng đƣợc gọi là Bộ luật Hình sự
năm 1999. Trong Bộ luật này có một chƣơng riêng quy định về các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp. Điều 292 quy định khái niệm tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp nhƣ sau: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành

12


vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi
hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cơng dân” [13, Điều 292]. Trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp có nhiều điều luật quy định về các tội phạm cụ thể nhƣ Điều 293
về tội truy cứu trách nhiệm ngƣời khơng có tội; Điều 295 về tội ra bản án trái
pháp luật; Điều 298 về tội dùng nhục hình; Điều 300 về tội làm sai lệch hồ sơ
vụ án; Điều 305 về tội không thi hành án, Điều 306 về tội cản trở việc thi
hành án,… Nhƣ vậy, bằng việc thơng qua Bộ luật Hình sự năm 1999, cơ quan
quyền lực nhà nƣớc cao nhất đã gián tiếp công nhận khái niệm cơ quan tƣ
pháp theo nghĩa rộng, theo đó cơ quan tƣ pháp bao gồm Tồ án, Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án.
Tiếp tục kế thừa bản chất và mơ hình tổng thể của bộ máy nhà nƣớc
trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm mới của Đảng về xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ
hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nƣớc
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Theo đó điều
chỉnh lại nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, khẳng định là cơ quan xét xử của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp cùng với
việc tăng tính độc lập của Tòa án. Các quy định về TAND đƣợc hiến định tại
Chƣơng VIII, Hiến pháp năm 2013 gồm 5 điều (từ Điều 102 đến Điều 106) và
trong một số điều khoản khác đã xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của

TAND trong bộ máy cơ quan nhà nƣớc. Trƣớc hết, Hiến pháp mới khẳng định
Tòa án nhân dân là “cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp” [15, Điều 102, Khoản 1]. Quy định này nhằm
bảo đảm vị thế và tính độc lập của Tịa án - một yêu cầu không thể thiếu đƣợc
trong cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực ở nƣớc ta.
Theo các nhà khoa học trong nƣớc, về cơ bản các quan niệm đều thống

13


nhất cho rằng quyền tƣ pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các
quy định của pháp luật. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa ngƣời dân hoặc các
tổ chức ngƣời dân lập ra (nhƣ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội,...) với
nhau nhƣng cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nƣớc với nhau hoặc
tranh chấp giữa cơ quan nhà nƣớc với ngƣời dân và tổ chức do ngƣời dân lập
nên. Nhƣ vậy, quyền tƣ pháp không chỉ là quyền xét xử các hành vi vi phạm
pháp luật của công dân, tổ chức không mang quyền lực nhà nƣớc, mà còn bao
gồm quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, là
một cơng cụ để kiểm sốt việc thực hiện các hành vi thực thi quyền lực nhà
nƣớc, trong đó có việc thực thi quyền hành pháp và quyền lập pháp.
Nhƣ vậy, Hiến pháp năm 1992 quy định TAND chỉ là cơ quan xét xử của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy
định ngồi chức năng xét xử thì TAND cịn thực hiện quyền tƣ pháp. Nội dung
mới này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phân định quyền lực nhà nƣớc
theo hƣớng TAND là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, Chính phủ là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập
pháp. Đây là định hƣớng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc ta theo kiểu nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới nêu trên về TAND còn mang
ý nghĩa thực tiễn, đây là cơ sở pháp lý để giao cho TAND có thẩm quyền giải
quyết những loại vụ việc liên quan đến việc hạn chế quyền nhân thân của cơng

dân, mà những loại việc đó hiện nay do các cơ quan hành chính đang thực hiện,
ví dụ nhƣ việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc
quyết định đƣa ngƣời vào các trung tâm giáo dƣỡng, cai nghiện,…
1.1.1.2. Tính tất yếu của cải cách tư pháp ở nước ta
Với vai trò là một hoạt động nhân danh cơng lý của Tịa án để giải
quyết các tranh chấp trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng – Tƣ
pháp là một mảng quyền lực của Nhà nƣớc cần đƣợc hoàn thiện và phát triển.

14


Trong lý luận và thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, CCTP luôn đƣợc hiểu với ý
nghĩa chung nhất là sự thay đổi đem lại những điều mới có ích cho việc xây
dựng nhà nƣớc và bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Nếu khơng đạt đƣợc ý nghĩa này, CCTP sẽ bị coi là thất bại. Có thể xem việc
CCTP năm 1950 là một minh chứng. Thời kỳ đó, Bộ Tƣ pháp đã trình lên
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự án Sắc lệnh Cải cách bộ máy tƣ pháp và Luật Tố tụng
với những mục đích rất rõ ràng là bộ máy tƣ pháp cần đƣợc “dân chủ hố”, “để
cơng việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng cần được
hợp lý và giản dị hơn” [2]. Với ý nghĩa đó, ngày 22-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tƣ pháp, xây dựng nên những
nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tƣ pháp non trẻ của nƣớc ta.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nƣớc,
điều chỉnh phạm vi nội dung và phƣơng thức hoạt động của Nhà nƣớc cho
phù hợp. Nguyên tắc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng
cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa phải đƣợc đề cao hơn bao giờ hết. Trong cải
cách bộ máy nhà nƣớc, CCTP có vị trí rất quan trọng. Bởi vì, các cơ quan tƣ
pháp là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính

đáng của ngƣời dân, bảo đảm kỷ cƣơng xã hội. Từ khi công cuộc đổi mới bắt
đầu, thực hiện chủ trƣơng cải cách bộ máy nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp đã
tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bƣớc nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Trong những năm qua, các cơ
quan tƣ pháp đã luôn luôn đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các
vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các

15


tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định
xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp
nhân dân trong q trình đổi mới. Có thể nói, quyền lực tƣ pháp đã đƣợc thực
hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của tồn bộ hệ thống tƣ pháp.
Thực tiễn cho thấy tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các tranh
chấp diễn ra ngày càng nhiều và mức độ nguy hiểm, phức tạp tăng lên; công
tác tƣ pháp ở nƣớc ta đã đạt đƣợc những kết quả nhất định, góp phần quan
trọng vào giữ gìn an ninh chính trị trật tự an tồn xã hội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân, bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất nƣớc. Đối với cán
bộ làm công tác tƣ pháp đã giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách
nhiệm và hồn thành tốt nhiệm vụ của đơn vị. Tuy nhiên, chất lƣợng công tác
tƣ pháp vẫn còn những tồn tại chƣa ngang tầm với đòi hỏi của nhân dân, còn
nhiều trƣờng hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan ngƣời vô tội, vi phạm các quyền tự
do, dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nƣớc và các cơ quan tƣ pháp. Công tác cán bộ của các cơ quan tƣ pháp chƣa
đáp ứng đƣợc yêu cầu của tình hình; đội ngũ cán bộ tƣ pháp cịn thiếu về số
lƣợng, yếu về trình độ năng lực thực hiện nhiệm vụ; một bộ phận cán bộ còn

tiêu cực là biểu hiện nghiêm trọng ảnh hƣởng đến kỉ cƣơng, pháp luật, giảm
hiệu lực của bộ máy Nhà nƣớc; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ
quan tƣ pháp chƣa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều trụ
sở còn rất chật chội, phƣơng tiện làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu; chính sách
đối với các cán bộ tƣ pháp chƣa tƣơng xứng với nhiệm vụ đƣợc giao. Bên
cạnh đó pháp luật trong lĩnh vực tƣ pháp chƣa hồn thiện, thiếu đồng bộ và
cịn nhiều sơ hở. Cơng tác xây dựng, giải thích, hƣớng dẫn và tuyên truyền
phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật về lĩnh vực tƣ pháp cịn
nhiều bất cập và hạn chế.

16


Trƣớc những đòi hỏi, yêu cầu cấp bách của thực tiễn nền tƣ pháp nƣớc
nhà, kế thừa tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền, vấn đề cải cách tƣ pháp đã chính thức đƣợc đặt ra tại
các Đại hội Đảng và ghi nhận trong các Nghị quyết 8 Trung ƣơng khóa VII,
Nghị Quyết 3 và 7 Trung ƣơng khóa VIII, đặc biệt là Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08) và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” (sau đây gọi là Nghị quyết 49). Từ đó cho
thấy vấn đề CCTP là nhiệm vụ cấp bách của Nhà nƣớc nói chung và của các
cơ quan tƣ pháp nói riêng nhằm xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Nhƣ vậy, những yêu cầu và địi hỏi
của tình hình mới đã đặt ra u cầu khách quan, cấp thiết cả về phƣơng diện
lý luận cũng nhƣ phƣơng diện thực tiễn nhằm mục tiêu xây dựng nền tƣ pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bƣớc
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
hoạt động tƣ pháp mà “trọng tâm là hoạt động xét xử của Tịa án” [4] đƣợc
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Theo đó, các nội dụng cụ thể cần thực

hiện để cải cách tƣ pháp bao gồm:
Thứ nhất, CCTP cần phải đƣợc tiến hành tổng thể trong việc cải cách bộ
máy nhà nƣớc, cũng nhƣ trong mối liên hệ mật thiết và đồng bộ với cải cách
hành chính. Q trình cải cách đó khơng thể tách rời việc đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân.
Thứ hai, CCTP phải hƣớng tới việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc
cơ bản về tổ chức và hoạt động tƣ pháp nhƣ: mỗi cơ quan thực hiện từng
khâu của tiến trình tố tụng phải chịu trách nhiệm độc lập về kết luận của

17


mình; bảo đảm tính khách quan của việc xét xử hai cấp; thẩm phán và hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử; mọi công dân đều bình
đẳng trƣớc pháp luật; quyền bào chữa của bị can, bị cáo đƣợc bảo đảm;
nhân dân tham gia kiểm tra và giám sát hoạt động tƣ pháp, không bỏ lọt tội
phạm, làm oan ngƣời vô tội;...[10].
Thứ ba, cần thực hiện tốt và nghiêm túc các nhiệm vụ CCTP, đó là
hồn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tƣ
pháp; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các cơ quan tƣ pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của TAND; hoàn thiện các chế định bổ trợ tƣ pháp; xây dựng đội ngũ
cán bộ tƣ pháp và bổ trợ tƣ pháp trong sạch vững mạnh; hoàn thiện cơ chế
giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối
với cơ quan tƣ pháp; tăng cƣờng hợp tác quốc tế về tƣ pháp; bảo đảm cơ sở
vật chất cho hoạt động tƣ pháp và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với cơng tác tƣ pháp.
Nhắc đến tƣ pháp là nói tới công tác xét xử và những hoạt động phục
vụ hay liên quan trực tiếp tới hoạt động xét xử. Do đó, “hoạt động tư pháp,

khơng có gì khác là hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử
của Tòa án được thừa nhận là nơi biểu hiện tập trung nhất quyền tư pháp
trong một quốc gia” [5]. Cho nên, chủ thể có vai trị phán xử và bảo vệ cơng
lý là Tịa án và hoạt động này phải đƣợc tiến hành dựa trên cơ sở pháp luật và
các chính sách của Nhà nƣớc.
1.1.2. Mục tiêu, quan điểm cải cách tƣ pháp
1.1.2.1. Mục tiêu cải cách tư pháp
Theo tinh thần của Nghị quyết 49, CCTP đƣợc thực hiện gắn với mục
tiêu xây dựng nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bƣớc hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt

18


Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
đƣợc tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
1.1.2.2. Quan điểm cải cách tư pháp
Đảng và Nhà nƣớc xác định rõ quan điểm về CCTP tại Nghị quyết 49
nhƣ sau:
Thứ nhất, CCTP phải đặt dƣới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm
sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nƣớc là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp.
Thứ hai, CCTP phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập
pháp, cải cách hành chính.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội trong q trình cải
cách tƣ pháp. Các cơ quan tƣ pháp, cơ quan bổ trợ tƣ pháp phải đặt dƣới sự

giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân.
Thứ tư, CCTP phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành
tựu đã đạt đƣợc của nền tƣ pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn
lọc những kinh nghiệm của nƣớc ngoài phù hợp với hoàn cảnh nƣớc ta và yêu
cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng đƣợc xu thế phát triển của xã hội
trong tƣơng lai.
Thứ năm, CCTP phải đƣợc tiến hành khẩn trƣơng, đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm với những bƣớc đi vững chắc.
1.1.3. Phƣơng hƣớng và nhiệm vụ của cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta
hiện nay
1.1.3.1. Phương hướng cải cách tư pháp

19


×