Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.08 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là một trong những chính sách kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta. Thuế là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát
triển, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước ta luôn
quan tâm đến chế độ tự khai, tự nộp thuế với một trong những nội dung trọng
tâm là thanh tra, kiểm tra thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế có vai trò quan trọng, là chức năng thiết yếu của
quản lí Nhà nước nói chung và trong lĩnh vực thuế nói riêng.
Trong những năm vừa qua công tác thanh tra, kiểm tra Thuế cũng đã đạt
được những thành tựu đáng kể, góp phần ngằn ngừa cac vi phạm thuế, thu hồi
lại các nguồn thu thuế đã bị mất cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng còn những tồn tại yếu kém của công tác thanh tra, kiểm tra, nguyên nhân
gây ra tình trạng yếu kém ấy là do hệ thống pháp luật về quản lí thuế còn yếu,
thiếu, khó thực hiện, khó kiểm tra, giám sát và chưa phù hợp với xu thế chung
của xã hội. Công tác kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan có chức năng chưa
được coi trọng đúng mức, tính hiệu lực, hiệu quả, trong thanh tra kiểm tra còn
nhiều hạn chế, chưa phát hiện được kịp thời các hành vi gian lận trong việc kê
khai tính thuế, miễn giảm thuế. Trước thực trạng đó và xu thế phát triển của đất
nước là đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế xây dựng trên nền
tảng của sản xuất công nghiệp hiện đại; quản lí theo yêu cầu hiện đại hóa. Chính
vì thế để làm rõ hơn về công tác thanh tra, kiểm tra thuế em xin được lựa chọn
đề tài : “ Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực
trạng và những vấn đề cần hòan thiện ở VN hiện nay ” làm cơ sở cho bài tập
lớn kỳ này !

1


NỘI DUNG
I Những vấn đề chung về thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm pháp luật thuế.


1. Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật
thuế
Thanh tra, kiểm tra là yêu cầu tất yếu trong quản lí nhà nước nói chung,
mà còn có vài trò đặc biệt quan trọng trong quản lí thuế nói riêng, họat động
thanh tra, kiểm tra có nghĩa là tiến hành việc nghiên cứu, thu thập số liệu, đánh
giá họat động quản lí và mục đích cuối cùng là tìm hiểu được kết quả tác động
của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí, họat động thanh tra, kiểm tra không
phải là họat động trực tiếp chỉ huy, điều hành quản lí, không chỉ là họat động
chuyên môn trong bộ máy quản lí, mà nó chính là họat động đảm bảo thực hiện
chính sách pháp luật. giữ vững kĩ cương trong quản lí tài chính. Qua kiểm tra
giúp nâng cao công tác quản lí của các cơ quan có chức năng, ngòai ra họat động
thanh tra, kiểm tra còn là một phương thức để đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân. Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm kịp thời phát hiện và xử lí các sai phạm trong
lĩnh vực thuế; ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế; chống thất thu
ngân sách nhà nước. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác quản lí thuế theo cơ chế
tự khai, tự nộp thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật
thuế ngày càng được coi trọng.
2. Khái niệm thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Kiểm tra thuế, thanh tra thuế , xử lý vi phạm pháp luật thuế là những nội
dung của quản lý thuế được quy định trong Luật quản lý thuế ( QLT) năm 2006
và các văn bản Luật có liên quan.
- Có thể thấy trong trong họat động quản lí Nhà nước nói chung thanh tra
là một chức năng thiết yếu của quản lí Nhà nước, là họat động kiểm tra, xem xét
việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi
một cơ quan chuyên trách thoe một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm
kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa và xử lý các vi phạm góp phần hòan thiện cơ chế quản lí, tăng cương pháp
chế xã hội chỉ nghĩa, bảo về lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên đối với pháp luật thuế hiện hành,

công tác thanh tra thuế được đưa ra một khái niệm như sau : “ Thanh tra thuế là
kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức cao hơn, toàn diện hơn. Thanh tra thuế được
thực hiện theo định kì đối với người nộp thuế lớn, ngành nghề kinh doanh đa
2


dang, quy mô lớn và phức tạp; hoặc đối với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm
pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo
yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lí thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ tài
chính”.
- Nếu như thanh tra thuế là một họat động quản lí mang tính chất trực diện
trên phạm vi nhất định thì kiểm tra thuế lại là họat động mang tính chất rộng
hơn, thoe pháp luật thuế hiện hành, kiểm tra thuế được hiểu là một họat động
thường xuyên, là việc xem xét các các chủ thể chấp hành chính sách pháp luật
về thuế đúng hay không, kiểm tra việc thực hiện các chính sách về thuế do Nhà
nước ban hành. Vì vậy có thể hiểu khái niệm về kiểm tra thuế : “ Kiểm tra thuế
là hoạt động do cơ quan thuế tiến hành nhằm xem xét tính đầy đủ, chính xác
của thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật của
người nộp thuế. Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên mang tính chất nghiệp
vụ của cơ quan thuế. Kiểm tra thuế được thực hiện theo hai phương thức: Kiểm
tra thuế được tại trụ sở cơ quan thuế và kiểm tra thuế được tiến hành ở trụ sở
của người nộp thuế ”.
- Xử lý vi phạm pháp luật thuế: Vi phạm pháp luật thuế là hành vi
làm trái các qui định của pháp luật thuế, do các tổ chức, cá nhân thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng.
Xử lý vi phạm pháp luật thuế chính là việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành các
hoạt động nhất định để áp dụng chế tài đối với các chủ thể vi phạm pháp luật
thuế. Trong thực tiễn pháp lí, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa
dạng, tinh vi và phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau. Tuy nhiên, về phương
diện bản chất, mỗi vi phạm đó đều thuộc về một trong các loại hành vi vi phạm

chủ yếu : vi phạm hành chính về thuế, vi phạm hình sự về thuế.
Từ việc phân tích các khái niệm trên về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi
phạm pháp luật về thuế có thể thấy chúng là những họat động riêng biệt với
nhau, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
giúp cho quá trình quản lí về thuế ngày càng linh họat hơn.
3. Mục tiêu của thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong
công tác quản lí thuế của nước ta hiện nay.
Mục tiêu của họat động thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong
giai đọan hiện nay và tương lại nhằm. Thứ nhất, phòng ngừa, phát hiện và xử lí
các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Thứ hai, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các
chính sách thuế mà nhà nước ban hành. Bảo đảm không bị thất thoát các khoản
thu thuế của ngân sách nhà nước. Thứ ba, bảo đảm pháp luật thuế được thi hành
nghiêm trên thực tế, bảo đảm sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, bảo vệ lợi
3


ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân
thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế. Thứ tư, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan
quản lí thuế mà cụ thể là các cán bộ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế,
nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật.
II. Nội dung pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
1. Nội dung thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong pháp
luật hiện hành.
1.1 Quy định của pháp luật về thanh tra thuế
Chủ thể có thẩm quyền thanh tra thuế: căn cứ vào khoản 3 điều 9 Luật
QLT là cơ quan quản lý thuế . Cơ quan quản lý thuế bao gồm cơ quan thuế và cơ
quan hải quan.
Đối tượng bị thanh tra thuế: Đối tượng bị thanh tra thuế là người nộp thuế
thuộc một trong các trường hợp sau: Doanh nghiệp có nghành nghề kinh doanh
đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng; Người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp

luật thuế; Theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp, theo yêu
cầu của Bộ trưởng bộ tài chính; Thanh tra thuế để giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hình thức , trình tự thủ tục thanh tra thuế: Dựa theo quy định tại Điều 81 luật
QLT, có hai loại thanh tra thuế là : Thanh tra thuế theo kế hoạch và thanh tra
thuế không theo kế hoạch.
Thanh tra thuế theo kế hoạch: Thanh tra thuế theo kế hoạch chỉ áp dụng
đối với các doanh nghiệp có nghành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh
doanh rộng. Thanh tra định kỳ một năm không quá một lần và được thực hiện
căn cứ vào kế hoạch thanh tra hàng năm đã được phê duyệt.
Thanh tra không theo kế hoạch: Thanh tra không theo kế hoạch sẽ áp
dụng cho các đối tượng sau:
Người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế ; Thanh tra theo yêu
cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp, theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ
tài chính và Thanh tra để giải quyết khiếu nại tố cáo.
Việc thanh tra thuế được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Số lần
thanh tra thuế và thời gian thanh tra trong mỗi lần phải thực hiện theo kế hoạch
thanh tra đã được thủ trưởng cơ quản lý thuế phê duyệt ( qui định tại điều 37
nghị định số 85/2007/NĐ-CP) .
Đặc biệt, Luật QLT dành mục 4 chương X để qui định các biện pháp áp
dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, gian lận
thuế. Cụ thể: Khi người nộp thuế có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế liên quan
đến các cá nhân , tổ chức khác hoặc có dấu hiệu trốn thuế , gian lận thuế có tính
chất phức tạp, người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp sau: Thu nhập
4


thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế , gian lận thuế; Tạm giữ tài liệu tang
vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế; Khám nơi cất giấu tài liệu ,
tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
1.2 Quy định của pháp luật về kiểm tra thuế.

Chủ thể có thẩm quyền kiểm tra thuế: căn cứ vào khoản 3 điều 9 Luật
QLT , chủ thể có thẩm quyền kiểm tra thuế là cơ quan quản lý thuế . Cơ quan
quản lý thuế bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan. Cơ quan thuế gồm
Tổng cục thuế , cục thuế, chi cục thuế. Cơ quan hải quan có Tổng cục hải quan,
cục hải quan, chi cục hải quan.
Đối tượng bị kiểm tra thuế: Đối tượng bị kiểm tra thuế là người nộp thuế.
Người nộp thuế là người có nghĩa vụ nộp các khoản thuế do các luật thuế
quy định.
Phạm vi tiến hành: Kiểm tra thuế thường được thực hiện một cách thường
xuyên, liên tục, với nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra thích hợp với yêu
cầu, đặc điểm của từng khách thể điều tra.Hoạt động kiểm tra thuế được tiến
hành trong thời gian tối đa không quá 5 ngày.
 Hình thức, trình tự thủ tục kiểm tra thuế: Điều 77 và Điều 78 Luật QLT 2006
nghi nhận 2 hình thức kiểm tra thuế là : Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý
thuế và kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
Kiểm tra thuế ở cơ quan quản lý thuế là kiểm tra dựa trên hồ sơ của người
nộp thuế. Việc kiểm tra thuế ở cơ quan quản lý thuế được tiến hành theo trình tự
thủ tục sau:
Khi các hồ sơ thuế của người nộp thuế gửi đến cơ quan thuế, công chức
thuế tiến hành kiểm tra nội dung kê khai trong hồ sơ thuế, đối chiếu với cơ sở
dữ liệu của người nộp thuế và tài liệu liên quan về người nộp thuế, so sánh các
dữ liệu nộp thuế cùng ngành nghề, mặt hàng kinh doanh để phân tích, đánh giá
mức độ tuân thủ hoặc phát hiện các trường hợp khai chưa đầy đủ thông tin, khai
sai thông tin nhằm trốn thuế, lậu thuế, gian lận thuế.
Sau khi kiểm tra, công chức thuế xác nhận kết quả kiểm tra thuế vào hồ sơ
thuế : Nếu hồ sơ khai thuế bảo đảm tính đầy đủ , chính xác của các thông tin ,
tài liệu, không có dấu hiệu vi phạm thì chấp nhận. Nếu hồ sơ chưa đủ tài liệu
theo qui định của pháp luật hoặc khai chưa đầy đủ các chỉ tiêu theo qui định ,cơ
quan thuế thông báo cho người nộp thuế biết để hoàn chỉnh hồ sơ.
Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế: kiểm tra thuế tại trụ sở của

người nộp thuế chỉ được tiến hành khi thuộc các trường hợp qui định tại khoản 1
Điều 78 Luật QLT, cụ thể gồm: Hết thời hạn theo thông báo của cơ quan thuế
mà người nộp thuế không giải trình , bổ sung thông tin hoặc không khai bổ sung
5


hồ sơ thuế và cơ quan thuế không đủ căn cứ ấn định số thuế phải nộp, cơ quan
thuế ra quyết định kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế ; kiểm tra sau thông quan.
Việc kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế chỉ thực hiện khi có quyết
định kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế do thủ trưởng cơ quan thuế ban
hành.
Trình tự, thủ tục kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế được qui định
cụ thể tại khoản 2 Điều 78.
1.3 Quy định của pháp luật về xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Đối tượng bị xử lí vi phạm pháp luật thuế:
Theo Điều 1 Nghị định 98/2007, đối tượng bị xử lí vi phạm pháp luật về
thuế bao gồm: người nộp thuế có hành vi vi phạm pháp luật về thuế; cơ quan
thuế, công chức quản lí thuế vi phạm pháp luật về thuế; người có thẩm quyền và
trách nhiệm xử lí vi phạm pháp luật về thuế; cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân
khác liên quan đến việc xử lí vi phạm pháp luật về thuế.
Người nộp thuế bị xử lí vi phạm pháp luật thuế khi có các hành vi:chậm
nộp hồ sơ đăng ký thuế, chậm thông báo thay đổi thông tin so với thời hạn quy
định; khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế; chậm nộp hồ sơ khai
thuế so với thời hạn quy định; vi phạm các quy định về cung cấp thông tin liên
quan đến xác định nghĩa vụ thuế; vi phạm quy định về chấp hành quyết định
kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và vi
phạm chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá vận chuyển trên đường; chậm
nộp tiền thuế; khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế
được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế.
Theo Điều 16 Nghị định 98/ 2007/ NĐ- CP, cơ quan quản lí thuế, công

chức quản lí thuế bị xử lí vi phạm khi có các hành vi quy định tại Điều 112, 113
Luật QLT.
Tổ chức, cá nhân có liên quan bị xử lí vi phạm pháp luật thuế khi có các
hành vi quy định tại Điều 17 NĐ 98/ 2007/ NĐ- CP.
Thẩm quyền xử lí vi phạm pháp luật về thuế được quy định tại Điều 109
Luật QLT và Điều 18, 19 Nghị định 98/2007/NĐ-CP , chủ thể có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính thuế gồm: Cơ quan thuế và chủ tịch uỷ ban nhân dân
các cấp.
Thời hiệu xử lí vi phạm pháp luật về thuế quy định tại Điều 110 Luật QLT :
“ 1. Đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế, thời hiệu xử phạt là hai năm, kể
từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.

6


2. Đối với hành vi vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự, hành vi chậm nộp tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế, thời hiệu
xử phạt là năm năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.
3. Quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thì người nộp thuế
không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số
tiền thuế gian lận vào ngân sách nhà nước.”
Như đã nói, các hành vi vi phạm tuy đa dạng nhưng thuộc một trong các
loại hành vi vi phạm chủ yếu : vi phạm hành chính về thuế, vi phạm hình sự về
thuế.
Hành vi vi phạm hành chính thuế là hành vi làm trái các qui định pháp
luật hành chính trong lĩnh vực thuế , do các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các lợi ích mà các luật thuế bảo vệ nhưng chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Người vi phạm hành chính thuế phải
chịu trách nhiệm hành chính.(1)
Hành vi vi phạm hình sự về thuế là hành vi làm trái các qui định pháp luật

hình sự , do các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý , xâm hại đến các lợi
ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được Bộ luật hình sự năm 1999( sửa đổi bổ
sung năm 2009) bảo vệ.(2)
Điều kiện, trình tự, thủ tục xử lý vi phạm pháp luật thuế:
* Đối với xử lý vi phạm hành chính thuế: văn bản pháp luật điều chỉnh xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là nghị định số 98/2007/NĐ-CP, Nghị
định số 13/2009/NĐ-CP .
Điều kiện để xử phạt vi phạm hành chính thuế : Tổ chức, cá nhân chỉ bị
xử phạt hành chính thuế khi :
- Thực hiện các hành vi qui định ở điều 103 Luật quản lý thuế ( vi phạm
các quy định về thủ tục thuế; chậm nộp tiền thuế; Khai sai dẫn đến thiếu số tiền
thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế.)
- Có lỗi khi thực hiện hành vi: có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ
Luật hình sự năm 1999.
Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuế: Nhân viên thuế
đang thi hành công vụ; Trạm trưởng Trạm Thuế, Đội trưởng đội Thuế; Chi cục
trưởng Chi cục Thuế; Cục trưởng Cục Thuế; chủ tịch UBND các cấp.
Cách thức xử lý vi phạm hành chính thuế: Người vi phạm hành chính thuế
sẽ bị áp dụng các chế tài hành chính thuế: phạt cảnh cáo, phạt tiền . Ngoài ra,
1

2

7


còn có thể bị áp dụng hình thức phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
* Đối với xử lý vi phạm hình sự thuế.

Văn bản điều chỉnh xử lý vi phạm hình sự thuế là Bộ luật hình sự năm
1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Trong đó, Bộ luật hình sự 1999 qui định những hành vi nào là hành vi vi phạm
hình sự về thuế, qui định chế tài áp dụng cho hành vi vi phạm hình sự thuế. Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 qui định trình tự, thủ tục thực hiện việc xử lý các
hành vi vi phạm hình sự về thuế.
Khi người nộp thuế , cơ quan quản lý thuế hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan quản lý thuế vi phạm các qui định có liên quan đến lĩnh vực thuế
được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 thì hành vi đó được xác định là tội
phạm
2. Đánh giá quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm thuế
Kể từ khi ban hành Luật QLT, vấn đề về kiểm tra thuế, thanh tra thuế, xử
lý vi phạm pháp luật thuế đã có những bước phát triển vượt bậc ,có nhiều điểm
mới tiến bộ hơn so với trước đây. Tuy nhiên, pháp luật thanh tra , kiểm tra thuế
và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở nước ta hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất
định: Các quy định về thanh tra, kiểm tra chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản
pháp luật như : Luật thanh tra, Luật quản lý thuế, Luật khiếu nại tố cáo…; các
quy trình, thủ tục trong thanh tra, kiểm tra thuế vẫn còn chưa phù hợp với Luật
quản lý thuế gây khó khăn cho quá trình thanh tra, kiểm tra thuế trong thực tế.
Ngòai ra trên cơ sở thực tiễn của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm
pháp luật thuế, còn tồi tại vấn đề về trách nhiệm của người nộp thuế, của cơ
quan quản lý thuế, cần thiết phải thay đổi bổ sung, sửa đổi các quy định không
còn phù hợp hoặc còn chưa đầy đủ đề nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra,
kiểm tra, ngăn ngừa, hạn chế các tiêu cực đã đang sảy ra đối với người nộp thuế,
về cơ quan quản lý nhà nước cũng cần cải cách về chế độ hành chính thoe
hướng linh họat, minh bạch rõ ràng….vv. Hơn thế nữa , pháp luật thanh tra,
kiểm tra thuế hiện nay chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, còn mang tính
chắp vá, tản mạn. Điều này được thể hịên trong qui trình thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp ban hành kèm theo quyết định 1166/QĐ-TCT ngày 31 tháng 10
năm 2005 của tổng cục thuế, tại điểm 2.3 khoản 2 mục III qui định” trưởng đoàn

thanh tra , kiểm tra ký kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra . Điều này là mâu
thuẫn với khoản 1 Điều 135 nghị định 41 /2005/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm
2005 của chính phủ qui định huớng dẫn thi hành một số điều của luật thanh tra
năm 2004.
8


III Thực tiễn thi hành pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp
luật thuế.
1. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân của nó.
Từ phân tích ở trên có thể thấy tác động của họat động thanh tra, kiểm tra và
xử lí vi phạm pháp luật thuế mang lại nhiều lợi ích cho quá trình của quản lí của
các cơ quan chức năng, tuy nhiên bên cạnh đó thực tiễn thi hành, áp dụng lại
đang gặp nhiều khó khăn vướng mắc.
Thứ nhất : Luật QLT đã có qui định là việc thanh tra được thực hiện căn cứ
vào kế hoạch thanh tra ( trừ trường hợp thanh tra không theo kế hoạch). Việc lập
kế hoạch thanh tra phải dựa trên những phân tích cơ bản về người nộp thuế , từ
đó phát hiện và lập danh sách những người nộp thuế có dấu hiệu bất thường
trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Các cơ quan có chức năng khi tiến hành
thanh tra, còn gặp nhiều khó khăn do có sự trùng lặp về văn bản thi hành, chủ
yếu là các văn bản có hiệu lực pháp lí thấp, quy trình thủ tục trong quản lí thuế ở
các sắc thuế không thống nhất gây khó khăn cho việc thực hiện và làm cho hệ
thống thuế phức tạp, khó hiện đại hóa công tác thanh tra, kiểm tra thuế, các quy
định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế còn
mang tình trạng thừa và thiếu và yếu. Không rõ ràng và thiếu tính khả thi, chưa
phù hợp với các chuẩn mực quốc tế….
Thứ hai : Công tác thanh tra, kiểm tra thuế thoe phương thức mới dựa trên cơ
sở dự liệu thông tin tổng hợp và kỹ thuật quản lý rủi ro hạn chế. Kể từ khi
chuyển sang phương pháp thanh tra, kiểm tra mới còn rất nhiều nơi đặc biệt là ở
cấp chi cục việc áp dụng phương pháp này còn rất lúng túng do vậy kết quả còn

rất hạn chế. Không chỉ vậy, phương pháp mới còn có thể gặp rủi ro đó là khả
năng để sót các trường hợp gian lận mà không bị phát hiện và ngằn chăn kịp thời
do người nộp thuế lợi dụng sự thông thóang của cơ chế “ tự khai, tự nộp ”.
Trường hợp này sảy ra nhiều khi hệ thống thông cơ sở dữ liệu thông tin về
người nộp thuế không được đảm bảo tính đầu đủ, tòan diện, kịp thời; hoặc bộ
máy quản lý thu thuế không đủ độ tinh nhuệ, lực lượng phương tiện để phục vụ
cho công tác quản lý không đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời các đối tượng
cố tình khai man, trốn lậu thuế hoặc do bộ máy quản lý, giám sát bị tha hóa, biến
chất, tham nhũng, cố tình làm ngơ.
Thứ ba : Lực lượng thanh tra thuế hiện nay là rất mỏng. Ở các nước khác
lượng lượng thanh tra chiếm tỷ lệ 25 đến 30% tổng số cán bộ ngành thuế còn ở
Việt nam chỉ chiếm khoảng 12%. Ngoài ra, chất lượng cán bộ thanh tra thuế,
kiểm tra thuế là còn chưa cao. Trong khi đó hồ sơ khai thuế tháng hiện nay, hầu
hết người nộp thuế gần sát ngày hết hạn nộp thuế mới đến nộp cho cơ quan thuế.
9


Do đó số lượng người nộp thuế tập trung quá đông trong một thời điểm mà đòi
hỏi tiến hành trong thời hạn không quá 3 ngày nên không tránh được tình trạng
hồ sơ thuế không được kiểm tra kĩ lưỡng.
Thứ tư : Trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh
về thuế của đại bộ phận nhân dân còn hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án
mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lậu thuế thậm chí nhiều trường hợp còn thờ
ơ, đồng tình gây khó khăn cho công tác thanh tra kiểm tra thuế.
Thứ năm : Thực tiễn cho thấy sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan,
đặc biệt là các cơ quan kho bạc nhà nước, ngân hàng, cơ quan kế hoạch và đầu
tư, tổng cục thống kê và các cơ quan khác có liên quan còn hạn chế.
Cuối cùng một điểm bất cập nữa mà hiện nay, được xem là vấn đề khó
khăn trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế đó là tình trạng, gian lận thuế, trốn
lậu thu, chiếm đạt tiền nợ thuế, nợ đọng thuế vẫn không chấm dứt triệt để, mà

vẫn còn diễn ra ở nhiều loại thuế và ở nhiều địa phương trong cả nước. Tình
trạng trốn thuế, gian lận thuế ngày càng tinh vi, trá hình, trong khi đó công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế của cơ quan quản lý thuế vẫn
còn một số hạn chế và chưa lường hết được các thủ thuật của người nộp thuế.
IV Phương hướng và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật thanh tra, kiểm
tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi
phạm pháp luật thuế.
Thứ nhất, bổ sung các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế trong Luật quản lý
thuế 2006. Bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan
thuế, công chức thuế gây ra. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về hành vi trái pháp luật do lỗi cùa
người thì hành công vụ gây ra; có thiệt hại thực tế do người thi hành công vụ
gây ra đối với người bị thiệt hại; có quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại
và thiệt hại. Và quy định rõ về các trình tự thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bổ sung thêm quy định về phối hợp điều tra thuế nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra thuế kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm
pháp luật có tính chất phức tạp, tinh vi. Quy định về điều tra thuế nên theo
hướng xác định điều tra thuế là chỉ điều tra hành chính, đồng thời với quy định
về điều tra thuế cần bổ sung các quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan thuế,
công chức thuế trước các quyết định của mình.
Bổ sung quy định về thanh tra đột xuất: tiến hành thanh tra đột xuất khi có
dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quy định phải
làm rõ được dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế đến mức độ nào thì cơ quan thuế
10


mới có quyền tiến hành thanh tra đột xuất; phải làm rõ được việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo phải được xác minh và xác định chính xác như thế nào thì cơ
quan thuế mới tiến hành thanh tra đột xuất.

Thứ hai, nhanh chóng ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra mới phù hợp với
các quy định của Luật QLT thay thế cho quy trình thanh tra, kiểm tra đã được
ban hành theo Quyết định 1166/ 2005.
Thứ ba, cần nhan chóng ban hành các quy định hướng dẫn một cách cụ thể
về vấn đề kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các tài liệu thông tin trong hồ sơ
thuế để tránh tính trạng cơ quan thuế à doanh nghiệp có cách hiểu khác nhau về
trách nhiệm xác định tính đầy đủ và chính xác trong hồ sơ nộp thuế của người
nộp thuế. Theo cơ chế quản lí thuế tự khai, tự nộp thuế, người nộp thuế phải
chịu trách nhiệm về những thông tin, tài liệu đã khai trong hồ sơ nộp thuế, việc
kiểm tra của cơ quan thuế và việc chấp nhận tờ khai của cơ quan thuế mới là các
thủ tục chỉ mang tính chất hành chính.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định về mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra thuế
đặc biệt là hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ quyền hạn của các tổ chức thanh
tra thuế, thanh tra hải quan ở cấp tổng cục và chi cục để phù hợp với Luật QLT
và luật Thanh tra 2004, tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong việc thực hiện chức
năng thanh tra, kiểm tra thuế; tạo điều kiện cho các cơ quan thanh tra hoạt động
có hiệu quả cao, theo đúng khuôn khổ pháp luật.
2. Những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử
lí vi phạm pháp luật thuế.
Trước hết, cần tiến hành rà soát lại hiện trạng công tác thanh tra, kiểm tra
và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong thời gian vừa qua, qua đó đánh giá được
những mặt đạt được và những nhước điểm vẫn còn tồn tại, qua đó nghiên cứu
xây dựng các quy định pháp luật cho phù hợp với tính hình thực tế.
Đẩy mạnh, nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế dưới
nhiều hình thức phong phú. Hướng dẫn đầy đủ các thủ tục có liên quan đến thủ
tục thuế để người nộp thuế tự mình thực hiện tốt các nghĩa vụ về thuế. Cơ quan
thuế cần chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo
dục quốc dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để mọi tổ
chức cá nhân hiểu biết rõ và tự giác nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.


11


KẾT LUẬN
Qua bài làm vừa phân tích như trên, ta có thể thấy chính sách về thuế và
luật thuế về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về Luật thuế đã có những bước
thay đổi, những dấu hiệu đáng mừng, vì về cơ bản, qua quá trình sửa đổi bổ
sung luật đã làm tăng cao hơn tính hiệu quả, tính chặt chẽ, trong thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế, giảm tối thiểu các trường hợp chốn thuế, lậu
thuế, đồng thời cũng nâng cao được ý thức tự giác, ý thức cá nhân độc lập làm
việc đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên, thực hiện công tác,thanh tra, kiêm tra và
xử lý vi phạm pháp luật thuế…vv
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh đó, cũng song song tồn tại, những bất
cập chưa giải quyết được trong nghành thuế nói chung và trong công tác thanh
tra, kiểm tra thuế nói riêng, vì thế yêu cầu bức thiết là Đảng và Nhà nước ta cần
nâng cao, đẩy mạnh hơn nữa pháp luật về thuế, đặc biệt là thanh tra, kiểm tra và
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo Trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb Công
An Nhân Dân
2. Nguyễn tiến Lâm, Khóa Luận tốt nghiệp. Hệ thống chế tài xử lý vi phạm
pháp luật về thuế ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện, Hn 2002
3. Quyết định 1166/QĐ-TCT ngày 31 tháng 10 năm 2005 của tổng cục thuế về
quy trình thanh tra, kiểm tra Doanh Nghiệp.
4. Nghị định 41 /2005/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2005 của chính phủ qui
định huớng dẫn thi hành một số điều của luật thanh tra năm 2004.

5. Nghị định 98/2007 của CP quy định việc xử lý vi phạm PL về thuế và cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính thuế.
6. Luật quản lý thuế 2006

13



×