Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

phân tích cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.79 KB, 21 trang )

Lời mở đầu
Trong xu hướng kinh doanh thương mại ngày càng mởi rộng cả về phạm
vi lẫn hình thức, các hoạt động nghiệp vụ mà các ngân hàng thương
mại cung cấp cho các doanh nghiệp đã và ngày càng trở thành những
trợ thủ đắc lực thúc đẩy kinh doanh phát triển. Trong đó, một trong
những hoạt động ra đời trễ nhưng không kém quan trọng và ngày càng
được các doanh nghiệp tận dụng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của mình đó là hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng
thường được ví như tấm giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các
hoạt động mua bán trả chậm, không những tạo thuận lợi cho kế hoạch
của doanh nghiệp nhận bảo lãnh mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ có
cơ sở để tin tưởng lẫn nhau hơn. Bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ
kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch
về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng
mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản
phẩm…Với vai trò như vậy, việc tìm hiểu sâu hơn về hoạt động bảo
lãnh ngân hàng và các vấn đề pháp lý liên quan điều chỉnh hoạt động
ngân hàng là hết sức cần thiết và bổ ích. Và để tìm hiểu sâu hơn về
hoạt động bảo lãnh ngân hàng em xin tìm hiểu vào một số khía cạnh cụ
thể “phân tích cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng và
thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng”.
trong quá trình tìm hiểu đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót em
rất mong nhận được những ý kiến đánh giá của thầy cô và các bạn để
đề tài này được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn các thầy cô giáo đã
giảng trong các giờ lên lớp cũng như những đóng góp của các bạn giúp
em hoàn thành tốt đề tài này!

Bài làm
1. Cơ sở cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.1 Từ hoạt động bảo lãnh dân sự.
Trong giao dịch dân sự ở nước ta, Bộ Luật dân sự ngày 14/6/2005 đã


dành 5 chương (từ chương 17 đến chương 21 với 351 điều quy định về
1


Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự. Trong đó, quyền và nghĩa vụ dân sự,
trách nhiệm dân sự, việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa
vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là các quy định gốc, mang
tính nguyên tắc cơ bản nhất để các tổ chức, cá nhân trong xã hội triển khai
thực hiện các giao dịch dân sự. Các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự như: cầm cố tài sản (các điều 326-341), thế chấp tài sản (các điều
342-357), đặt cọc (điều 358), ký cược (điều 359), ký quỹ (điều 360), bảo
lãnh (các điều 361-371), tín chấp (các điều 372-373) là cơ sở để xây dựng và
xử lý các vấn đề về tài chính của các bên trong giao dịch dân sự. Đây cũng
là cơ sở để các tổ chức, cá nhân triển khai các dịch vụ tài chính, là những
dịch vụ liên quan đến sự vận động của các luồng vốn, các nguồn lực trong
xã hội . Xét về bản chất kinh tế, các dịch vụ tài chính thuộc dạng này không
phải là giao dịch mua/bán hàng hóa, dịch vụ thuần túy trừ phi hàng hóa dịch
vụ được “gán ép” hoặc bắt buộc phải chuyển giao quyền sở hữu giữa các
bên liên quan để thực hiện bảo đảm nghĩa vụ đã cam kết trong giao dịch dân
sự. Với đạo lý đó mà nhiều nước trên thế giới hiện nay đã không áp dụng
chế độ thuế GTGT đối với các dịch vụ tài chính phát sinh trong quá trình
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Về hoạt động dịch vụ bảo lãnh, theo Điều 361 Bộ Luật dân sự thì: Bảo lãnh
là việc người thứ ba (Bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (Bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (Bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn mà Bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh
chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi Bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình. tại quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo
quyết định số 26/2006/QD-NHNN 26/6/2006 của thống đốc ngân hàng nhà

nước khoản 1 điều 2 thì " Ngân hàng bảo lãnh có nghĩa là bằng văn bản thực
hiện bởi một tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) cho người thụ hưởng (bảo lãnh)
để thực hiện một nghĩa vụ tài chính thay mặt cho một khách hàng (bảo lãnh)
khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam
kết để đảm bảo. Các khách hàng có trách nhiệm nhận nợ và hoàn trả cho tổ
chức tín dụng số tiền này đã trả thay mặt cho họ" theo quy định tại khoản 18
điều 4 luật các tổ chức tín dụng thì " Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín

2


dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ
chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết;
khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận".
Việc bảo lãnh nhất thiết phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn
bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy
định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực. Xét về
phạm vi, Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa
vụ cho Bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo lãnh thường bao gồm cả tiền lãi
trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận
khác. Do thực hiện cam kết bảo lãnh, gánh chịu rủi ro cho Bên được bảo
lãnh cho nên Bên bảo lãnh được hưởng thù lao. Đương nhiên, quyền được
hưởng thù lao phải có sự thỏa thuận giữa Bên bảo lãnh và Bên được bảo
lãnh.
Trong đời sống thực tiễn cũng phát sinh khá phổ biến trường hợp nhiều
người cùng bảo lãnh (đồng bảo lãnh) khi mà một người không đủ năng lực
tài chính để thực hiện việc bảo lãnh trọn vẹn một nghĩa vụ. Khi nhiều người
cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ
trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần

độc lập; Bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo
lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Điều hiển nhiên là: khi một
người trong số những người đồng bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ thay cho Bên được bảo lãnh thì người đó có quyền yêu cầu những
người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.
Khi đã có giao kết bảo lãnh, Bên bảo lãnh phải thực hiện nghiêm túc nghĩa
vụ thay cho Bên được bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh cũng được pháp luật quy
định rất chặt chẽ bằng tài sản bảo đảm của chính người bảo lãnh. Trong
trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho Bên được bảo lãnh, mà
Bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì Bên
bảo lãnh bắt buộc phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho
Bên nhận bảo lãnh
1.2 Từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng.

3


Bảo lãnh ngân hàng ngày càng được khách hàng sử dụng rộng rãi như
một loại hình dịch vụ không thể thiếu, bao gồm cả các khách hàng doanh
nghiệp và khách hàng cá nhân. Nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh phát sinh
khi khách hàng cần Ngân hàng chứng minh năng lực tài chính, khả năng
thanh toán của mình hoặc cần Ngân hàng chứng minh khả năng thực hiện
các cam kết của hợp đồng. Các ví dụ điển hình về bảo lãnh thường thấy bao
gồm: (i) Chứng minh năng lực tài chính khi tham gia đấu thầu, khi ký kết
các hợp đồng kinh tế, (ii) Bảo lãnh của Ngân hàng cho doanh nghiệp khi
mua hàng trả chậm, (iii) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, (iv) Bảo lãnh tài
chính cho các học sinh và sinh viên Việt nam có điều kiện đi du học tại các
trường Đại học nổi tiếng trên thế giới, (v) Bảo lãnh của một ngân hàng hoặc
một tổ chức tài chính nhà nước để doanh nghiệp vay vốn của một ngân hàng
khác,…

Bảo lãnh ngân hàng được xem như là một loại hình tín dụng đặc biệt bởi nhờ
có nó mà một cá nhân hay một doanh nghiệp không phải bỏ ra một khỏan
tiền vốn (hoặc không phải đi vay) để đặt cọc, giam chân tại chỗ nhằm bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của mình trong giao kết dân sự với đối tác. Bảo lãnh
ngân hàng đã và đang mang tới các lợi ích cho khách hàng như: (i) Góp
phần hạn chế sử dụng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp; (ii) Hạn chế
việc sử dụng tiền mặt, qua đó tăng cường tính an toàn trong giao dịch; (iii)
Giảm thiểu rủi ro trong trường hợp người mua và người bán không biết
nhau; (iv) Tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên liên quan; và, (v) Nâng
cao vị thế, vai trò và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với đối tác,…
Về khung khổ pháp lý đối với dịch vụ bảo lãnh ngân hàng: Luật các tổ chức
tín dụng số 07/1997/QH10 đã có quy định tại Điều 49:“Tổ chức tín dụng
được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và
các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.” Tiếp theo, tại
Điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng
(Luật số 20/2004/QH11 ngày 15/6/2004) quy định cụ thể hơn: “12. Bảo
lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách

4


hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ
và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.”
Triển khai thực hiện Luật các tổ chức tín dụng, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng (Quyết định số
26/2006/QĐ-NHHH ngày 26/6/2006). Theo đó, “Bảo lãnh ngân hàng” là sự
cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (Bên bảo lãnh) với bên có quyền
(Bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách

hàng (Bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải
nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Cam kết bảo lãnh bằng văn bản bảo lãnh của Tổ chức tín dụng có thể bao
gồm các hình thức là Thư bảo lãnh; và/hoặc Hợp đồng bảo lãnh. Với hình
thức “Thư bảo lãnh”, Tổ chức tín dụng thực hiện cam kết đơn phương bằng
văn bản về việc tổ chức này sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đã cam kết với Bên nhận bảo lãnh. Trong khi đó, “Hợp đồng bảo lãnh” là
thoả thuận bằng văn bản giữa Tổ chức tín dụng và Bên nhận bảo lãnh hoặc
giữa Tổ chức tín dụng, Bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan
(nếu có) về việc Tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết với Bên nhận bảo lãnh. Rõ ràng là, hình thức Hợp đồng
bảo lãnh tỏ ra phức tạp hơn bởi cam kết của nhiều bên trong giao dịch dân
sự; tuy nhiên, do cụ thể hơn, chặt chẽ hơn về trách nhiệm, tính pháp lý có vẻ
cao hơn nên Bên nhận bảo lãnh thường thích loại hình này. Trái lại, tâm lý
của Bên được bảo lãnh thường quan tâm nhiều hơn và thích lựa chọn hình
thức Thư bảo lãnh hơn hình thức Hợp đồng bảo lãnh. Đây chính là điểm lợi
thế, mang lại nhiều cơ hội béo bở cho các tổ chức tín dụng và các nhân viên
của họ sẵn sàng khai thác triệt để.
1.3 Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Với ý nghĩa là một loại hình bảo lãnh đặc thù, bảo lãnh ngân hàng vừa
có những đặc điểm của bảo lãnh nói chung, ngân hàng vừa có những

5


đặc điểm riêng để phân biệt với những hình thức bảo lãnh khác. Có thể
nhận diện bảo lãnh ngân hàng thông qua các đặc điểm chính sau đây:

Thứ nhất: về bản chất pháp lý bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương
mại (hay hành vi thương mại) đặc thù.
Tính chất thương mại trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín
dụng thể hiện ở chỗ, hoạt động bảo lãnh này vừa do chính các tổ chức
tín dụng (với tư cách là một loại thương nhân) thực hiện trên thị trường
nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, vừa có tính chất chuyên nghiệp như một
nghề nghiệp kinh doanh.Cũng do tính chất thương mại của hoạt động
bảo lãnh ngân hàng mà hoạt đông này bắt buộc phải làm thủ tục đăng
ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật. Hơn thế nữa, sự bảo lãnh chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng
còn được quan niệm như là giao dịch thương mại đặc thù. Tính chất
đặc thù của giao dịch thương mại này thể hiện ở chỗ, một mặt bảo lãnh
ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện một cách chuyên nghiệp,
mặt khác khi thực hiện hoạt động bảo lãnh có tính chất chuyên nghiệp
như vậy, các tổ chức tín dụng phải sử dụng đến những kỹ thuật chuyên
môn nghiệp vụ ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn cho đồng vốn của
mình bỏ ra khi chấp nhận đóng vai trò người thực hiện nghĩa vụ tài sản
thay cho khách hàng. Cũng vì lý do này mà hoạt động bảo lãnh chuyên
nghiệp của tổ chức tín dụng luôn được nhà làm luật nhìn nhận như là
một hoạt động kinh doanh có điều kiện như phải được cấp giấy phép
hoạt động bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ngân hàng nhà nước
Việt Nam) và phải có vốn pháp định theo quy định của pháp luật.Ngoài
ra, tính chất đặc thù của bảo lãnh ngân hàng còn thể hiện ở chỗ,hoạt
động kinh doanh này cũng chịu sự chi phối của một số quy tắc pháp lý
đặc thù , chỉ áp dụng riêng cho hành vi bảo lãnh có tính chất chuyên
nghiệp của tổ chức tín dụng như quy tắc về thủ tục bảo lãnh, phí bảo
lãnh,giới hạn bảo lãnh và các chế tài áp dụng đối với bên vi phạm, cam
kết trong bảo lãnh ngân hàng…

6



Thứ hai, về chủ thể, hoạt động bảo lãnh ngân hàng bao giờ cũng do chủ thể
đặc biệt là tổ chức tín dụng (trong đó chủ yếu là các ngân hàng ) thực
hiện. Bản than của bảo lãnh ngân hàng thể hiện không phải ở việc ngân
hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho người bảo lãnh trong trường hợp
người này không thực hiện nghĩa vụ của mình, mà sự đền bù bằng tiền
nhất định người được bảo lãnh không thực hiện hay thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình. Bảo lãnh ngân hàng thường được sử dụng để
đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của người xuất khẩu và được giao
vì quyền lợi của người nhập khẩu, tức là ngânh hàng nhận lấy nghĩa vụ
sẽ thanh toán trong trường hợp một nghĩa vụ nào đó không được thực
hiện, nghĩa vụ đó mặc dù có giá trị bằng tiền nhưng theo bản chất của
nó không phải lúc nào cũng thực hiện được bằng tiền mà còn có thể là
bằng nghĩa vụ giao hàng, thực hiện công việc, cung ứng dịch vụ hay
thực hiện một hành vi nào đó có nghĩa vụ pháp lý. Ngân hàng bảo lãnh
chỉ chịu trách nhiệm phù hợp với các điều khoản được quy định trong
hợp đồng. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì bản thân hoạt động
bảo lãnh ngân hàng vốn dĩ là loại hình kinh doanh có rủi ro cao, chỉ có
các tổ chức tín dụng kinh doanh ngân hàng chuyên nghiệp thì mới có
đủ các điều kiện về vốn, trình độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ và
kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường để thực hiện loại hoạt động
bảo lãnh đặc thù này.
Thứ ba, trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là
người bảo lãnh (giống như bất kỳ người bảo lãnh nào trong bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ dân sự) mà còn có thêm tư cách của một nhà kinh
doanh ngân hàng. Vì thế, việc quy định quyền của tổ chức tín dụng bảo
lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng cũng không giống hoàn toàn với
quyền và nghĩa vụ của người bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, nếu người bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh dân

sự thông thường có quyền đưa ra chứng cứ về việc mình không biết khả
năng hoàn trả của người được bảo lãnh như thế nào để từ đó xin tòa án
hủy bỏ hợp đồng bảo lãnh thì trái lại, trong bảo lãnh ngân hàng , tổ
chức tín dụng là người bảo lãnh chuyên nghiệp không thể đưa ra chứng
cứ này vì họ chính là một nhà kinh doanh chuyên nghiệp nên buộc phải

7


biết trước tình hình tài chính của khách hàng xin bảo lãnh, trước khi
quyết định ký kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh với khách hàng.
Thứ tư, giao dịch bảo lãnh ngân hàng có mục đích và hệ quả tạo lập hai hợp
đồng, gồm hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh/cam kết
bảo lãnh. Hai hợp đồng này tuy có mối quan hệ nhân quả với nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau nhưng vẫn độc lập với nhau về cả phương diện chủ thể
cũng như phương diện quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Mối
quan hệ nhân quả giữa hai hợp đồng này thể hiện ở chỗ: việc ký kết
hợp đồng dịch vụ bảo lãnh là nguyên nhân, đồng thời là cơ sở pháp lý
để ký kết hợp đồng bảo lãnh là hệ quả của dịch vụ bảo lãnh. Còn tính
độc lập hai loại hợp đồng này thể hiện ở chổ hợp đồng này vô hiệu
không thể đương nhiên làm cho hợp đồng kia vô hiệu và ngược lại. Mặt
khác, tính độc lập giữa hai hợp đồng này còn thể hiện ở chỗ việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng này không thể bị
phụ thuộc hay chi phối bởi việc thực thi quyền nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng kia và ngược lại. Tổ chức tín dụng với tư cách là người
cung cấp dịch vụ bảo lãnh, đồng thời là người cam kết thực hiện nghĩa
vụ thay cho khách hàng được bảo lãnh ( trong quan hệ hợp đồng bảo
lãnh) có hai mối quan hệ pháp lý với hai đối tác khác nhau do đó phải
hành động mang tính độc lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ trong từng
hợp đồng.

Ngược lại, trong trường hợp hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu thì hợp đồng dịch
vụ bảo lảnh cũng không vì thế mà bị vô hiệu theo. Hậu quả pháp lý xảy
ra cho các chủ thể hợp đồng bảo lãnh là các tổ chức tín dụng phát hành
bảo lãnh được giải thoát khỏi vai trò người bảo lãnh và người nhận bảo
lãnh thì không có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ thay cho khách hàng được bảo lãnh. Còn hậu quả pháp lý xảy
ra đối với các chủ thể của hợp đồng dịch vụ bảo lãnh là về nguyên tắc,
mỗi bên vẫn phải thực các quyền, nghĩa vụ của mình đối với bên kia và
giải pháp khắc phục là khách hàng có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng
bảo lãnh phát hành một thư bảo lãnh mới để thay thế cho thư bão lãnh
cũ đã bị vô hiệu. Nếu sau khi nhận đuợc yêu cầu này mà tổ chức tín
dụng đó đã vi phạm nghĩa vụ của mình trong hợp đồng dịch vụ bảo

8


lãnh và có thể phải chịu phạt vi phạm hợp đồng theo mức do các bên
thoả thuận phù hợp với pháp luật.
Thứ năm, giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là giao dịch hai bên hay
ba bên mà là một giao dịch kép . Sở dĩ có thể quan niệm bảo lãnh ngân
hàng là giao dịch kép là bởi vì, để đạt được mục đích và động cơ chủ
yếu của mình là phát hành thư bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng và
gửi cho bên có quyền – bên nhận bảo lãnh để nhận tiền thù lao dịch vụ
(phí bảo lãnh) thì tổ chức tín dụng không thể tiến hành ký kết cả hai
loại hợp đồng theo thứ tự : hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đuợc giao kết
trước và hợp đồng bảo lãnh được giao kết sau. thứ tự này phản ánh mối
quan hệ giữa hai hợp đồng, trong đó hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đóng
vai trò là cơ sở pháp lý để tổ chức tín dụng ký kết hợp đồng dịch vụ bảo
lãnh; còn hợp đồng bảo lãnh được ký kết là nhằm thực hiện nghĩa vụ
của tổ chức tín dụng đã phát sinh trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh (ở

đây được hiểu là nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh). Việc tổ chức tín
dụng giao kết hai hợp đồng này tuy đều hướng tới một mục đích chung
và có động cơ thống nhất nhưng mặt khác, điều này cũng phản ánh sự
độc lập của hai hành vi pháp lý khác nhau, dù rằng cả hai hành vi đó
đều do một chủ thể là tổ chức tín dụng thực hiện trên nguyên tắc tự
nguyện và bình đẳng. tuy nhiên, theo định nghĩa về bảo lãnh ngân hàng
được quy định trong khoản 12 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì
dường như các nhà làm luật muốn thể hiện quan điểm cho rằng giao
dịch bảo lãnh ngân hàng chỉ liên quan đến một hợp đồng duy nhất là
hợp đồng bảo lãnh, theo đó, bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng chỉ phải
cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng được bảo lãnh. Còn việc pháp luật quy định khách
hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả
thay, có vẻ như chỉ là một hệ quả tất yếu của việc tổ chức tín dụng đã
làm nghĩa vụ thay khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh. Có thể cho
rằng quan niệm như vậy là không hợp lý, bởi lẽ mục đích và động cơ
của tổ chức tín dụng khi thực hiện hành vi bảo lãnh cho khách hàng là
nhằm mục tiêu thu lợi nhuận và nhằm thực hiện hoạt động nghề nghiệp
kinh doanh.vì thế, khó có thể tưởng tượng rằng tổ chức tín dụng lại sẵn
9


sàng phát hành thư bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng mà không hề
dựa trên việc ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ bảo lãnh giữa họ
với khách hàng.
Thứ sáu, theo thông lệ quốc tế , bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể
đơn phương huỷ ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của
người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh. Đặc điểm
này không thể ghi nhận trong quy tắc thực hành tín dụng dự phòng
quốc tế. “.. là cam kết không huỷ ngang, độc lập , kèm chứng từ và

ràng buộc khi phát hành . . .” mà còn được công nhận bởi luật quốc gia
của nhiều nước trên thế giới về bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, đặc
điểm này chưa được phản ánh trong pháp luật thực định Việt Nam về
bảo lãnh nói chung và về bảo lãnh ngân hàng nói riêng, khiến cho chế
định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật Việt Nam thiếu sự tương
đồng với chế định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật của các nước
cũng như pháp luật quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế về bảo lãnh .
Tính chất không thể huỷ ngang của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chổ, sau
khi cam kết bảo lãnh hay thư cam kết đã được phát hành hợp lệ bởi một
tổ chức tín dụng, không một cơ quan nào (ví dụ như chủ tịch hội đồng
quản trị hay tổng giám đốc hoặc giám đốc chi nhánh … ) có thể lấy
danh nghĩa đại diện cho tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh để tuyên
bố đơn phương huỷ bỏ cam kết bảo lãnh , trừ khi tuyên bố này được
chấp nhận bởi người nhận bảo lãnh. Nguyên tắc này đảm bảo cho
người nhận bảo lãnh có thể yên tâm đòi tiền tổ chức tín dụng bảo
lãnh khi đến hạn của nghĩa vụ được bảo lãnh mà người được bảo lãnh
không thực hiện nghĩa vụ của họ, bằng cách xuất trình chứng cứ về
việc người được bảo lãnh đã vi phạm về nghĩa vụ đối với mình. Nếu
bảo lãnh ngân hàng không có tính chất này, nghĩa là nếu bên bảo lãnh
có thể đơn phương huỷ ngang bất kỳ lúc nào theo ý của mình thì khi đó
quyền lợi của người nhận bảo lãnh, cho dù của người có khả năng tài
chính mạnh như tổ chức tín dụng, cũng sẽ trở thành vô nghĩa và không
cần thiết. \
Thứ bảy, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên
chứng từ. tính chất chứng từ của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chổ, khi
10


tổ cức tín dụng phát hành cam kết bảo lãnh (thư bảo lãnh) cũng như
khi người nhận bảo lãnh thực hiện quyền yêu cầu hay khi tổ chức tín

dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụcủa người bảo lãnh ,các chủ thể này
đều bắt buộc phải thiết lập bằng văn bản. Những văn bản này không
những là bằng chứng chứng minh quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia giao dịch bảo lãnh mà còn là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện
được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình đối với phía bên kia. chẳng
hạn, khi người nhận bảo lãnh yêu cầu tổ chức tín dụng bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ thay người được bảo lãnh , họ phải xuất trình các chứng
từ phù hợp với nội dung của cam kết bảo lãnh thì mới được trả tiền;
Ngược lại tổ chức tín dụng bảo lãnh cũng phải dựa vào văn bản bảo
lãnh (là một loại chứng từ) do mình phát hành và đối chiếu với các
chúng từ do người nhận bảo lãnh thiết lập và xuất trình để xác định
việc đòi tiền của người nhận bảo lãnh có hợp lệ không và mình có phải
trả tiền theo yêu cầu đó hay không. Theo thong lệ quốc tế về bảo lãnh
ngân hàng, có ba loại chứng từ quan trọng nhất làm cơ sở cho các bên
thực hiện giao dịch bảo lãnh ngân hàng, đó là văn bản bảo lãnh (hợp
đồng bảo lãnh – cam kết bảo lãnh hay thư bảo lãnh); yêu cầu trả tiền
(Demand for payment) và tuyên bố vi phạm (statement of default).
Người yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh phải ký hợp đồng với ngân
hàng, trong đó nêu quyền và nghĩa vụ của bên yêu cầu và của ngân
hàng đối với khả năng buộc phải thanh toán một kim ngạch nào đó theo
thư bảo lãnh. Trong trường hợp người được bảo lãnh không trả được nợ
hay thậm chí không muốn trả nợ thì ngân hàng buộc phải thanh toán số
tiền đã bảo lãnh. Thư bảo lãnh cũng giống như thư tín dụng dự phòng
(Standby letter of Credit) chỉ sử dụng khi khách hàng mất khả năng
thanh toán. Trong hoạt động thương mại, doanh nghiệp có thể chọn lựa
công cụ ngân hàng, trong đó có thư tín dụng (L/C). Đối với thư bảo
lãnh, trước hết người bán hàng phải yêu cầu người mua thanh toán và
chỉ khi nào người mua mất khả năng thanh toán hay từ chối thanh toán
thì ngân hàng bảo lãnh phải thanh toán. Đối với thư tín dụng, ngân
hàng có nghĩa vụ thanh toán sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ

theo hợp đồng thể hiện qua thư tín dụng, có nghĩa là ngân hàng thực
hiện thanh toán cho người bán và sau đó tìm cách thu lại tiền từ người
11


mua. Do đó, thư tín dụng ít rủi ro đối với người bán nhưng lại nhiều rủi
ro đối với ngân hàng. Thư tín dụng, sau khi ngân hàng đồng ý mở cho
người bán theo yêu cầu của người mua, có nghĩa là ngân hàng có trách
nhiệm thanh toán cho người bán khi người bán thực hiện nghĩa vụ nộp
bộ chứng từ hợp lệ. Người bán cũng có thể yêu cầu bên mua mở thư tín
dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (irrevocable confirmed L/C) để
đảm bảo chắc chắn được thanh toán nếu ngân hàng mở L/C do một
nguyên nhân nào đó không thanh toán. Thư bảo lãnh có thể sử dụng
trong nhiều nghiệp vụ khác nhau như bảo đảm tham gia đấu thầu, bảo
đảm tiền ứng trước, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm nợ vay, bảo
đảm cho hợp đồng bảo trì. Thư bảo lãnh có thể cấp trực tiếp cho người
thụ hưởng (beneficiary) hay thông qua một ngân hàng địa phương của
người thụ hưởng. Thư bảo lãnh trực tiếp tiết kiệm được chi phí cho
người yêu cầu vì không cần đến ngân hàng trung gian và ngân hàng
phát hành thư bảo lãnh còn kiểm soát được việc thực hiện thanh toán
theo bảo lãnh, tạo an toàn cho người yêu cầu. Trong trường hợp hai bên
mua bán ở hai nước khác nhau, người thụ hưởng có thể yêu cầu thư bảo
lãnh do ngân hàng địa phương phát hành để đảm bảo an toàn khi nhu
cầu thanh toán thay xảy ra. Thư tín dụng là một loại bảo lãnh tín dụng
phổ biến nhất hiện nay nhưng trong nhiều năm qua, hệ thống ngân hàng
cũng gặp không ít khó khăn khi khách hàng không đủ khả năng thanh
toán lại cho ngân hàng. Trước khi mở L/C, ngân hàng cần đánh giá
đúng khả năng của khách hàng để đặt tỷ lệ ký quỹ cần thiết cũng như
biện pháp quản lý hàng hoá nhập khẩu… Nếu không có ba loại chứng
từ này, các bên không thể xác định được việc bảo lãnh ngân hàng có

tồn tại hay không Và quyền, nghĩa vụ của các bên sẽ được thực hiện
như thế nào. Việc xây dựng nguyên tắc bảo lãnh dựa vào chứng từ
không chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp và chính đáng của các
bên giao dịch, mà còn góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm cũng như
tính kỷ luật hợp đồng, trên cơ sở đó tạo dựng một môi trường kinh
doanh lành mạnh, minh bạch và an toàn hiệu quả cho các tổ chức tín
dụng.

12


Thứ tám, bảo lãnh ngân hàng là loại hình bảo lãnh vô điều kiện (hay còn gọi
là bảo lãnh độc lập). Tính chất vô điều kiện của bảo lãnh ngân hàng thể
hiện ở chỗ, tổ chức tín dụng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với
người nhận bảo lãnh ngay sau khi người này đã xuất trình các chứng từ
phù hợp với nội dung của thư bảo lãnh hay cam kết bảo lãnh do tổ chức
tín dụng phát hành, mà không phụ thuộc vào việc người được bảo lãnh
có khả năng tự thực hiện nghĩa vụ của họ hay không. sự ghi nhận tính
chất vô điều kiện trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng là một đảm bảo
tương đối chắc chắn cho lợi ích của người nhận bảo lãnh, đồng thời
cũng là lợi thế của bảo lãnh ngân hàng so với các hình thức bảo lãnh
khác không phải do tổ chức tín dụng thực hiện. nhờ lợi thế này các tổ
chức tín dụng tỏ ra là người có khả năng cung cấp dịch vụ bảo đảm tốt
nhất trên thị trường và dường như sự bảo đảm bằng bảo lãnh của tổ
chức tín dụng bao giờ cũng được người nhận bảo lãnh ưa chuộng hơn
sự bảo đảm bằng bảo lãnh của các chủ thể khác, do tính chất độc lập,
vô điều kiện và không thể huỷ ngang của bảo lãnh ngân hàng.
2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng
2.1 Thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng
Các ngân hàng lớn ở việt nam thường có uy tín trong dịch vụ bảo lãnh như

ngân hàng ngoại thương vietconbank, ngân hàng công thương incombank,
ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV, ngân hàng nông ngiệp và phát triển
nông thôn agribank…chẳng hạn agribank bảo lãnh cho nhà máy sản xuất
đường quảng nam, đà nẵng với số tiền 2 triệu USD vay của Ôtraylia, tái bảo
lãnh cho nhà máy sản xuất đường kiên giang,biên hòa với số tiền 2 triệu
USD của OOxxtraylia. Phần lớn các khoản vay của doanh nghiệp là các
ngành sản xuất vật chất xây dựng cơ bản giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất
nhận được công nghệ hiện đại, giảm giá thành và tăng tính cạnh tranh của
hàng hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. tuy nhiên bên cạnh các ưu điểm cũng
tồn tại nhiều nhược điểm như các nhà máy đường xi măng hoạt động sản
xuất kém hiệu quả không cạnh tranh được trên thị trường. nhiều máy móc
thiết bị không sử dụng hết công suất, không đủ nguyên liệu để sản xuất.
teccombank, incombank, vietcombank…cung cấp cho khách hàng những
loại hình bảo lãnh đáp ứng được đòi hỏi của bên thứ 3 qua đó thực hiện tốt
13


nhất khả năng kinh doanh cũng như một số công việc khác bao gồm các loạt
bảo lãnh sau: (1) cho cá nhân cam kết thu xếp tài chính dùng trong sản phẩm
cho vay du học nước ngoài trong đó các ngân hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho
khách hàng một khoản tài chính để thanh toán chi phí phải trả cho con em du
học nước ngoài.(2) cho hộ kinh doanh cá thể bảo lãnh vay vốn bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng bảo lãnh hoàn tạm ứng. lợi ích của
khách hàng khi được bảo lãnh tại các ngân hàng là: ngân hàng sẵn sang đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng linh hoạt trong việc thương lượng về điều
kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng, khách hàng có
thể gia hạn sửa đổi nội dung hoặc hủy thư bảo lãnh khi có nhu cầu thư bảo
lãnh của ngân hàng này được ngân hàng và nhiều doanh nghiệp trong và
ngoài nước chấp nhận. bảo lãnh từ các ngân hàng này giúp tăng độ tin cậy
của khách hàng với đối tác của mình giúp cho các giao dịch có triển vọng

hơn. Ngoài ra trong từng loại bảo lãnh khách hàng cũng có những lợi ích
riêng. Chẳng hạn trong bảo lãnh vay vốn khách hàng có thể vay vốn quy mô
lớn thời gian vay dài giúp cho khách hàng vay vốn trong các giao dịch vay
vốn là bắt buộc. trong bảo lãnh thanh toán khách hàng có thể mua bán trả
chậm, chậm nộp thuế cho nhà nước trong thời hạn cho phép, các hợp đồng
thuê tài sản, đại lý tiêu thụ cung cấp dịch vụ trả tiền sau…ngân hàng xẽ
thanh toán cho người bán trong trường hợp người mua không thanh toán
hoặc thanh toán không đầy đủ khi đến hạn. trong bảo lãnh dự thầu giúp cho
khách hàng có đủ điều kiện để tham gia trong một giao dịch đấu thầu mà bắt
buộc phải có bảo lãnh ngân hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi
phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho
bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ cam kết. chuyên viên khách
hàng sẵn sàng hướng dẫn khách hàng tham gia dịch vụ bảo lãnh cũng như
hoàn tất thủ tục với ngân hàng. Trong bảo lãnh chất lượng sản phẩm ngân
hàng cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm của khách hàng đối với cam kết về
chất lượng sản phẩm nêu trong hợp đồng mua bán. Nếu người bán bị phạt do
vi phạm do không thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng về chất lượng
sản phẩm cho người mua không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho
bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng xẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được cam
kết. các ngân hàng thương mại cổ phần ở việt nam ngày càng có uy tín hơn
trong ghiệp vụ bảo lãnh. Trong các lĩnh vực mà ngân hàng bảo lãnh thì lĩnh
14


vực xây dựng cơ bản còn nhiều bất cập, đánh giá thực trạng bảo lãnh ngân
hàng hiện nay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản ta còn thấy cần chú ý những
vấn đề sau.
- đối với bảo lãnh dự thầu: sau khi công trình được cấp có thẩm quyền phê
duyệt hồ sơ mời thầu đối với công trình đấu thầu chủ đầu tư lập thư mời thầu
gửi các nhà thầu lien quan, đến thời gian quy định nhà thầu phải gửi hồ sơ

dự thầu để tham gia đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu
của ngân hàng. Trong thư bảo lãnh ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu tên
công trình số tiền bảo lãnh, thời gian có hiệu lực nội dung bảo lãnh và lãnh
đạo ngân hàng ký tên đóng dấu vào thư bảo lãnh với số tiền bảo lãnh là 1%.
Mục đích bảo lãnh là câm kết của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu
như phá thầu trong hợp đồng đấu thầu, không thực hiện hợp đồng trúng thầu
gây thiệt hại cho chủ đầu tư, không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo
quy định… nếu những vi phạm trên xảy ra ngân hàng xẽ chịu trách nhiệm
chi trả cho chủ đầu tư tối đa số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu
gây ra, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư. Việc ngân hàng lập thư bảo
lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia đấu thầu xây dựng công trình là rất
cần thiết, nhằm rằng buộc nhà thầu về mặt kinh tế phải tham gia đấu thầu
thực sự. nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy chế đấu thầu xẽ phải mất một
khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi trúng thầu thì ngân hàng
lại tiếp tục lập thư bảo lãnh hợp đồng lúc đó thư bảo lãnh dự thầu xẽ hết hiệu
lực. do vậy quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc thực hiện mức bảo lãnh
dự thầu hiện nay thường là 1%. Nên nhà thầu chấp nhận ứng ra số tiền trên
để tham gia đấu thầu không lành mạnh, cụ thể là:
+ tham gia bảo lãnh dự thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo nhằm kiếm lợi
nhận thông qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu.
+ sằn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu
thấp.
- đối với bảo lãnh hợp đồng: khi công trình được phê duyệt kết quả trúng
thầu cho nhà thầu nào đạt điểm kỹ thật cao nhất và giá bỏ thầu thấp nhất thì
ngân hàng sẽ làm thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng gửi chủ thầu để làm thủ
tục ký hợp đồng thi công.
Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng phải ghi rõ quyết định phê duyệt tên đơn
vị trúng thầu số tiền và thời gian bảo lãnh. Số tiền bảo lãnh thường là 5% giá
15



trị trúng thầu. mục đích bảo lãnh là các cam kết của ngân hàng về các sai
phạm của nhà thầu nếu nhà thầu vi phạm ngân hàng xẽ trả cho chủ đầu tư tối
đa số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra trong quá trình
thực hiện hợp đồng khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của nhà
thầu về mặt kinh tế. phải thực hiện theo đúng hợp đồng thi công xây dựng đã
ký với chủ đầu tư nếu không thực hiện đúng hợp đồng. ngoại trừ những lý
do khách quan thì nhà thầu sẽ mất số tiền do ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên
theo quy chế đấu thầu khi hợp đồng thi công được lý kết chủ đầu tư xẽ
chuyển cho nhà thầu ứng trước một khoản tiền thường là 20% giá trị trúng
thầu. vấn đề phát sinh từ chỗ này xét về mặt tài chính khi trúng thầu ngân
hàng chỉ bảo lãnh 5% nhưng lại được ứng 20% giá trị trúng thầu. nếu nhà
thầu không quyết tâm thực hiện công trình sau khi được ứng 20% rồi không
thực hiện hợp đồng thì chủ đầu tư xẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được
số tiền này thì cũng mất nhiều thời gian có khi bị thiệt hại mà công trình thì
buộc phải dừng lại chờ xử lý.
- đối với bảo lãnh chất lượng công trình: khi công trình thi công hoàn thành
phải qua giai đoạn bảo hành nghĩa là trong thời gian nhất định nếu công
trình xảy ra sự cố hư hỏng xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ ra chi phí để sửa
chữa hoàn thiện. thời gian bảo hành tùy theo quy mô công trình mà cũng dài
ngắn khác nhau tuy nhiên thường là 1 năm. Như vậy để đảm bảo cho nhà
thầu bỏ chi phí sửa chữa trong thời gian bảo hành chủ đầu tư phải ràng buộc
nhà thầu bằng một trong hai cách. Thanh toán cho nhà thầu 90% đến 95%
giá trị công trình số còn lại làm chi phí sửa chữa hỏng hóc nhỏ nếu có, hoặc
thanh toán 100% nhưng phải kèm theo giấy bảo lãnh của ngân hàng về chất
lượng công trình. Như vậy việc bảo lãnh bảo hành là buộc nhà thầu phải thi
công đảm bảo chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đội ngũ
giám sát nhưng nếu nhà thầu không tự giác mà chạy theo lợi nhuận sẽ không
tránh khỏi ăn bớt vật tư, làm dối làm không đúng quy trình kết cấu sử dụng

vật tư không đồng bộ. dẫn tới chất lượng công trình giảm dễ bị hư hỏng.
2.2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của dịch vụ bảo lãnh.
2.2.1 Hạn chế của dịch vụ bảo lãnh
Dịch vụ bảo lãnh ngân hàng còn khá mới nên việc áp dụng còn chưa thực sự
hiệu quả. Bên cạnh đó do việc chưa xây dựng đồng bộ các luật, nghị định,
16


thông tư quy chế trong hoạt động bảo lãnh nên dịch vụ bảo lãnh ngân hàng
còn nhiều hạn chế. Các bên tham gia quan hệ bảo lãnh thường phải ký nhiều
hơn một hợp đồng để đảm bảo thực hiện nghãi vụ dân sự do đó kiến các bên
tốn nhiều thời gian và công sức. dịch vụ bảo lãnh ngân hàng trên thực tế còn
gặp nhiều rủi ro. Sau khi ngân hàng đã tiến hành bảo lãnh tức là đã chấp
nhận đơn xin bảo lãnh của người xin bảo lãnh và có trách nhiệm thực thi
nghiệp vụ bảo lãnh nếu người xin bảo lãnh không trả được nợ. do dội ngũ
cán bộ ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, khả năng điều
hành còn hạn chế nên chưa kiểm tra đánh giá chính xác đối tượng mà mình
bảo lãnh. Điều đó dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Khi khách hàng làm ăn thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản không có
khả năng trả nợ thì ngân hàng phải thực hiện chức năng trả nợ thay của
mình. Nhiều khi dẫn đến tình trạng thiếu tiền chi trả cho khách hàng gây mất
lòng tin nơi khách hàng. Dịch vụ bảo lãnh ngân hàng còn chưa đáp ứng được
một số nhu cầu của khách hàng khả năng nắm bắt diễn biến thông tin thị
trường còn chậm. các tranh chấp khởi kiện về bảo lãnh ngân hàng ngày càng
gia tăng mẫu thuẫn giữa các văn bản áp dụng gây khó khăn cho hoạt động
bảo lãnh ngân hàng.
Ngoài ra trong hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoài của các ngân hàng
bên cạnh những thuân lợi vẫn còn những khó khăn nhất định. Thuận lợi nhờ
chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước trong những năm qua góp phần
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và những thành tựu về phát triển kinh tế

gắn việt nam vào hơn với cộng đồng quốc tế. chúng ta ngày càng tin tưởng
vào đường lối đa dạng hóa đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế chính trị
với thế giới bên ngoài với chủ trương “việt nam muốn làm bạn với tất cả các
nước vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển”. do đó các tổ chức tín dụng
việt nam có điều kiện tiếp xúc hợp tác với các doanh nghiệp ngân hàng trong
khu vực và trên thế giới. tuy nhiên do cơ sở hạ tầng lạc hậu tình trạng kém
phát triển, các văn bản pháp luật chưa rõ ràng chưa có hệ thống.
2.2.2 Ngyên nhân kém phát triển của dịch vụ bảo lãnh ngân hàng
2.2.2.1 pháp luật
Chính sách phát triển kinh tế của nước ta đã xác định theo nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì bảo lãnh là một nghiệp vụ
rất cần thiết. tuy nhiên hiện nay do có một số chính sách không đồng bộ, nên
17


việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó.
Vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Việt nam chưa có đủ các văn bản pháp luật
về bảo lãnh ngân hàng các văn bản dưới luật của chính phủ thì chồng chéo
không phân biệt được phạm vi bảo lãnh, gây khó khăn trong quá trình thực
hiện. các văn bản pháp quy ở nước ta về hoạt động kinh tế chưa rõ ràng cụ
thể và thường xuyên bị thay đổi các văn bản của các bộ các ngành thường
chồng chéo và chưa đồng bộ do vậy khi xin bảo lãnh ngân hàng khách hàng
thường phải tự lo, qua nhiều thủ tục tốn nhiều thời gian và công sức.
2.2.2.2 các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp được bảo lãnh ngân hàng thường là các doanh nghiệp nhà
nước có ít vốn hoạt động kém hiệu quả và chủ yếu dựa vào vốn vay. Vì vậy
khi có bất kỳ rủi ro nào phát sinh cũng gây ảnh hưởng đến khả năng chi trả
của doanh nghiệp.
2.2.2.3 trình độ cán bộ
Đội ngũ cán bộ ngân hàng tuy đã được đào tạo nhưng trình độ nghiệp vụ

chưa cao, khả năng ngoại ngữ và vi tính còn hạn chế. Do dịch vụ bảo lãnh
ngân hàng còn khá mới nên nên đội ngũ cán bộ ngân hàng còn thiếu kinh
nghiệm để đánh giá tính khả thi của các dự án tình hình tài chính doanh
nghiệp năng lực hoạt động của doanh nghiệp… dẫn đến tình trạng doanh
nghiệp không trả nợ đủ, đúng thời hạn hoặc làm ăn thua lỗ không thể trả
được nợ và ngân hàng phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho khách hàng
trong phạm vi bảo lãnh đó. Mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng trong
nước và nước ngoài còn rất nhiều hạn chế. Một phần do cơ chế quản lý của
chúng ta trước đây, ngân hàng thường chỉ bảo lãnh cho các đối tượng thuộc
chính phủ các cấp các ngành nên một số trường hợp còn thiếu tự chủ mang
tính bị động.
2.2.3 một số giải pháp hoàn thiện
2.2.3.1 hoàn thiên hệ thống pháp luật
Do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh ngân hàng
chưa phát huy hết tác dụng của nó. Điều này đòi hỏi các nhà làm luật cần
phải nghiên cứu kịp thời để ban hành một số chính sách đồng bộ chặt chẽ
phù hợp với nhu cầu phát triển. việc nghiên cứu cho ra đời các đạo luật quy
định cụ thể về hoạt động bảo lãnh ngân hàng như nội dung, phạm vi điều
chỉnh các biện pháp xử phạt thủ tục kiện tụng… xẽ tạo cho bên nước ngoài
18


yên tâm đầu tư vốn vào việt nam. Các đơn vị trong nước cần hiểu rõ hơn về
nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng hạn chế được việc dẫn chiếu luật điều chỉnh
hoạt động bảo lãnh ngân hàng của luật nước ngoài có liên quan.
2.2.3.2 đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
Ngân hàng cần tập trung vào việc đào tạo đội ngũ có trình độ, thành thạo về
nghiệp vụ bảo lãnh, có khả năng quản lý các dự án vay vốn nước ngoài…
theo phương hướng này trước mắt cần kết hợp giữa đào tạo ngắn hạn và đào
tạo dài hạn ở trong và ngoài nước nhằm có được những chuyên gia ngân

hàng giỏi chuyên môn trong lĩnh vực bảo lãnh đáp ứng yêu cầu khi thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh. Trong tương lai nhu cầu bảo lãnh ngân hàng ngày càng
gia tăng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. do vậy việc mở rộng quy mô
hoạt động cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ cho công tác bảo lãnh cần phải
chuẩn bị từ bây giờ.
2.2.3.3 tăng cường hoạt động quản lý, giám sát
Với một thực tế là rất nhiều khoản vay đã được các doanh nghiệp sử dụng
sai mục đích và không có hiệu quả vì vậy sau khi đã chấp nhận bảo lãnh các
cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn cũng như hoạt
động của doanh nghiệp. nếu phát hiện doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục
đích thì phải xử lý ngay kịp thời thu hồi vốn để hoàn trả cho người vay đồng
thời cần có biện pháp xử lý thích đáng doanh nghiệp này. Trong một số
trường hợp cần phải tư vấn cho khách hàng để cùng giải quyết những khó
khăn phát sinh thúc đẩy là giám sát chặt chẽ khách hàng nộp tiền vào tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng để có nguồn trả nợ. ngoài ra khi ngân hàng
tham gia vào hoạt động bảo lãnh cần sử dụng các thông tin về đối tác do đó
cần mở rộng quan hệ ra bên ngoài, tạo uy tín trên thị trường trong cũng như
ngoài nước.
2.3 Triển vọng phát triển của dịch vụ bảo lãnh ngân hàng.
Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều
tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao
dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự
thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm. Bảo lãnh ngân
hàng sẽ phát triển tại Việt Nam vì các lý do sau: Bảo lãnh ngân hàng
giảm thiểu rủi ro cho bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Cả hai
bên đều được đảm bảo thực hiện càc quyền và nghĩa vụ của mình. Tiết
19


kiệm thời gian, chi phí : Giảm cước phí vận chuyển, thông thường khi

các bên khi tham gia hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có địa điểm
kinh doanh rất xa nhau, do đó khi thanh toán thường hay chuyển tiền
đến cho bên kia. Có bảo lãnh ngân hàng, rủi ro chuyển tiền sẽ không
còn nữa mà thay vào đó la sự an tâm của các bên. Giảm thời gian vận
chuyển lượng tiền giữa các bên. Bảo lãnh ngân hàng trong các lĩnh vực
như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh
toán… đều làm cho các bên tham gia yên tâm khi thực hiện các giao
dịch của mình. Khách hàng không phải thanh toán ngay cho bên đối tác
vì đã có bảo lãnh của ngân hàng do đó có cơ hội trì hoãn việc thanh
toán và làm tăng tài sản lưu thông hiện có. Doanh nghiệp sẽ hạn chế sử
dụng nguồn vốn lưu động của mình, dung nguồn vốn đó để tái đầu tư
sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Tạo ra nhiều sản phẩm với
chất kượng tốt hơn, năng suất cao hơn. Hạn chế sử dụng tiền mặt, qua
đó tăng cường tính an toàn trong giao dịch. Giảm thiểu rủi ro trong
trường hợp người mua và người bán không biết nhau. Hai doanh
nghiệp ở xa cách nhau về địa lý và không biế t nhau sẽ dễ dàng xúc
tiến hoạt động thương mại với nhau thông qua nhân hàng Nâng cao vị
thế, vai trò và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với đối tác.Đây
cũng là mục đích to lớn của bảo lãnh ngân hàng. Thông qua các thuận
lợi ở trên, thì mục tiêu cuối cùng của bảo lãnh ngân hàng cũng là để
giúp doanh nghiệp đứng vững trên thương trường, ngày càng phát huy
thế mạnh của mình hơn.

Kết luận
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngân hàng cũng như một công
cụ pháp lý tương đối mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, như đã phân tích ở
trên, với sự mở rộng không ngừng của hoạt động thương mại trong
nước cũng như quốc tế, bảo lãnh ngân hàng hứa hẹn đem lại những lợi
ích to lớn cho những người sử dụng nó. Xu hướng này đòi hỏi pháp
luật điều chỉnh về hoạt động bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín


20


dụng ở Việt Nam ngày càng phải chặt chẽ, rõ ràng và có những quy
định dự liệu tương đối phù hợp với thực tiễn hoạt động ngân hàng đang
diễn ra hết sức nhộn nhịp và phát triển nhanh như hiện hay. Tìm hiểu,
quan tâm, học hỏi và đúc kết kinh nghiệm từ pháp luật các quốc gia
trên thế giới, vốn đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời trong
lĩnh vực bảo lãnh ngân hàng, sẽ là điều hết sức cần thiết để đảm bảo
cho bảo lãnh ngân hàng ngày càng được sử dụng đắc lực như một “tấm
giấy thông hành cho hoạt động mua bán trả chậm” trong thời gian tới,
đồng thời đảm bảo các quy tắc an toàn trong hoạt động tín dụng tiền tệ
quốc gia hiện nay.

21



×