Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận triết học nguyên tắc phát triển được vận dụng trong thực tiễn của thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.77 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA SAU ĐẠI HỌC

BÀI THẢO LUẬN NHÓM
TRIẾT HỌC NÂNG CAO

ĐỀ TÀI: Nguyên tắc phát triển được vận dụng trong thực
tiễn của thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay như thế nào ?
Nhóm: 3

THD: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

Lớp : TCNH CH19B ( Tối)

Hà Nội 2013
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ


Stt

Họ và Tên

1

Nông Tuấn Anh

2

Vũ Đức Anh

3



Nguyễn Thị Chinh

4

Nguyễn Thành Đạt

5

Hoàng Văn Diện

6

Lê Thị Dịu

7

Bùi Minh Đức

8

Phạm Anh Đức

9

Đặng.T. Hoàng
Giang

CT


CV

TĐG NĐG

Ghi
Chú

10 Nguyễn.T. Hồng Hà
11

Nguyễn Anh Tuấn

Nhóm trưởng kí
Đời là cuộc đấu tranh liên tục; nó luôn được cải biên với nhưng khó khăn mới.
Và chúng ta sẽ chiến thắng nhưng bao giờ cũng phải trải giá!
Mirko Gomex


Mọi sự vật hiện tượng đều diễn ra quá trình vận động tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Để quá trình
vận động đạt được mục tiêu thì tất yếu phải có đấu tranh xảy ra. Các sự vật; hiện
tượng nói chung; con người nói riêng : để đạt thành công đều phải trải qua những
thời kì gian khổ. Cũng như để chiến thắng 2 cường quốc Pháp và Mỹ; đất nước ta
phải đấu tranh liên tục; không ngững đối mặt với thách thức. Cuối cùng chúng ta
giành độc lập nhưng cái giá phải trả rất đắt. Đó chính là nạn đói 1945 cướp đi hàng
triệu sinh mạng người dân Việt. Trải qua hơn 40 đất nước hòa bình; chúng ta không
ngừng nâng cao nhận thức phát triển mọi mặt từ văn hóa, kinh tế, xã hội … Bởi sự
vật, hiện tượng không ngững vận động và phát triển, con người chúng ta luôn sẵn
sàng đấu tranh tìm ra cái mới tốt đẹp hơn. Mirko Gomex có câu:
Đời là cuộc đấu tranh liên tục; nó luôn được cải biên với nhưng khó khăn mới.

Và chúng ta sẽ chiến thắng nhưng bao giờ cũng phải trải giá!

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài thảo luận này, chúng tôi xin chân thành cảm sự hướng
dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, chu đáo của Giáo viên hướng dẫn PGS.TS Phương Kỳ Sơn.
Bên cạnh đó; xin chân thành cảm ơn :


Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Nhóm Tác giả


LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan bài thảo luận : “Nguyên tắc phát triển được vận dụng
trong thực tiễn của thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay “ là công trình nghiên cứu
của tập thể nhóm 3. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo đã được ghi rõ ràng
trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong bài thảo luận là
hoàn toàn trung thực, nếu sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi
hình thức kỷ luật của khoa và nhà trường.
Nhóm tác giả

Đề số 3 : Nguyên tắc phát triển được vận dụng trong thực tế nước ta hiện nay


như thế nào ?

Từ đầu thập nên 90 của thế kỷ XX đến nay, chúng ta đã chứng kiến những
biến đổi sâu sắc trên thế giới về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học – kỹ
thuật, trong đó có nhiều chấn động bất ngờ, nhiều sự kiện biến hóa khôn lường,
đầy kịch tính. Các nước tư bản vẫn còn khả năng phát triển, chủ nghĩa xã hội tạm

thời lâm vào thoái trào. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái , con
đường lãnh đạo của một số gia rơi vào tình trạng khủng hoảng Việt Nam vẫn tiếp
tục tỏ rõ sự trung thành của mình đối với chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng xã
hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập,
tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác,
đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc
dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng
trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình
độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Tôn trọng nguyên lý phát triển
trong chủ nghĩa Mác- Lênin. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê
nin vào trong thực tiễn Việt Nam.
I . Nguyên lý về sự phát triển
1. Khái niệm phát triển
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật. Những người theo
quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá
trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá


trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất
thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát
triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có chứ không có
sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những ngườitheo quan điểm siêu
hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không có những bước
quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp
đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái
mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực kháchquan hay trong tư duy, sự phát triển
diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm

chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi
dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ratheo đường xoáy
ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như sự vật ấy quay trở về điểm
khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản
thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là
quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá
trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những ngườitheo quan điểm duy tâm hay
quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, Thượng
đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người .
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong
hiệnthực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định phát triển là một phạm trù
triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến


phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói
chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động, xu hướng vận động đi
lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là trường
hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật sẽ hình thành
những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương
thức tồn tại và vận động của mình.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức tồn
tại cụ thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô cơ thể hiện ở dạng biến
đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong các
điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng làm xuất
hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống. Trong giới hữu cơ, sự phát
triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự biến đổi phức tạp của môi

trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn và từ
đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù hợp với môi trường sống.
Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải biến xã
hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện ở khả
năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần, phù hợp với sự vận động và
phát triển của môi trường trong đó có con người sinh sống .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân con người,
trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên,
vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song nếu xét cả quá trình vận
động với không gian rộng và thời gian dài thì quá trình vận động đi lên là khuynh


hướng chung của mọi sự vật.
2. Tính chất của sự phát triển
2.1 Tính khách quan
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân
tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh
trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế,
sự phát triển là tiến trình kháchquan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý
chí, ý thức con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát
triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới vật chất.
2.1 Tính phổ biến
Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên,
xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả
các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động
và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ
trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các

phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển.
2.3 Tính đa dạng phong phú
Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng
phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi
hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống
nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau. Đồng thời trong quá
trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các hiện tượng khác, của
rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển


của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng của phát triển của sự vật, thậm
chí làm cho sự vật thụt lùi.Chẳng hạn, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về
thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những
thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hộimang lại. Hay trong thời đại hiện
nay, thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của các quốc gia chậm phát
triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng
do được thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn
đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại
phụ thuộc rất nhiều vào các nhà lãnh đạo và nhân đân của các nước chậm phát triển
và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật hiện tượng có thể có
những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác nhưng xem xét
toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung. Nguyên tắc
phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về
sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện
thực.Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ
với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về

sự vật, hiện tượng chúng ta phải cóquan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến
diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất
hay về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự


tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng
ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với
tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của
các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được
chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối
liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển
của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới
sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định.
Trongquan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho
phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở
những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách
giao tiếp, cáchquan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: "đối nhân xử thế".

Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải
chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta
phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : "dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất
nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc
tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.


Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên
trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải có quan điểm phát triển.
Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng
trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại
ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng,
phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi.
Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến
đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình
phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương
pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh
hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại
đối với đời sống của con người. Sinh viên là những người đang trong quá trình
phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên
thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho sự
phát triển tiếp tục trong tương lai.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu
chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện
tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể
phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng
cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoáquan điểm phát triển
vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của
toàn xã hội .



Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể
trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm
khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong
điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hoá học bao giờ
cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện
đó định luật sẽ không còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ
thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của
các hệ thống đó .

II . Vận dụng nguyên tắc phát triển trong thực tế nước ta hiện nay
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn,
phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng
động chủ quan. Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật phát tất yếu
khách quan để hoạt động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương
tâm chủ đạo trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp
với tri thức khoa học được trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết
để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên.
Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế chung của khu vực
và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, những chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước đáng phát
huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó. Thấy rõ được quan điểm này nên Đảng và nhà
nước ta đã vận dụng sáng tạo học thuyết phát triển vào công cuộc xây dựng đất
nước trong giai đoạn hiên nay và đạt được nhiều thành tựu to lớn.


1.Về phát triển kinh tế

trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ
tăng trưởng nhanh.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế
giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1
lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) Năm 2012, GDP
tăng 5,03% so với năm 2011.Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư
phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng
hóa tăng 18,3% .Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim
ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế
giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực
hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD,


giải ngân đạt trên 35 tỷ USD
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương

thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh
tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng
suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu
gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực
quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn


đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy

ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành,
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương
đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều
thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.


Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây

dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà
nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần,
số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2. Về phát triển các mặt xã hội
Công tác thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư
được cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu
tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ
hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư,


khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP
bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988
chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã
tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168
USD/người/năm .Nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có
thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung
bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có
công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình
hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại
tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa
tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.

Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm
2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống
kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và
nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm
2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn
so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu
Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra . Tại cuộc Hội thảo quốc tế với
tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ
Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được
đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước
đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến


cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ
sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm
1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô
đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm
2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với
lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng
dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực
thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao,
thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản
xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên.
Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng
28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50%
xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch
bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung
bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập
kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995;
0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp
hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên
13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống
kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội


của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu
người cao hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người
(HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ
bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn
chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô
được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn
định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và
chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới,
khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất

nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực
cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận
lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
3. Về quan hệ quốc tế
Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn
sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập


tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực.
Quan hệ hợp tác song phương
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G8; nâng
quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện,
gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ
quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán,
20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn
phòng kinh tế văn hóa.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới,
mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các
nước và vùng lãnh thổ1, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và
nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc
tế.
Hợp tác đa phương và khu vực:
Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến
1


trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm
cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký
kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá
về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm
1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm
1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC). Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có
một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán.
3. Về an sinh xã hội
Thực hiện có kết quả việc bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo cho
người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn; các lĩnh vực văn
hoá, xã hội có bước phát triển mới trong điều kiện kinh tế suy giảm.Đặc biệt coi
trọng an sinh xã hội và quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính
sách và những vùng khó khăn là nét nổi bật trong năm 2009. Cùng với việc bảo
đảm đủ nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện các chính sách, chương trình,
dự án đã có, đã sửa đổi bổ sung và ban hành nhiều chính sách giảm nghèo và an
sinh xã hội mới như: hỗ trợ người nghèo ăn Tết và người lao động mất việc; trợ
cấp khó khăn cho cán bộ công chức có thu nhập thấp trong 4 tháng đầu năm; hỗ trợ

nhà ở cho hộ nghèo; triển khai chương trình giảm nghèo ở 62 huyện; hỗ trợ khuyến
nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn; xây dựng các công trình cấp nước trên các
đảo có đông dân cư, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ lãi suất vay mua vật
liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; xây dựng ký túc xá cho sinh viên; chính
sách xây dựng nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung,


người có thu nhập thấp ở đô thị; điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung và tiền
lương tối thiểu trong khu vực doanh nghiệp...
Các lĩnh vực văn hoá xã hội tiếp tục có bước phát triển tích cực. Hệ thống
pháp luật và các định hướng phát triển về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, khoa
học công nghệ và môi trường tiếp tục được hoàn thiện. Nhà nước tăng đầu tư, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hoá và thực hiện nhiều chính sách, giải pháp thích hợp để
phát triển các lĩnh vực này.
Quy mô giáo dục, đào tạo các cấp học đều tăng. Số học sinh bỏ học giảm
41% so với năm học trước. Có thêm 8 tỉnh đạt phổ cập trung học cơ sở, nâng số
tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập trung học sơ sở lên 55. Kế hoạch xây dựng
trường và nhà công vụ được triển khai tích cực. Năm 2009, có trên 1,4 triệu học
sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn tín dụng ưu đãi (chiếm
khoảng 30% học sinh, sinh viên), với tổng dư nợ khoảng 18.800 tỷ đồng, tăng gần
gấp đôi năm 2008.
Hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ được đầu tư phát triển đồng bộ hơn,
nhiều tổ chức hoạt động hiệu quả theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm hoặc cơ
chế doanh nghiệp. Các khu công nghệ cao đang được khẩn trương xây dựng và
bước đầu đã có sản phẩm. Số lượng giao dịch mua bán công nghệ tăng khoảng
37%. Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh. Hạ tầng mạng được
mở rộng và nâng cấp tạo điều kiện phủ sóng đến các vùng sâu, vùng xa, biển Đông
và hải đảo. 9 tháng thuê bao điện thoại phát triển mới tăng 74,1% so cùng kỳ, nâng
tổng số thuê bao toàn mạng đạt 113,6 triệu; số người sử dụng dịch vụ Internet là
22,4 triệu. Một số doanh nghiệp viễn thông và công nghệ thông tin đã đầu tư ra

nước ngoài đạt kết quả bước đầu.
Đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp phòng chống dịch và nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh; tăng cường cán bộ y tế cho các tuyến dưới, nhất là các xã


thuộc vùng khó khăn; đẩy mạnh xây dựng và trang bị kỹ thuật cho các cơ sở y tế;
chỉ tiêu về số giường bệnh và số bác sĩ trên 1 vạn dân đạt và vượt kế hoạch đề ra;
việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em được quan tâm; quản lý nhà nước về
thuốc chữa bệnh được tăng cường; vệ sinh an toàn thực phẩm được coi trọng hơn.
Có nhiều cố gắng trong việc thực hiện bình đẳng giới và bảo đảm các quyền của trẻ
em. Văn hoá, thể thao có bước phát triển; hệ thống thiết chế văn hoá, công trình
văn hoá quốc gia được quy hoạch và đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng; mức hưởng
thụ văn hóa thông tin của nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa được
nâng lên.
Công tác quản lý, bảo vệ và sử dụng đất đai, tài nguyên, môi trường và việc
kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm về môi trường có tiến bộ. Việc xử lý chất thải
y tế, chất thải đô thị, khu công nghiệp và xử lý ô nhiễm các lưu vực sông đạt được
một số kết quả. Đã hình thành bước đầu kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển
dâng để làm căn cứ xây dựng các phương án ứng phó thích hợp . Các cơ sở dự báo
về khí tượng thuỷ văn được đầu tư nâng cấp. Công tác phòng chống lụt bão, giảm
nhẹ thiên tai được quan tâm chỉ đạo.
4. Về an ninh –quốc phòng
Công tác quốc phòng và an ninh tiếp tục được coi trọng; bảo đảm chủ quyền
quốc gia và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các lực lượng vũ
trang nhân dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục
được củng cố và tăng cường; xã hội đồng thuận; thực hiện tốt hơn dân chủ, tiến bộ
công bằng xã hội và chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đã xử lý
đúng pháp luật các hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền, chính sách tôn giáo, dân
tộc để phá hoại khối đại đoàn kết và gây mất trật tự an toàn xã hội. Công tác phòng
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội được quan tâm chỉ đạo và đã có những kết quả

thiết thực.


Hoàn thành việc phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc, tạo
điều kiện rất quan trọng để xây dựng biên giới Việt - Trung hoà bình, hữu nghị,
hợp tác cùng phát triển bền vững, lâu dài. Quan hệ hợp tác giữa nước ta với các
nước láng giềng, các đối tác chiến lược, các đối tác lớn có bước phát triển mới; đã
ký kết và đưa vào thực thi Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản
(VJEPA); tạo được bước phát triển sâu rộng hơn về hợp tác kinh tế với một số đối
tác tại Trung Đông; mở rộng quan hệ với các nước châu Phi, Mỹ La tinh. Đảm
nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc...
4. Ý nghĩa của việc vận dụng nguyên tắc phát triển trong thực tế nước ta hiện
nay
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật phát tất yếu khách quan
để hoạt động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thức
khoa học được trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực
tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước
ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, những chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính
ưu việt của nó.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công cuộc đổi mới vì CNXH của Đảng
và của nhân dân ta đang đạt được những thành tựu to lớn: đất nước phát triển và
hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Vị thế của đất nước không
ngừng được khẳng định và nâng cao. Những thành công đó chứng tỏ sự vận động
của một đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn vững vàng
kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không chấp nhận đa



×