Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật về quản trị công ty đại chúng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 88 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

LNG èNH THI

PHáP LUậT
Về QUảN TRị CÔNG TY ĐạI CHúNG ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

LNG èNH THI

PHáP LUậT
Về QUảN TRị CÔNG TY ĐạI CHúNG ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. PHAN TH THANH THY

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LƢƠNG ĐÌNH THI


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục kí hiệu, chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
ĐẠI CHÚNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
ĐẠI CHÚNG ....................................................................................... 6
1.1.

Khái quát về quản trị công ty............................................................ 6

1.1.1. Khái niệm về quản trị công ty .............................................................. 6
1.1.2. Phân biệt quản trị công ty với quản lý công ty .................................... 8

1.1.3. Các nguyên tắc quản trị công ty .......................................................... 9
1.2.

Quản trị Công ty đại chúng ............................................................. 13

1.2.1. Khái niệm công ty đại chúng ............................................................. 13
1.2.2. Đặc điểm công ty đại chúng ............................................................... 14
1.2.3. Cấu trúc quản trị nội bộ công ty đại chúng ........................................ 17
1.3.

Khái quát pháp luật về quản trị công ty đại chúng ...................... 18

1.3.1. Khái niệm pháp luật về quản trị công ty đại chúng ........................... 18
1.3.2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật về quản trị công ty đại chúng .......... 19
1.3.3. Vai trò của pháp luật về quản trị công ty đại chúng .......................... 21
Chƣơng 2: KHUNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM ........................................................... 24
2.1.

Những quy định pháp luật hiện hành về quản trị công ty đại chúng .... 24

2.1.1. Cổ đông và đại hội đồng cổ đông....................................................... 24
2.1.2. Hội đồng quản trị và thành viên hội đồng quản trị ............................ 32


2.1.3. Giám đốc hoặc tổng giám đốc điều hành ........................................... 39
2.1.4. Ban kiểm soát và thành viên Ban kiểm soát ...................................... 39
2.1.5. Công khai hóa và kiểm soát giao dịch với các bên có liên quan ....... 42
2.1.6. Công khai hóa thông tin ..................................................................... 47

2.1.7. Chế độ giám sát và xử lý vi phạm ...................................................... 51
2.2.

Thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị công ty đại chúng ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 53

2.2.1.

Tổng quát về thực trạng quản trị công ty đại chúng tại Việt Nam .......... 53

2.2.2. Thực trạng quản trị công ty đại chúng trên từng lĩnh vực quản trị
công ty ................................................................................................ 54
2.2.3. Những nguyên nhân của thực trạng về quản trị công ty đại chúng
tại Việt Nam ....................................................................................... 60
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM ........66
3.1.

Phƣơng hƣớng và yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về quản trị công ty đại chúng......................................... 66

3.1.1. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường ...................................... 66
3.1.2. Đảm bảo được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ............................... 67
3.1.3. Phù hợp với truyền thống văn hóa và lịch sử ..................................... 68
3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty đại chúng ... 68

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công
ty đại chúng ........................................................................................ 68

3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
quản trị công ty đại chúng .................................................................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu

Chữ viết tắt

BGĐ

Ban giám đốc

BKS

Ban kiểm soát

CTCP

Công ty cổ phần

CTĐC

Công ty cổ phần đại chúng

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông




Giám đốc

HĐQT

Hội đồng quản trị

IFC

Tổ chức tài chính quốc tế

LCK

Luật chứng khoán 2006, sửa đổi 2010

LDN 2005

Luật doanh nghiệp 2005

LDN 2014

Luật doanh nghiệp 2014

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

QTCT


Quản trị công ty

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán

TGĐ

Tổng giám đốc

Thông tư 121/2012/TT-BTC

Thông tư 121/2012/TT- BTC ngày 26/07/2012
của Bộ Tài chính quy định về quản trị công ty áp
dụng cho các công ty đại chúng

Thông tư 52/2012/TT-BTC

Thông tư 52/2012/TT- BTC ngày 05/04/2012 của
Bộ Tài chính hướng dẫn về công bố thông tin
trên thị trường chứng khoán

UBCKNN

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

UPCoM

Sàn giao dịch chứng khoán của các công ty đại

chúng không niêm yết

WB

Ngân hàng thế giới

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với sự phát triển của nền kinh tế, các công ty đại chúng(CTĐC) càng
ngày càng tăng về số lượng tại Việt Nam. CTĐC đã và đang khẳng định được
vai trò của mình trong nền kinh tế và là nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho
thị trường chứng khoán, huy động nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
CTĐC là mô hình công ty có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý, với sự tham gia góp vốn của rất nhiều nhà đầu tư. Các nhà đầu tư
luôn mong muốn đồng tiền của mình sinh lời khi bỏ vốn vào CTĐC. Quản trị
công ty(QTCT) tốt sẽ đem lại điều này. QTCT đề cập đến các cơ cấu và quá
trình cho việc định hướng và kiểm soát các công ty. QTCT liên quan đến mối
quan hệ giữa ban giám đốc(BGĐ), Hội đồng quản trị(HĐQT),các cổ đông lớn,
các cổ đông nhỏ và những bên có quyền lợi liên quan. QTCT tốt góp phần
vào việc phát triển kinh tế bền vững do cải thiện được hoạt động của các công
ty và nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài.
Việt Nam được coi là một nền kinh tế mới nổi, mọi thứ đều ở mức sơ
khai và đang hội nhập dần dần với nền kinh tế thế giới. Vì vậy,việc tăng
cường QTCT, nhất là các CTĐC đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút

vốn đầu tư từ các nhà đầu tư từ bên ngoài. QTCT tốt mang lại niềm tin nơi
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, do đó khuyến khích đâu tư, giảm
chi phí giao dịch và chi phí vốn, phát triển thị trường vốn.
Một trong những yếu tố quan trọng giúp cho QTCT phát triển và bảo
vệ các nhà đầu tư đó chính là hệ thống pháp luật về QTCT, nhất là trong các
CTĐC. Việt Nam là quốc gia đang phát triển và mới gia nhập sân chơi chung
WTO, vì vậy văn hóa và thói quen về QTCT của các nhà quản lý công ty còn

1


rất yếu, chính vì vậy hệ thống pháp luật luật đóng một vai trò quan trọng
trong việc nâng cao QTCT ở nước ta. Các quy định về quản trị CTĐC đã
được quy định trong LDN 2005, LCK và đối với CTĐC, chúng ta đã ban
hành hẳn một thông tư để quy định về QTCT, đó là Thông tư 121/2012/TTBTC và gần đây là LDN 2014 có hiệu lực từ ngày 01/07/2014 thay thế LDN
2005. Như vậy, pháp luật về quản trị CTĐC ở nước ta đã được quan tâm xây
dựng. Tuy nhiên, chúng lại nằm rải rác trong nhiều văn bản với tầm hiệu lực
pháp lý khác nhau gây khó khăn cho việc áp dụng, chưa kể tới nhiều quy định
chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về QTCT. Để bảo vệ tốt nhất các nhà đầu
tư, nâng cao hiệu quả quản trị CTĐC, việc nghiên cứu một cách đầy đủ và
toàn diện về các vấn đề lý luận và thực tiến thi hành pháp luật về quản trị
CTĐC là một vấn đề cấp thiết.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ là: “Pháp luật
về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam” với mong muốn làm rõ các quy
định của pháp luật về quản trị CTĐC, chỉ ra vướng mắc, bất cập trong thực
tiễn, sự phù hợp với thông lệ tốt về QTCT trên thế giới và các nguyên nhân
dẫn tới tình trạng QTCT yếu kém hiện nay, để từ đó đề xuất các giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị CTĐC phù hợp với thực
tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam, Quản trị CTĐC cũng đã được đề cập tới trong một số
công trình khoa học, bài viết nghiên cứu của một số tác giả liên quan tới quản
trị công ty như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấ p ĐHQGHN, mã số QG.11.35
“Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam ”, do PGS.TS. Hoàng Văn Hải chủ trì
(2013); “Báo cáo thẻ điểm quản trị công ty” của Tổ chức tài chính quốc tế
IFC, được thực hiện hàng năm kể từ năm 2010; Luận văn Thạc sĩ Luật học

2


của tác giả Lê Minh Thắng (2008) về “Quản trị công ty niêm yết những vấn
đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Thị Thu
Hằng 2010 “Pháp luật về quản trị công ty đại chúng, thực trạng áp dụng tại
công ty cổ phần VINAFCO”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm
Ngọc Thái (2012) “Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay”;
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Thị Diệu Linh (2010) “Quản trị
công ty tại Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam”;cùng một số
bài viết nghiên cứu như: “Khung pháp luật về quản trị doanh nghiệp – Thực
trạng và nhu cầu hoàn thiện” của tác giả Lê Minh Toàn (2012), “Quản trị
công ty- vấn đề đại diện của các công ty đại chúng tại Việt Nam” của hai tác
giả Nhâm Phong Tuấn và Nguyễn Anh Tuấn (2013)…
Các công trình nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ về quản trị
công ty nói chung và quản trị CTĐC nói riêng, trong đó đã tìm hiểu một phần
về pháp luật về quản trị CTĐC. Tuy nhiên, các công trình này chưa đi cụ thể
để tìm hiểu khung pháp luật về CTĐC một cách toàn diện, chưa phân tích
thấu đáo về khung pháp luật về quản trị CTĐC và những nguyên nhân cụ thể
dẫn tới tình hình quản trị CTĐC yếu kém hiện nay tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu các quy định của pháp luật về quản trị CTĐC ở Việt Nam

trong tương quan với các thông lệ quốc tế tốt về QTCT nhằm tìm ra những bất
cập trong thực tiến áp dụng các quy định của pháp luật về quản trị CTĐC, từ đó
đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị CTĐC.
3.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu làm rõ bản chất của QTCT, các quy định pháp luật về quản
trị CTĐC ở Việt Nam.

3


Phân tích thực trạng áp dụng các quy phạm pháp luật về quản trị CTĐC
từ đó chỉ ra những bất cập hạn chế trong các quy định của pháp luật.
Từ việc nghiên cứu và phân tích như trên, đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định hiện hành về quản trị CTĐC tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
vào các qui định pháp luật về quản trị CTĐC theo LDN 2005, LDN 2014,
LCK và các văn bản có liên quan, các nguyên tắc quản trị công ty của OECD
và các thông lệ tốt về quản trị công ty trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu pháp luật thực định của
Việt Nam về quản trị CTĐC trong việc đối chiếu so sánh với các khuyến nghị
của OECD và các thông lệ quốc tế về quản trị CTĐC.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm
các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp
phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa pháp luật….đặc biệt là
phương pháp so sánh, đối chiếu giữa pháp luật Việt Nam với thông lệ và pháp
luật nước ngoài về quản trị CTĐC đề tìm ra những bất cập, và đề xuất các giải
pháp để tăng cường quản trị CTĐC tại Việt Nam.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn này đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về quản
trị CTĐC, xác định những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về quản
trị CTĐC và từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế về QTCT và phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị CTĐC tại Việt Nam trong
bối cảnh Việt Nam đang hội nhập với thế giới.

4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầ u , kế t luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1:

Những vấn đề lý luận về quản trị công ty đại chúng và
pháp luật về quản trị công ty đại chúng

Chương 2:

Khung pháp luật và thực trạng áp dụng các quy định
pháp luật về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam

Chương 3:

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản
trị công ty đại chúng ở Việt Nam

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG
1.1. Khái quát về quản trị công ty
1.1.1. Khái niệm về quản trị công ty
Thuật ngữ “corporate governance” khi dịch sang tiếng Việt còn nhiều
tranh cãi. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương dịch là “quản trị
công ty”, và cách dịch này cũng được sử dụng chính thống trong các văn bản
pháp luật liên quan, nhất là Thông tư 121/2012/TT-BTC. Tuy nhiên, có nhiều
tác giả không đồng ý với cách dịch này, họ cho rằng cách dịch này gây nhầm
lẫn và họ dịch thuật ngữ này sang tiếng Việt gọi là “chỉ đạo công ty”, và cũng
có tác giả dịch là “cai quản công ty” [3, tr.407]. Tác giả Luận văn đồng ý với
cách dịch là “chỉ đạo công ty” để tránh nhầm lẫn. Nhưng do được dùng một
cách chính thống trong các văn bản pháp luật, trong các bản dịch của OECD,
của IFC, nên trong Luận văn này sử dụng cách dịch thuật ngữ “corporate
governce” là “Quản trị công ty”.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi về cách dịch, nhưng thuật ngữ “corporate
governce” được hiểu với nội dung sau:
Việc tiến hành kinh doanh theo đúng những yêu cầu của chủ
sở hữu hoặc những cổ đông của công ty; yêu cầu đó thường là làm
sao để làm ra được nhiều tiền nhất, nhưng không trái với các
nguyên tắc cơ bản của xã hội được quy định trong các luật và tập
quán địa phương.
Một hệ thống theo đó các công ty kinh doanh được định
hướng và kiểm soát. Cơ cấu quản trị công ty định rõ sự phân chia
quyền hạn và trách nhiệm đối với những thành viên khác nhau trong

6



công ty như thành viên HĐQT, những người quản lý, cổ đông và các
bên liên quan khác, giải thích rõ các quy tắc và thủ tục ra quyết định
về các vấn đề của công ty. Bằng cách đó, quản trị công ty sẽ tạo ra cơ
cấu và công cụ để đạt được những mục tiên đó [3, tr.277].
QTCT là một hệ thống, thông qua đó công ty được định hướng, điều
hành và kiểm soát nhằm đáp ứng quyền lợi của nhà đầu tư, người lao động và
những người điều hành công ty. Governance có gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là
lèo lái. Người ta hình dung corporate – công ty như một con tàu cần phải
được lèo lái để đến bến thành công với thuyền trưởng và đoàn thuỷ thủ là
những người điều hành và người lao động.
Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông…), nhưng để công ty
tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của BGĐ và
sự đóng góp của người lao động, mà những người này không phải lúc nào
cũng có chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng, cần phải có một cơ chế để điều
hành và kiểm soát để nhà đầu tư, cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành
công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
QTCT đề ra cách phân chia quyền hạn và nghĩa vụ giữa các nhóm lợi
ích trong một công ty bao gồm cổ đông, HĐQT, BGĐ và các bên có lợi ích
liên quan như người lao động, nhà cung cấp (đặc biệt là nhà cung cấp tài
chính). Mục đích chính của QTCT cần được xác định là để bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư, cổ đông và đảm bảo hài hoà giữa các nhóm lợi ích trong công
ty. Các quy định của QTCT chủ yếu liên quan đến HĐQT, các thành viên
HĐQT và BGĐ, chứ không liên quan đến việc điều hành công việc hàng ngày
của công ty. QTCT tốt sẽ có tác dụng làm cho các quyết định và hành động
của BGĐ thể hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, cổ đông và
những người có lợi ích liên quan.
Nhìn vào hoạt động của công ty, có thể thấy có một số giao dịch giữa

7



công ty và một số đối tượng nhất định có thể gây thiệt hại cho công ty và cổ
đông, vì vậy QTCT đặc biệt nhằm vào điều chỉnh các giao dịch:
Khi công ty cho những người có liên quan (thành viên HĐQT, BGĐ, cổ
đông lớn…) vay mượn; công ty vay mượn của những người có liên quan;
công ty đứng ra bảo lãnh cho những người có liên quan; công ty bán tài sản
cho những người có liên quan; công ty mua tài sản từ cổ đông; công ty ký hợp
đồng với các bên có liên quan; công ty bán cổ phần cho cổ đông với giá thấp
hơn giá thị trường; công ty mua lại cổ phần từ cổ đông với giá cao hơn giá thị
trường; khi có gian lận trong chuyển nhượng tài sản của công ty; khi những
người quản lý công ty nhận tiền hoa hồng.
Những vấn đề như cung cấp thông tin về tình trạng chung và tình trạng tài
chính của công ty, vấn đề thủ tục đưa ra các quyết định quan trọng trong công ty
cũng cần được điều chỉnh một cách rõ ràng trong khuôn khổ của QTCT.
Tóm lại, QTCT là một cơ chế mà trong đó nhà đầu tư mong muốn công
ty sẽ bảo đảm cho họ thu hồi vốn đầu tư và lấy được lời lãi, những quản trị
viên không ăn cắp tiền của họ hay đầu tư vào những dự án mà có nguy cơ rủi
ro rất cao.
1.1.2. Phân biệt quản trị công ty với quản lý công ty
Cần phân biệt rõ ràng QTCT với quản lý công ty. Đây là hai khái niệm
khác nhau nhưng có thể dễ gây nhầm lẫn. Quản lý công ty liên quan đến các
công cụ để điều hành công ty theo những chiến lược, hoặc định hướng sẵn
của công ty đã đề ra. QTCT ở tầm cao hơn, liên quan đến các các cơ cấu và
các quy trình của công ty nhằm kiểm soát và định hướng công ty để đảm bảo
quyền lợi cho các cổ đông, các nhà đầu tư vốn vào công ty [34].
Quản lý công ty liên quan đến toàn bộ quá trình ra quyết định của công
ty sao cho công ty đi đúng hướng với những chiến lược định sẵn. Quản lý
công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp. Quản


8


lý công ty là hệ quả của quản trị công ty. Bản thân công ty là chiếc xe (có thể
là xe khách, xe tải..) còn ban quản lý thì giống như tài xế, phụ xe,chủ xe…
Khi nói đến quản lý công ty là nói về các trung tâm hay cơ cấu quyền
lực ở đó. Việc ấn định quyền hành là do người sáng lập công ty quyết định.
Dựa trên luật, người ấy muốn mình đứng ở đâu trong các bộ phận để có và
phải có những quyền nào nhằm điều khiển công ty theo ý mình, hay để ít bị
cản trở nhất[3, tr281].
Quản trị công ty liên quan tới cơ chế kiểm soát quá trình ra quyết định
của công ty. Đó là cơ chế đảm bảo những người quản lý công ty trung thành
với lợi ích của cổ đông, với chủ sở hữu công ty, cẩn trọng với tất cả các quyết
định của mình, trung thực với các cổ đông của mình. Hay nói cách khác, quản
trị công ty là các quy trình nhằm đảm bảo sự công bằng, tính minh bạch, tính
trách nhiệm và tính giải trình. Quản trị công ty được đặt ở một tầm cao hơn
đảm bảo rằng công ty sẽ được quản lý theo một cách sao cho nó phục vụ lợi
ích của các cổ đông.
1.1.3. Các nguyên tắc quản trị công ty
Năm 1999, OECD lần đầu tiên xuất bản những nguyên tắc về QTCT
với mục đích hỗ trợ các chính phủ trong việc “cải thiện khuôn khổ pháp lý,
thể chế và quy định cho nền tảng QTCT”. Những nguyên tắc này không có
tính ràng buộc mà chỉ cung cấp các định hướng và tinh thần cho việc xây
dựng một hệ thống QTCT tốt. Đây là bộ nguyên tắc quốc tế đầu tiên về
QTCT được chính phủ các nước chấp nhận và thông qua một cách rộng rãi.
Năm 2002, OECD đã tiến hành xem xét, rà soát bộ nguyên tắc năm
1999 và ban hành bộ nguyên tắc mới cập nhật, bổ sung bao gồm các lĩnh
vực sau: Bảo đảm cơ sở cho một khuôn khổ QTCT hiệu quả; Quyền của cổ
đông và các chức năng sở hữu chính; Đối xử bình đẳng đối với cổ đông;
Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan trong QTCT; Công bố thông tin

9


và tính minh bạch; Trách nhiệm của HĐQT. Nhiều quốc gia, trong đó có
Việt Nam, đã sử dụng những nguyên tắc này như là một tiêu chuẩn cho
việc thiết lập khuôn khổ QTCT.
* Quyền của cổ đông
Theo OECD, các nguyên tắc bao quát về quyền của cổ đông là “Khuôn
khổ QTCT phải bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện các quyền của cổ đông”.
Chủ trương của nguyên tắc này bao gồm tất cả những vấn đề nhằm chấp
thuận các quyền lợi cơ bản của cổ đông bao gồm quyền ảnh hưởng đến công
ty, quyền được cập nhật thông tin, quyền được bán hoặc chuyển nhượng cổ
phần và quyền tham gia vào lợi nhuận hoặc thu nhập của công ty (quyền kinh
tế). Quyền của cổ đông tập trung vào các quyền cơ bản như đề cử, bầu cử, bãi
miễn thành viên HĐQT, sửa đổi quy định, điều lệ công ty... và tuỳ các loại cổ
phần khác nhau sẽ có các quyền khác nhau.
* Đối xử bình đẳng đối với cổ đông
“Khuôn khổ QTCT cần đảm bảo có sự đối xử bình đẳng đối với mọi
cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số và cổ đông nước ngoài. Mọi cổ đông
phải có cơ hội khiếu nại hiệu quả khi quyền của họ bị vi phạm”. Chủ
trương của nguyên tắc này là để bảo vệ sự toàn vẹn của thị trường vốn
bằng cách bảo vệ các cổ đông không có quyền kiểm soát, tránh khỏi sự lạm
dụng, chẳng hạn các khoản chi tiêu hoang phí do HĐQT, BGĐ và các cổ
đông nắm quyền kiểm soát quyết định. Các nhà đầu tư tin rằng lợi ích của
họ nếu không bị lạm dụng sẽ làm giảm rủi ro đầu tư, hạ thấp chi phí vốn và
qua đó làm tăng giá trị tài sản.
* Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan trong QTCT
Khuôn khổ QTCT cần công nhận quyền của các bên có quyền lợi liên
quan đã được pháp luật quy định hoặc theo các thỏa thuận song phương, khuyến


10


khích công ty tích cực hợp tác trong việc tạo dựng tài sản, việc làm và ổn định
tài chính cho công ty. Khái niệm các bên liên quan đề cập đến các nhà cung cấp
nguồn lực cho công ty bao gồm cả nhân viên, chủ nợ và nhà cung cấp.
Mối quan hệ giữa các nhà cung cấp này một phần được quy định bởi hệ
thống pháp luật, nhưng bộ nguyên tắc OECD cũng nhìn nhận rằng mối quan
hệ trên thường mang tính quan hệ hợp đồng (quyền lợi được bảo vệ dựa trên
các hợp đồng riêng lẻ). Do đó OECD khuyến cáo khuôn khổ QTCT nên nhìn
nhận rằng khi các bên liên quan có được lợi ích sẽ dẫn đến việc công ty cũng
sẽ thu được lợi ích và các bên liên quan sẽ đóng góp cho sự thành công về lâu
dài của công ty.
Hệ thống thể chế bảo vệ nhà đầu tư và chủ nợ bao gồm rất nhiều nội
dung, như luật công ty, Luật Chứng khoán, Luật Phá sản, luật về thâu tóm sáp
nhập, Luật Cạnh tranh, Luật Kế toán và chuẩn mực kế toán, cũng như các quy
định và yêu cầu công bố thông tin từ thị trường chứng khoán(TTCK). Hệ
thống pháp luật bảo vệ các cổ đông và chủ nợ không chỉ quan trọng trong việc
ngăn ngừa các nhà quản lý hoặc cổ đông có quyền kiểm soát chiếm đoạt tài
sản, mà còn giúp đa dạng hóa trong cơ cấu sở hữu, phát triển thị trường vốn,
và đem lại hiệu quả của việc phân bổ đầu tư.
* Công bố thông tin và tính minh bạch
Khuôn khổ QTCT phải đảm bảo công bố thông tin kịp thời và chính
xác về các vấn đề thực tế liên quan đến công ty, bao gồm tình hình tài chính,
tình hình hoạt động, sở hữu và QTCT. Thị trường tài chính nói chung và
TTCK nói riêng là một môi trường phức tạp, đòi hỏi thông tin phải được công
bố đầy đủ. Người sử dụng thông tin cũng cần được đảm bảo về độ tin cậy của
thông tin. Cơ chế công bố thông tin tốt là cơ sở để thu hút vốn và tạo niềm tin
cho các nhà đầu tư. Ngược lại, một cơ chế công bố thông tin kém hiệu quả và
thiếu minh bạch có thể dẫn đến những hành vi vi phạm đạo đức gây hậu quả

xấu cho công ty, cổ đông và cả nền kinh tế.
11


* Trách nhiệm của HĐQT
Khuôn khổ QTCT cần đảm bảo định hướng chiến lược của công ty,
giám sát có hiệu quả công tác quản trị của HĐQT, và trách nhiệm của HĐQT
với công ty và cổ đông. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất
bởi trách nhiệm thực thi QTCT đầu tiên và trên hết thuộc về HĐQT. Nguyên
tắc này nhấn mạnh HĐQT cần làm việc vì quyền lợi tối cao của các cổ đông,
tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông cũng như những người có
liên quan, trách nhiệm công bố và minh bạch thông tin.
Trong cuốn Cẩm nang quản trị công ty, IFC đã đúc kết cốt lõi của các
nguyên tắc QTCT của OECD. Khuôn khổ QTCT của OECD được xây dựng
dựa trên bốn giá trị cốt lõi sau:
Thứ nhất là sự công bằng: khuôn khổ QTCT phải bảo vệ quyền lợi của
các cổ đông và đảm bảo sự đối xử công bằng đối với mọi cổ đông, kể cả các cổ
đông nhỏ lẻ và các cổ đông nước ngoài. Tất cả các cổ đông đều phải được đảm
bảo cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình nếu quyền lợi của họ bị xâm phạm.
Thứ hai là tính trách nhiệm: khuôn khổ QTCT cần phải công nhận
những quyền lợi của các bên có quyền lợi liên quan theo quy định của pháp
luật, khuyến khích sự hợp tác tích cực giữa các công ty và các bên có
quyền lợi liên quan trong việc tạo ra của cải, công ăn việc làm, và đảm bảo
tính bền vững về mặt tài chính của các công ty.
Thứ ba là tính minh bạch: khuôn khổ QTCT cần phải đảm bảo rằng
việc công khai thông tin về các vấn đề quan trọng liên quan tới công ty, bao
gồm tình hình tài chính, kết quả hoạt động, quyền sở hữu, và cơ cấu kiểm soát
luôn được thực hiện một cách kịp thời và chính xác.
Thứ tư là trách nhiệm giải trình: khuôn khổ QTCT cần phải đảm bảo
việc cung cấp định hướng chiến lược cho công ty, đảm bảo việc giám sát có


12


hiệu quả từ phía HĐQT, và đảm bảo trách nhiệm giải trình của HĐQT trước
công ty và các cổ đông [34].
Tại Việt Nam, các nguyên tắc quản trị CTĐC đã được luật hóa tại
LCK. Theo Khoản 2 Điều 28, nguyên tắc quản trị CTĐC bao gồm:
- Bảo đảm cơ cấu quản trị hợp lý; bảo đảm hiệu quả hoạt động của Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát;
- Bảo đảm quyền lợi của cổ đông, những người có liên quan;
- Bảo đảm đối xử công bằng giữa các cổ đông;
- Công khai, minh bạch mọi hoạt động của công ty.
Những nguyên tắc này được cụ thể hóa thành các quy định tại Thông tư
121/2012/TT-BTC ngày 26 tháng 07 năm 2012 quy định về QTCT áp dụng
cho các CTĐC.
Tóm lại, các nguyên tắc QTCT được đưa ra để đạt được mục đích là
đảm bảo cho định hướng và kiểm soát công ty của các nhà đầu tư, khuyến
khích họ bỏ vốn ra đầu tư vào các công ty, phát triển thị trường vốn hơn nữa
và thúc đẩy TCCK phát triển lành mạnh.
1.2. Quản trị Công ty đại chúng
1.2.1. Khái niệm công ty đại chúng
Trước khi LCK được ban hành, tại Việt Nam, pháp luật về chứng khoán
và TTCK chưa đặt ra cơ sở pháp lý (định nghĩa) về thuật ngữ “công ty đại
chúng”. Tuy nhiên thực tế đã xuất hiện mô hình CTĐC dưới dạng: (i) Các công
ty niêm yết phát hành chứng khoán số lượng lớn ra công chúng, từ trước khi
LCK có hiệu lực (Quyết định 07/2002/QĐ-VPCP về việc ban hành Điều lệ
Mẫu áp dụng công ty niêm yết). (ii) CTCP phát hành riêng lẻ nhiều lần có số
lượng cổ đông lớn, theo Luật Doanh Nghiệp 1990, 1999. (iii) và doanh nghiệp
nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Điều bất cập giữa mô hình (i) so với (ii) và

(iii) chính là nghĩa vụ minh bạch, công khai hóa thông tin, đây là quy định bắt
13


buộc đối các công ty niêm yết (mô hình i) trong thời kỳ đó. Về vốn lẫn quy mô
thì cả ba mô hình trên đều tương đồng, trong khi đó các công ty niêm yết phải
thực hiện nghĩa vụ trên một cách chặt chẽ và đó chính là một trở ngại chủ yếu
khiến các mô hình (ii), (iii) ngại đưa chứng khoán ra niêm yết.
Chính vì vậy pháp luật Việt Nam đã du nhập và tiếp nhận quy định
pháp luật tiến bộ của các nước đi trước, LCK đã xây dựng một chương
riêng về CTĐC. Theo Điều 25 LCK quy định CTĐC là CTCP thuộc ba loại
hình sau đây:
- Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng; đây là hoạt
động phát hành cổ phiếu ra công chúng và được thực hiện theo một trong ba
cách thức: (i) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; (ii)
Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu
tư chứng khoán chuyên nghiệp; (iii) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư
không xác định.
- Công ty có cổ phần được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán(SGDCK);
tức công ty đưa chứng khoán có đủ điều kiện vào giao dịch tại SGDCK.
- Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không
kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và vốn đều lệ đã góp từ mười tỷ
đồng Việt Nam trở lên.
Như vậy, theo định nghĩa này có thể chia CTĐC ra làm hai loại, một là
CTĐC niêm yết và hai là CTĐC không niêm yết. Các CTĐC buộc phải tuôn
thủ các quy định của LCK về công bố thông tin và minh bạch và tuôn thủ quy
chế QTCT. Các công ty khi đã đủ điều kiện là CTĐC buộc phải đăng ký với
Uỷ ban chứng khoán nhà nước(UBCKNN) để trở thành CTĐC. Đinh nghĩa về
CTĐC đã được xác định rõ ràng và theo thông lệ quốc tế.
1.2.2. Đặc điểm công ty đại chúng

* Là CTCP theo pháp luật về doanh nghiệp.
Đây là đặc điểm đầu tiên được ghi nhận tại Điều 25 LCK. Theo đó,
14


CTĐC mang đầy đủ các đặc điểm cơ bản CTCP. Như vậy, về cơ bản
CTĐC là công ty cổ phần, và do đó nó phải tuân thủ các quy định của LDN
về cơ cấu tổ chức nội bộ của loại hình CTCP. CTCP là loại hình đặc trưng
của loại công ty đối vốn, nhà đầu tư chỉ cần sở hữu cổ phiếu là đương
nhiên trở thành cổ đông của công ty, do vậy đây là loại hình công ty mang
tính mở. Do đó, CTCP có thể có rất nhiều cổ đông và các cổ đông không
thể trực tiếp quản lý công ty.
* Là tổ chức kinh tế cơ chế quản lý tập trung cao.
Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong CTĐC có sự tách biệt
giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Theo đó, cơ cấu tổ chức nội bộ của
CTĐC theo quy định pháp luật như chủ tịch HĐQT không được kiêm
nhiệm chức danh tổng giám đốc (TGĐ) điều hành, trừ khi được phê chuẩn
tại Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên hoặc CTĐC niêm yết trên
SGDCK (Trung tâm giao dịch chức khoán) bắt buộc quy định chức danh
Thư ký công ty. Rõ ràng việc quy định pháp luật như vậy nhằm tạo sự giám
sát trong mối quan hệ nội bộ công ty cũng sự tạo sự kiểm soát thuận tiện từ
phía cơ quan Nhà nước.
* Có số lượng cổ đông lớn.
Bản thân tên gọi “đại chúng” đã cho thấy số lượng cổ đông công ty,
cổ đông CTĐC không giới hạn và có khả năng thay đổi thường xuyên. Quy
định tại Điều 25 LCK cho thấy CTĐC ít nhất cũng phải có một trăm nhà
đầu tư trở lên hoặc cổ phiếu của CTĐC phải được chào bán ra công chúng
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc niêm yết tại SGDCK
để chào bán cho các nhà đầu tư. Đây được xem là ưu điểm và cũng là
nhược điểm của loại hình này.

Ưu điểm là do tính đại chúng, công ty được đặt dưới sự kiểm soát của
xã hội thông qua việc công khai các thông tin về hoạt động kinh doanh, trách

15


nhiệm HĐQT và Ban điều hành và người quản lý phải chăm lo cho sự phát
triển công ty. Từ ưu điểm này, cổ đông đặt ra vấn đề nghĩa vụ minh bạch
thông tin và bảo vệ cổ đông thiểu số trong CTĐC. Ngược lại, do quá nhiều cổ
đông cũng như số lượng cổ đông thường xuyên thay đổi dẫn đến tình trạng
khó quản lý cổ đông cũng như mất tính ổn định trong QTCT khi có sự thay
đổi các cổ đông lớn.
Đây cũng là đặc điểm để có thể từ CTCP trở thành CTĐC theo quy
định của LCK. CTCP khi đạt tới một số lượng cổ đông nhất định(chẳng hạn
100 nhà đầu tư trở lên) thì trở thành CTĐC và phải đăng kí là CTĐC. Do có
số lượng cổ đông lớn, có nhiều cổ đông nhỏ tham gia và không trực tiếp điều
hành, quản lý doanh nghiệp cho nên đòi hỏi phải có cơ chế để bảo vệ nhà
đầu tư, đảm bảo cho nhà đầu tư thu hồi vốn đầu tư và lấy được lời lãi, những
quản trị viên không ăn cắp tiền của họ hay đầu tư vào những dự án lỗ lãi, và
đó chính là quy chế quản trị công ty áp dụng riêng cho các CTĐC. Và như
vậy, khi đã trở thành CTĐC, thì CTCP đó bắt buộc phải áp dụng quy chế
quản trị công ty.
* Mối liên hệ chặt chẽ TTCK.
CTĐC là loại hình công ty được thiết kế phù hợp để huy động vốn từ
công chúng đầu tư thì TTCK chính là phương tiện để loại hình công ty này
thực hiện điều đó. Ngoài sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp, CTĐC còn
chịu sự điều chỉnh của LCK và các văn bản hướng dẫn thi hành, với tư cách
luật chuyên ngành. Ngoài ra trong một số lĩnh vực đặc biệt như ngân hàng,
bảo hiểm… còn phải chịu sự điều chỉnh luật chuyên ngành đó.
TTCK chính là chợ mua bán hàng hóa là chứng khoán, trong đó một

trong những người bán chứng khoán chính là CTĐC, hay nói cách khác,
CTĐC chính là người bán hàng trong chợ chứng khoán này, và do đó phải
tuân thủ quy chế của chợ chính là LCK. Muốn bán hàng chứng khoán thì

16


người bán phải đảm bảo chất lượng hàng hóa và người bán hàng phải có đủ tư
cách tham gia chợ đó. Và tư cách đó chính là tư cách CTĐC. CTCP muốn bán
hàng trong chợ này thì phải trở thành CTĐC.
1.2.3. Cấu trúc quản trị nội bộ công ty đại chúng
Khi nghiên cứu về cơ cấu tổ chức hay cấu trúc quản trị nội bộ của các
CTCP trên thế giới, người ta nhận thấy có hai mô hình cơ bản, đó là cấu trúc
HĐQT nhị cấp và HĐQT đơn cấp [34]. Việc tổ chức theo mô hình nào tùy
thuộc vào điều kiện thực tế và truyền thống, cơ chế pháp lý của từng nước.
Mô hình HĐQT đơn cấp với đặc trưng là một HĐQT đơn cấp bao
gồm các thành viên điều hành và không điều hành. Trong cơ cấu này, bộ
phận giám sát thường được gọi là HĐQT. Mô hình này có thể tạo điều kiện
thuận lợi để xây dựng cơ cấu lãnh đạo vững mạnh và ra quyết định nhanh.
Tuy nhiên, các thành viên HĐQT điều hành và không điều hành đóng một
vai trò thiết yếu trong việc giám sát các thành viên của BGĐ điều hành và
giảm thiểu các chi phí tác nhân. Mô hình này được áp dụng đối với những
công ty có trụ sở tại các quốc gia theo truyền thống Luật án lệ, chẳng hạn
như Mỹ và Anh.
Mô hình HĐQT nhị cấp với đặc trưng là sự tồn tại của các bộ phận
kiểm soát và quản lý tách biệt. Bộ phận thứ nhất là BKS, và bộ phận thứ hai
là BGĐ điều hành. Với mô hình này, công việc quản lý hàng ngày của công
ty được giao cho BGĐ điều hành, và BGĐ điều hành chịu sự kiểm soát của
Ban kiểm soát(BKS). Hai bộ phận này có thẩm quyền riêng biệt và cơ cấu
thành phần không được phép lẫn lộn, thành viên của bộ phận này không

được đồng thời là thành viên của bộ phận kia. Ưu điểm của mô hình này là
một cơ chế giám sát rõ ràng, nhưng có nhược điểm là thiếu hiệu quả trong
quá trình ra quyết định. Mô hình này được áp dụng phổ biến ở Đức, Nhật.
Ngoài hai mô hình đơn cấp và nhị cấp, nhiều quốc gia còn tổ chức

17


một cơ cấu quản trị thứ ba, hệ thống hỗn hợp, là sự hòa trộn của hai mô hình
trên. Theo mô hình này, mọi CTCP đều phải thành lập một BKS, một HĐQT,
đồng thời thành lập một BGĐ điều hành.
Mô hình cơ cấu tổ chức của CTĐC theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam
2005 với ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS, BGĐ được phân định quyền và nghĩa vụ
nhằm đảm bảo việc thực hiện một cơ cấu quản trị hiệu quả và là mô hình
hỗn hợp, pha trộn giữa hai mô hình đơn cấp và nhị cấp.
Từng mô hình có những hiệu quả khác nhau tùy thuộc môi trường
kinh doanh của từng quốc gia và của từng doanh nghiệp, luôn có sự bù trừ
giữa tính hiệu quả và mức độ kiểm soát. Nếu luật pháp một quốc gia luôn
duy trì một mô hình duy nhất thì có thể sẽ làm cho việc QTCT trở nên cứng
nhắc và không hiệu quả khi mỗi công ty là một môi trường khác nhau. Xu
hướng hiện nay là gia tăng tính linh hoạt, cho phép các công ty lựa chọn
những mô hình quản trị khác nhau và áp dụng tùy thuộc vào môi trường kinh
doanh khác nhau. Việt Nam cũng đang theo xu hướng này và bằng chứng là
LDN 2014 đã cho phép các công ty được lựa chọn mô hình quản trị phù hợp
với mình. Theo quy định tại Điều 134 LDN 2014, CTCP có quyền lựa chọn
tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình, một là theo mô
hình cũ đã quy định tại LDN 2005, hai là mô hình mới với chỉ ĐHĐCĐ,
HĐQT và BGĐ, trong đó ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải là thành
viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc.
1.3. Khái quát pháp luật về quản trị công ty đại chúng

1.3.1. Khái niệm pháp luật về quản trị công ty đại chúng
Pháp luật về CTĐC là một trong những phần cấu tạo nên chế định công
ty bởi vì CTĐC là CTCP nhưng có những điểm đặc biệt khác biệt so với các
CTCP phi đại chúng. CTĐC không những được quy định bởi Luật doanh
nghiệp mà còn được quy định bởi Luật chứng khoán và các văn bản dưới luật

18


khác, bao gồm các phần về đặc điểm pháp lý CTĐC và đặc biệt về cấu trúc
quản trị nội bộ CTĐC và mối quan hệ của CTĐC với các chủ thể khác. Quy
định về cấu trúc quản trị nội bộ CTĐC là một phần pháp luật rất quan trọng
tạo nên khung pháp lý chính về quản trị CTĐC, tạo nền móng cho việc quản
trị CTĐC và đạt được mục đích của QTCT.
Pháp luật về quản trị CTĐC ở các nước có thể có những quy định khác
biệt, nhưng luôn đảm bảo các nguyên tắc tổng quát sau:
- Sự độc lập của các thành viên HĐQT và việc giám sát hữu hiệu của họ.
- Chịu trách nhiệm với các cổ đông.
- Minh bạch và công bố thông tin.
- Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nắm ít vốn.
Trách nhiệm của các thành viên HĐQT là tâm điểm của QTCT ở các nước.
Như vậy, pháp luật về quản trị CTĐC là một bộ phận của luật thương
mại bao gồm tổng hợp những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành quy
định về hình thức CTĐC qua đó xác định khung quản trị CTĐC nhằm đạt
được mục đích của quản trị công ty đối với cơ quan quản lý nhà nước, các chủ
đầu tư và của các chủ thể khác.
1.3.2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật về quản trị công ty đại chúng
Thứ nhất, phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật tư là phương
pháp bình đẳng pháp lý. Đó là sự kết hợp các yếu tố điều chỉnh tác động lên
các quan hệ tài sản giữa các thương nhân hoặc những chủ thể khác khi thực

hiện các hành vi thương mại. Các thương nhân hoặc các chủ thể khác tham
gia các quan hệ thương mại đều là những thực thể độc lập bình đẳng với nhau
về tổ chức và tài sản, không có quan hệ phụ thuộc trên dưới. Chính yếu tố này
làm cho các chủ thể phải thỏa thuận với nhau để cùng có lợi.
Thứ hai, các quy tắc của luật thương mại chủ yếu là các quy tắc giải
thích có mục đính giải thích cho ý chí của các đương sự. Những quy tắc này

19


×