Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Luận văn thạc sỹ Nâng cao hiệu quả sử dụng VKD tại công ty xây dựng cầu hầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.75 KB, 118 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Dương Thị Quỳnh Anh


MỤC LỤC
1.1 Vốn kinh doanh của doanh nghiệp.........................................................4
1.1.1.Khái niệm, đặc trưng vốn kinh doanh................................................4
1.1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh.....................................................4
1.1.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh...............................................5
1.1.2.Phân loại vốn kinh doanh...................................................................7
1.1.2.1. Theo đặc điểm chu chuyển vốn..............................................7
1.1.2.2. Theo hình thái biểu hiện của vốn.........................................10
1.1.2.3. Theo nguồn gốc hình thành vốn...........................................10
1.1.3.Vai trò của vốn kinh doanh...............................................................12
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.........................14
1.2.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh...................................14
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ....................20
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ....................21
1.2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VKD....................22
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VKD trong DN........24
Đặc trưng của VKD là luôn luôn vận động không ngừng. Trong quá
trình vận động đó, có rất nhiều nhân tố có thể tác động đến hiệu quả sử
dụng vốn theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Xác định được
các nhân tố cũng như mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả
sử dụng vốn sẽ là điều kiện để các nhà quản lý có định hướng nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn trong DN.............................................................24


1.2.3.1. Nhóm nhân tố khách quan...................................................25
1.2.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan.......................................................25
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xây dựng Cầu Hầm
...................................................................................................................35


Tuy DN mới thành lập nhưng Công ty xây dựng Cầu Hầm đã tạo
được cho mình một uy tín lớn mà không phải DN nào cũng có được.
Với trang thiết bị cơ giới hóa đa dạng và hiện đại cùng với đội ngũ cán
bộ nhiều kinh nghiệm, lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề, Công ty
xây dựng Cầu Hầm đã thi công xây dựng các công trình xây dựng cao
tầng, các công trình giao thông đường, cầu, cảng, công trình ngầm, sân
bay, thi công các công trình thủy lợi và lắp đặt đường bay, trạm biến
thế trong phạm vi cả nước, đặc biệt trong lĩnh vực thi công nền móng
mặt đường cao tốc, các công trình đường sân bay quốc phòng theo tiêu
chuẩn kỹ thuật của Việt Nam và quốc tế. Ngoài ra Công ty còn làm tốt
công tác khảo sát dò tìm và xử lý bom mìn vật nổ làm sạch môi trường.
...............................................................................................................37
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
Xây dựng Cầu Hầm – Tổng công ty xây dựng Lũng Lô............................73
Kết luận Chương 3................................................................................106


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


DANH MỤC VIẾT TẮT
BĐS
CPSXKD
DN

DTT
HTK
MMTB
NN
NG
NSNN
KTTT
SXKD
TSCĐ
TSLĐ
TNHH 1TV
TNDN
TSNH
VCĐ
VLĐ
VKD
VCSH
XD

Bất động sản
Chi phí sản xuất kinh doanh
Doanh nghiệp
Doanh thu thuần
Hàng tồn kho
Máy móc thiết bị
Nhà nước
Nguyên giá
Ngân sách nhà nước
Kinh tế thị trường
Sản xuất kinh doanh

Tài sản cố định
Tài sản lưu động
Trách nhiệm hữu hạn một thánh viên
Thu nhập doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn
Vốn cố định
Vốn lưu động
Vốn kinh doanh
Vốn chủ sở hữu
Xây dựng


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
VKD là một trong các yếu tố không thể thiếu đối với sự hình thành tồn
tại và phát triển của DN. Để tiến hành hoạt động SXKD, dù dưới hình thức
nào trước tiên, DN cũng cần có một lượng vốn nhất định, vốn đầu tư ban đầu
và vốn bổ sung để mở rộng SXKD. Làm thế nào để bảo toàn VKD, nâng cao
kết quả, hiệu quả SXKD, nâng cao hiệu quả sử dụng VKD là vấn đề quan tâm
thường xuyên của các nhà quản trị DN và các đối tượng có lợi ích liên quan
đến hoạt động của DN nhất là trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều khó khăn
hiện nay.
Trên thực tế khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường thì có nhiều DN
thích nghi được và kinh doanh có hiệu quả, song bên cạnh đó nhiều DN với
sức ì lớn đã không có được sự thay đổi kịp thời dẫn đến tình trạng thua lỗ và
phá sản. Tuy nhiên một lý do phải kể đến và là một trong những nguyên nhân
chính là do công tác quản lý VKD của DN còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy
vấn đề rất quan trọng đặt ra với các DN hiện nay là phải xác định và đáp ứng
được đầy đủ nhu cầu về vốn và sử dụng đồng vốn đó sao cho có hiệu quả. Và

vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DN đã trở thành yêu cầu cấp
thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi DN cũng như toàn nền kinh tế.
Quản lý sử dụng vốn hiệu quả sẽ giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, gia tăng
lợi nhuận, tạo điều kiện cho tình hình tài chính của DN luôn trong trạng thái
ổn định và lành mạnh. Trong những năm qua công tác quản lý, sử dụng VKD
ở Công ty xây dựng Cầu Hầm – Tổng công ty xây dựng Lũng Lô đã được
quan tâm, hoạt động SXKD đã đạt được kết quả đáng khích lệ, quy mô sản
xuất, doanh thu, lợi nhuận tăng, hiệu quả sử dụng VKD đó là tỷ trọng nợ phải
trả lớn, HTK có quy mô và tỷ trọng ngày càng tăng trong kết cấu VLĐ, hiệu
suất sử dụng VLĐ chưa đạt mong muốn đầu tư, việc tính toán xây dựng kế


2
hoạch VKD chưa cao đã ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VKD
của Công ty. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng VKD
tại Công ty xây dựng Cầu Hầm” là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn..
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về VKD, hiệu quả sử dụng
VKD, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD tại Công ty xây
dựng Cầu Hầm. Kết quả nghiên cứu là báo cáo tốt nghiệp cao học của học
viên, tài liệu nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn quản lý, sử dụng VKD tại
Công ty xây dựng Cầu Hầm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: VKD và hiệu quả sử dụng VKD của DN.
- Phạm vi nghiên cứu: VKD, hiệu quả sử dụng VKD của Công ty xây
dựng Cầu Hầm giai đoạn 2012 - 2014
4. Nhiệm vụ nghiêm cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về VKD, hiệu quả sử dụng VKD
và nâng cao hiệu quả sử dụng VKD của DN.

- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng VKD của
Công ty xây dựng Cầu Hầm giai đoạn 2012 - 2014.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD tại Công ty
Công ty xây dựng Cầu Hầm trong những năm tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống –
cấu trúc, logic, lịch sử, điều tra, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…


3
6. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nâng cao hiệu quả sử dụng VKD
của DN
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng VKD tại Công ty xây dựng
Cầu Hầm giai đoạn 2012 - 2014
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD tại Công ty xây
dựng Cầu Hầm


4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Vốn kinh doanh của doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng vốn kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Như chúng ta đã biết, bất kì một DN nào muốn tiến hành hoạt động
SXKD trong nền kinh tế thị trường (KTTT) đều cần có một lượng vốn nhất

định. Đứng trên mỗi góc độ và quan điểm khác nhau, với mục đích nghiên
cứu khách nhau thì có những quan niệm khác nhau về vốn.
Theo quan điểm của Mark – nhìn dưới giác độ của các yếu tố sản xuất
thì “Vốn chính là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của
quá trình sản xuất”. Tuy nhiên Mark quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật
chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế trong
quan điểm của Mark. Cách hiểu này phù hợp với nền kinh tế sơ khai – giai
đoạn kinh tế học mới xuất hiện và phát triển.
Sau Mark các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác
nhau đã đưa ra nhiều quan điểm về vốn. Trong các quan điểm đó phải kể đến
quan điểm về vốn của P.Samuelson và của D. Begg. Theo P.A Samuelson:
“Vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là
đầu vào của hoạt động SXKD của DN”. Trong quan niệm của mình về vốn,
Samuelson không đề cập đến các tài sản tài chính, những tài sản có giá có thể
đem lại lợi nhuận cho DN, ông đã đồng nhất vốn với tài sản của DN.
Khác với Samuelson, theo cuốn “Kinh tế học” của David Begg cho rằng:
“Vốn là một loại hàng hoá nhưng được sử dụng tiếp tục vào quá trình SXKD
tiếp theo. Có hai loại vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính.


5
Vốn hiện vật là dự trữ các loại hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các
hàng hoá và dịch vụ khác.
Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá trị của DN.
Nhìn chung, các nhà kinh tế đã thống nhất ở điểm chung cơ bản; Vốn là
yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình SXKD, được sử dụng để sản xuất ra hàng
hóa và dịch vụ cung cấp cho thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, vốn được xem xét dưới góc độ là
một yếu tố đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là của
một quá trình sản xuất và tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời gian tồn

tại của DN, thậm chí ngay cả khi DN không còn tồn tại thì vốn của nó lại
được chuyển nhượng vào các quá trình SXKD khác. Theo quan điểm này vốn
là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo, vốn được biểu hiện
bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật tư, hàng hóa, tài sản của DN. Vốn ở đây
khác với tiền tệ thông thường khác. Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được
bỏ vào SXKD, ngược lại nó không được coi là vốn khi chỉ được dùng để mua
sản phẩm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội.
Như vậy, VKD (VKD) có thể hiểu như sau: “VKD của DN là biếu hiện
bằng tiền của toàn bộ tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động SXKD
nhằm mục đích sinh lời”.
1.1.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh
Để quản lý và sử dụng hiệu quả VKD đòi hỏi DN phải nhận thức đúng
đắn và đầy đủ các đặc trưng cơ bản của vốn, bao gồm:
- VKD được biểu hiện bằng một lượng tài sản có thực.
Đây là đặc trưng rất cơ bản của VKD - VKD là một lượng tiền tệ đại diện
cho một lượng hàng hóa nhất định, một tài sản có thực. Nói cách khác, vốn là
biểu hiện bằng giá trị của các tài sản trong DN. Đó có thể là tài sản hữu hình


6
như: Các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu… hay tài sản vô
hình như : Vị trí kinh doanh, nhãn hiệu sản phẩm, bản quyền phát minh…
- VKD phải được tích tụ, tập trung thành một lượng nhất định, đủ sức đầu
tư vào một phương án kinh doanh.
Để tiến hành bất kỳ hoạt động SXKD nào đều cần phải có một lượng vốn
tối thiểu nhất định. Trong quá trình SXKD, các DN không chỉ khai thác tiềm
năng về vốn sẵn có mà còn phải tìm cách thu hút vốn, huy động thêm vốn từ
các nguồn bên ngoài; như vậy vừa có thể giúp DN khuyếch đại tỷ suất lợi
nhuận vốn chủ mà còn có thể giúp DN phân chia được rủi ro trong quá trình
SXKD.

- VKD phải vận động sinh lời.
Đặc trưng này của vốn xuất phát từ nguyên tắc: tiền tệ chỉ được coi là
vốn khi chúng được đưa vào SXKD, chúng vận động biến đổi hình thái biểu
hiện nhưng điểm khởi đầu và điểm kết thúc của vòng tuần hoàn phải là tiền,
lượng tiền thu về phải lớn hơn lượng tiền bỏ ra - tức là kinh doanh phải có lãi.
- VKD có giá trị về mặt thời gian.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố
như giá cả, lạm phát, khủng hoảng…mà giá trị của một đồng vốn ở những
thời điểm khác nhau là khác nhau. Cùng một lượng tiền bỏ ra nhưng lượng
hàng hóa mà nó mua được của ngày hôm sau có thể ít hơn ngày hôm trước.
Vì vậy, khi xem xét, quyết định đầu tư, DN luôn phải chú ý tới giá trị thời
gian của đồng vốn.
- VKD gắn liền với chủ sở hữu.
Đồng vốn vô chủ sẽ dẫn đến việc sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả.
Ngược lại, những đồng vốn gắn liền với chủ sở hữu, gắn với lợi ích hợp pháp
của chủ sở hữu thì sẽ được sử dụng đúng mục đích, sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả và sinh lời. Có thể người sử dụng vốn không phải là người chủ sở hữu


7
đồng vốn nhưng nó vẫn có chủ sở hữu nhất định. Người chủ sở hữu này đặt ra
yêu cầu phải sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
- Vốn được coi như một loại hàng hóa đặc biệt.
Trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm, có những chủ thể tạm
thời thừa vốn và có những chủ thể tạm thời thiếu vốn. Những người có vốn
nhàn rỗi sẽ đưa vốn vào thị trường, còn những người có nhu cầu về vốn sẽ có
thể mua “quyền sử dụng vốn” và trả cho người bán một lượng tiền tệ nhất
định là “chi phí sử dụng vốn”. Như vậy, khác với các hàng hóa thông thường,
vốn khi “bán ra” sẽ không bị mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử
dụng. Đây là đặc trưng quan trọng giúp cho các DN có khả năng huy động

vốn linh hoạt trong nền KTTT.
- VKD bao gồm cả giá trị của tài sản vô hình.
Tại một thời điểm, vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Vốn không chỉ là biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà của cả
các tài sản vô hình. Đặc trưng này giúp cho DN có sự nhìn nhận toàn diện về
VKD, từ đó đề xuất các biện pháp phát huy hiệu quả tổng hợp của VKD.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh
Việc phân loại VKD hợp lý giúp cho DN trong việc bố trí, sử dụng vốn
một cách tốt nhất. Tùy thuộc vào đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
mà lựa chọn các tiêu thức phân loại khác nhau. Dưới đây là các cách phân
loại chủ yếu:
1.1.2.1. Theo đặc điểm chu chuyển vốn
Dựa trên tiêu thức này, VKD được chia làm hai loại: VCĐ và VLĐ.
VCĐ của doanh nghiệp
VCĐ là lượng vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên TSCĐ của DN.
Quy mô của VCĐ sẽ quyết định đến lượng TSCĐ được hình thành và
ngược lại, đặc điểm luân chuyển của TSCĐ sẽ chi phối đặc điểm luân


8
chuyển của VCĐ. Từ mối liên hệ này, ta có thể khái quát những đặc thù
của VCĐ như sau:
VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD. Đặc điểm này là do TSCĐ tham
gia và phát huy tác dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy, VCĐ là hình
thái biểu hiện bằng tiền của TSCĐ và cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất
tương ứng.
VCĐ được dịch chuyển giá trị dần, từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện
vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần, tức là nó bị hao
mòn, và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng bị

giảm đi, theo đó VCĐ được tách thành hai bộ phận:
- Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ được luân
chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và
được tích lũy lại thành quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao này sẽ được sử dụng để tái
sản xuất TSCĐ nhằm duy trì năng lực sản xuất của DN.
- Phần còn lại của VCĐ vẫn được “cố định” trong TSCĐ, tức là giá trị
còn lại của tài sản cố định. Hình thái hiện vật của VCĐ là tài sản cố định.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần dần giảm xuống. Kết thúc
quá trình vận động đó cũng là lúc TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó
được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm đã sản xuất và khi đó VCĐ mới hoàn
thành một vòng luân chuyển.
VCĐ có chu kỳ vận động dài, sau nhiều năm mới có thể thu hồi đủ số
vốn đầu tư đã ứng ra ban đầu.
VCĐ hoàn thành một vòng luân chuyển sau nhiều chu kỳ kinh doanh.
Trong các DN, VCĐ là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng tương
đối lớn trong toàn bộ vốn SXKD. Quy mô của VCĐ và trình độ quản lý sử


9
dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật của
SXKD. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân
theo qui luật riêng, nên việc quản lý VCĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả sử dụng vốn SXKD của DN.
Vốn lưu động của doanh nghiệp
VLĐ của DN là số vốn bằng tiền được ứng ra để hình thành các tài sản
lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình
sản xuất của DN được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Tài sản lưu động sản xuất bao gồm tài sản lưu động ở khâu dự trữ sản
xuất như: nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ… Tài sản lưu động ở khâu

chế tạo (hoặc khâu sản xuất) như sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm.
Các tài sản lưu động ở khâu lưu thông bao gồm các sản phẩm, thành phẩm
chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các
khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước…Trong quá trình SXKD, các
tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế
và đổi chỗ cho nhau đảm bảo quá trình hoạt động SXKD được tiến hành liên
tục và thuận lợi.
Khác với TSCĐ, trong quá trình SXKD, tài sản lưu động của DN luôn
luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm, hàng hóa. Do đó, để phù
hợp với đặc điểm của tài sản lưu động, VLĐ của DN cũng không ngừng vận
động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh như dự trữ sản xuất, sản xuất
và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo
chu kỳ.
Trong quá trình vận động, VLĐ luân chuyển toàn bộ giá trị ngay một
lần, qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, VLĐ lại thay đổi hình thái biểu
hiện, từ hình thành vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng
hóa dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo thành các bán


10
thành phẩm và thành phẩm, sau khi sản phẩm được tiêu thụ, VLĐ lại trở về hình
thái tiền tệ như hình thái xuất phát ban đầu của nó. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất,
VLĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Từ những đặc điểm của VLĐ đã được xem xét ở trên đòi hỏi việc quản
lý và tổ chức sử dụng VLĐ cần chú trọng giải quyết một số vấn đề sau:
Xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết tối thiểu cho hoạt động
SXKD của DN đảm bảo đủ VLĐ cho quá trình SXKD.
Tổ chức khai thác nguồn vốn tài trợ VLĐ, đảm bảo đầy đủ, kịp thời vốn
cho hoạt động SXKD của DN. Đồng thời phải có giải pháp thích ứng nhằm
quản lý và tổ chức sử dụng VLĐ có hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển

vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất.
1.1.2.2. Theo hình thái biểu hiện của vốn
Theo hình thái biểu hiện, VKD được phân thành ba loại: vốn bằng hiện
vật, vốn bằng tiền và vốn đầu tư tài chính.
Vốn bằng hiện vật: bao gồm vốn đầu tư và nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
vật tư hàng hóa, thành phẩm, bán thành phẩm … dùng trong SXKD của DN.
Vốn bằng tiền: bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển.
Vốn đầu tư tài chính: là giá trị các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn như
đầu tư chứng khoán ngắn hạn, đầu tư tài chính dài hạn của DN như đầu tư vào
công ty con, công ty liên doanh, liên kết. Hoạt động đầu tư tài chính của DN
vừa nhằm thu lợi nhuận vừa tạo điều kiện phân tán rủi ro trong kinh doanh.
1.1.2.3. Theo nguồn gốc hình thành vốn
Theo tiêu thức phân loại này, VKD của DN được chia thành hai nguồn:
vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của DN. Khi DN
mới được thành lập, vốn chủ sở hữu hình thành nên vốn điều lệ. Khi DN đã đi


11
vào hoạt động, ngoài vốn điều lệ còn một số nguồn khác cũng thuộc nguồn
vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, chênh lệch
tỷ giá, chênh lệch đánh giá lại tài sản,… và vốn tài trợ của Nhà nước (nếu có).
Như vậy, vốn chủ sở hữu là phần còn lại trong tổng tài sản của DN sau khi đã
trừ đi toàn bộ nợ phải trả
Nợ phải trả
Nợ phải trả của DN là khoản phát sinh trong quá trình kinh doanh, bao
gồm nguồn vốn chiếm dụng và các khoản nợ vay. Vốn chiếm dụng thể hiện
tạo bộ số nợ phải trả cho người cung cấp, số phải nộp Ngân sách, số phải
thanh toán cho cán bộ công nhân viên, đây là loại vốn mà DN được sử dụng

nhưng không phải trả lãi. Các khoản nợ vay bao gồm toàn bộ số vay ngân
hàng, nợ tín phiếu, nợ trái phiếu của DN .
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất - kinh doanh, DN có thể sử dụng
nợ từ các nguồn như tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông
qua phát hành trái phiếu.
Nguồn vốn thường xuyên
Nguồn vốn thường xuyên là nguồn vốn mang tính chất ổn định và dài
hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Nguồn vốn này được
dùng đề mua sắm TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên cần thiết cho
hoạt động SXKD của DN.
Nguồn vốn tạm thời
Nguồn vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà DN có thể sử
dụng để đáp ứng cho nhu cầu vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong quá trình hoạt động SXKD của DN như các khoản chiếm dụng hợp
pháp không phải trả lãi luôn có đòn bẩy tài chính dương và các khoản vay
ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn.


12
Cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý DN xem xét, lựa chọn
nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng và có cơ sở để lập các kế hoạch
tài chính.
Vấn đề đặt ra đối với các DN là sẽ huy động vốn bao nhiêu và lấy từ nguồn
nào để đáp ứng nhu cầu SXKD, đồng thời phải tiết kiệm tối đa chi phí sử dụng
vốn và có biện pháp quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của vốn kinh doanh
1.1.3.1. Vốn là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình SXKD của DN
Nghiên cứu vài trò của vốn - một điều kiện tiền đề của quá trình SXKD,
chúng ta xuất phát từ một hàm sản xuất thông dụng (Q) có dạng như sau:
Q = f(K, L, T)

Trong đó: Q là sản lượng đầu ra
K, L, T lần lượt là các yếu tố đầu vào
Để đảm bảo quá trình hoạt động SXKD của các DN trong điều kiện nền
kinh tế thị trường cần phải có ba yếu tố cơ bản: vốn, lao động và kỹ thuật
công nghệ. Hiện nay, ở nước ta đang có nguồn lao động dồi dào, việc thiếu
lao động ở những ngành đòi hỏi chuyên môn cao. Nhưng vấn đề này hoàn
toàn có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn, nếu chúng ta có thực
hiện đào tạo mới và đào tạo lại. Chúng ta phát triển kinh tế trong điều kiện
thế giới và các nước trong khu vực có một nền khoa học công nghệ hiện đại,
trình độ quản lý tiên tiến, đi trước chúng ta hàng chục năm. Do đó, việc nhập
kỹ thuật công nghiệp, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới vào Việt
Nam phụ thuộc vào khả năng về vốn, ngoại tệ mà chúng ta có hoặc có khả
năng tạo ra. Như vậy, yếu tố then chốt nhất hiện nay đối với các DN nước ta
là vốn và sử dụng vốn.
Đối với DN, vốn là đòi hỏi đầu tiên khi thành lập DN và cũng là điều
kiện đầu tiên cần phải có để DN tiến hành SXKD, bởi có vốn mới có thể mua


13
các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh. Ngày nay, khi trình độ khoa học
kỹ thuật phát triển không ngừng, nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng cao,
cùng với sự hội nhập nền kinh tế thế giới thì sự cạnh tranh để tồn tại giữa các
DN ngày càng tăng. Muốn thắng được các đối thủ cạnh tranh thì DN cần phải
có vốn để đổi mới thiết bị công nghiệp, mở rộng sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm tăng việc làm và thu nhập cho người lao động từ đó tạo điều
kiện để DN tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu,
nâng cao hiệu quả về hoạt động SXKD.
1.1.3.2. Vốn góp phần đảm bảo tính liên tục trong quá trình SXKD của DN
Đối với toàn bộ nền kinh tế, vốn được ví như “máu” trong một cơ thể
sống. Vốn là công cụ để Nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế của mình

như cơ cấu lại các ngành sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng mở rộng đầu tư,
tăng phúc lợi xã hội. Mặt khác, vốn là tiền đề để Nhà nước thực hiện phân
công lại lao động xã hội, thu hút vốn đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài, ổn định
chính sách vĩ mô để đảm bảo ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế. Thông
qua chính sách đầu tư vốn của Nhà nước qua ngân sách để có thể điều chỉnh
hoặc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo ra cơ cấu kinh tế mới thúc đẩy sự phát triển
toàn bộ nền kinh tế cũng như phát triển cân đối giữa các vùng, các khu vực.
Bất kỳ một DN nào cũng có lúc ở vào thời điểm thiếu vốn hoặc thừa
vốn một cách tạm thời. Tại những thời điểm thiếu vốn do chưa tiêu thụ được
hàng hóa hoặc đã tiêu thụ nhưng chưa thu được tiền hàng, nếu không có
lượng vốn bổ sung kịp thời thì quá trình sản xuất của DN sẽ bị gián đoạn, gây
ra những khó khăn và thiệt hại cho DN. Vì vậy, việc kế hoạch hóa được sự
vận động của luồng vốn trong DN cũng như lập các kế hoạch dự phòng vốn là
vô cùng cần thiết và quan trọng đối với DN.


14
1.1.3.3.Vốn góp phần vào sự phát triển của DN
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các DN được bao
cấp toàn bộ từ các yếu tố đầu vào đến đầu ra. Toàn bộ quá trình sản xuất,
phân phối, tiêu thụ sản phẩm của DN Nhà nước đều được thực hiện theo một
kế hoạch có sẵn do nhà nước giao. Thực chất hoạt động SXKD của DN chỉ
đơn giản là gia công chế biến sản phẩm cho Nhà nước. Các DN không phải
chịu một sức ép cạnh tranh nào, không lo phá sản, người lao động không sợ
không có lương hay mất việc, người quản lý không phải chịu trách nhiệm về
hiệu quả quản lý vốn được giao. Chính vì vậy mà việc đầu tư phát triển DN
cũng nằm trong kế hoạch và chủ trương của Nhà nước, nhu cầu vốn của DN
nếu cần cũng được thỏa mãn bằng Ngân sách Nhà nước, bản thân DN không
cần lo đến việc thừa vốn hay thiếu vốn cũng như huy động vốn từ đâu.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các chủ thể tham gia vào nền

kinh tế rất nhiều và đa dạng, chính vì vậy cạnh tranh rất gay gắt. DN muốn
tồn tại và phát triển thì phải là người chiến thắng trên thương trường, các DN
phải tự bao tiêu sản phẩm, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của
mình, chính vì vậy việc huy động vốn và sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu
quả nhất đóng vai trò lớn cho sự phát triển của DN.
Vai trò quan trọng của đồng vốn đã được C.Mác khẳng định: “Tư bản
đứng vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai”. Đồng thời, ông còn nhấn mạnh
đến tính hiệu quả của việc sử dụng vốn: Không một hệ thống nào có thể tồn
tại nếu không vượt qua sự suy giảm về hiệu quả của tư bản.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề hết sức phức tạp, có liên
quan đến nhiều yếu tố, nhiều khía cạnh trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp như lao động, nguyên vật liệu, năng lượng, các yếu tố kỹ


15
thuật và thời gian được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm được thực hiện qua
một hay nhiều quá trình sản xuất.
Khái niệm hiệu quả kinh doanh đã cho thấy bản chất của nó là phản ánh
mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh
trình độ lợi dụng các nguồn lực đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy
nhiên để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù hiệu quả kinh doanh vào việc
xác lập các chỉ tiêu, các công thức cụ thể nhằm đánh giá tính hiệu quả các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chúng ta cần làm rõ
những vấn đề sau:
- Thứ nhất, Phạm trù hiệu quả kinh doanh về mặt định lượng thực chất
là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và yếu tố nguồn lực đầu vào và
có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Mối quan hệ so sánh ở đây có thể
là so sánh tuyệt đối và cũng có thể là so sánh tương đối.

Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả kinh doanh là:
H=K–C
Còn về so sánh tươn xác định bằng cách đối chiếu so sánh giữa kết quả đạt
được với chi phí hoặc các nguồn lực tạo ra kết quả đó.
K
H =
C
Trong đó:
H: hiệu quả kinh doanh
K: kết quả kinh doanh (bằng các chỉ tiêu sau: GTTSL, Tổng DT, LN…)
C: Nguồn lực đầu vào (Lao động, chi phí kinh doanh, vốn, tài sản…)
Do đó để tính được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính
kết quả đạt được và nguồn lực đầu vào
Về mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh doanh thu được phản ánh trình


16
độ năng lực quản lý sản xuất kinh doanh. Hai mặt định tính và định lượng của
hiệu quả kinh doanh không được tách rời nhau.
- Thứ hai, Phải phân biệt hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội với
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục
tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong
phạm vi toàn xã hội phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng
cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Còn hiệu quả kinh tế xã hội
phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu cả về
kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trên phạm
vi từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế.
- Thứ ba, Hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài: các chỉ tiêu hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu của doanh

nghiệp do đó mà tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các giai
đoạn khác nhau. Xét về tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của
toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của
doanh nghiệp là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả
trước mắt (hiện tại) thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu hiện tại mà Doanh
nghiệp đang theo đuổi. Trong thực tế để thực mục tiêu bao trùm lâu dài của
doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, có rất nhiều doanh nghiệp hiện tại
không đạt được mục tiêu là lợi nhuận mà lại thực hiện các mục tiêu nâng cao
năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao uy tín danh tiếng của doanh
nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu… do đó mà các chỉ
tiêu hiệu quả ở đây về lợi nhuận là không cao nhưng chỉ tiêu có liên quan đến
các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta không thể kết luận
là doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, mà phải kết luận là doanh
nghiệp đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả mà tính


17
hiệu quả trước mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục
đích của nó lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài.
Việc phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đánh giá trình
độ khai thác và tiết kiệm các nguồn lực đã có. Phát huy ưu điểm, khắc phục
nhược điểm trong quá trình sản xuất, đề ra các biện pháp nhằm khai thác mọi
khả năng tiềm tàng để phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạ
giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người lao động.
Dưới góc độ người chủ sở hữu doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh được
thể hiện bằng hiệu quả tài chính, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để
đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Để hiểu rõ hơn bản chất của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
cần phân biệt được 2 khái niệm hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh.

Kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình
kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật (tấn,
tạ, kg, m2, m3…) và đơn vị giá trị (đồng, triệu đồng…) hay cũng có thể
phản ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh như uy tín, danh tiếng của
công ty, của chất lượng sản phẩm. Kết quả còn phản ánh qui mô hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một doanh nghiệp đạt kết quả lớn thì
chắc chắn qui mô của doanh nghiệp cũng phải lớn. Việc xác định kết quả sản
xuất kinh doanh cho dù là kết quả định lượng của một doanh nghiệp gặp rất
nhiều khó khăn bởi nhiều lý do ví dụ như sản xuất sản phẩm. Kết quả là
những gì doanh nghiệp đạt được sau quá trình sản xuất kinh doanh, là mục
tiêu của doanh nghiệp.
Trong khi đó, hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực sản xuất hay phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh.


18
Hiệu quả kinh doanh không phải là sự chênh lệch giữa kết quả và hao phí
nguồn lực vì mức chênh lệch đó là một số tuyệt đối còn hiệu quả kinh doanh
chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối, tỷ số giữa kết quả và hao phí
nguồn lực để có kết quả đó. Việc xác định hiệu quả kinh doanh cũng rất phức
tạp bởi kết quả kinh doanh và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể
nào đó đều rất khó xác định một cách chính xác.
Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối
đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí
nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Như vậy,
hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất kinh
doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
Xét về bản chất của hiệu quả và kết quả khác hẳn nhau. Kết quả phản

ánh quy mô còn hiệu quả phản ánh sự so sánh giữa các khoản bỏ ra và khoản
thu về. Kết quả chỉ cho thấy quy mô đạt được là lớn hay nhỏ và không phản
ánh chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Có kết quả mới tính đến
hiệu quả. Kết quả dùng để tính toán và phân tích hiệu quả tong từng kỳ kinh
doanh. Do đó, kết quả và hiệu quả là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
Sự phân chia giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội chỉ là tương đối
vì chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Quản lý sử dụng vốn là một trong những lĩnh vực của quản lý kinh
doanh và là lĩnh vực có tính chất quyết định vì thế mọi doanh nghiệp đều luôn
chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn
được phản ánh bằng kết quả lợi nhuận mang lại từ một đồng vốn so với chi
phí huy động một đồng vốn. Thông thường khi nói đến hiệu quả sử dụng vốn
người ta thường so sánh tỷ lệ sinh lời trên vốn đầu tư cao hơn lãi suất huy


19
động thì hoạt động sử dụng vốn được coi là có hiệu quả, số chênh lệch này
càng lớn thì hiệu quả càng cao.
Phân biệt hiệu quả sử dụng và hiệu suất sử dụng
Hiệu quả là những thứ mình tạo ra khi sử dụng 1 lượng nguồn lực nào
đó (nguyên vật liệu, nhân công).
Hiệu suất là khả năng sử dụng ít đầu vào hơn nhưng vẫn tạo được kết
quả cao hơn.
Hiệu quả vốn kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử dụng
vốn kinh doanh của một doanh nghiệp, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt kết
quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất..
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VKD của DN
1.2.2.1. Các chỉ tiêu tổng quát

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng
VKD nhưng nhìn chung các quan điểm đều đi đến thống nhất một chỉ tiêu
tổng quát có công thức tính toán :
Kết quả đầu ra
VKD bình quân
Kết quả đầu ra có thể tính theo các chỉ tiêu : Giá trị sản xuất, giá trị

Hiệu suất sử dụng VKD

=

tổng sản lượng, doanh thu, lợi nhuận… Từ đó, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn như sau:
Sức sản xuất của đồng vốn
Doanh thu (giá trị sản lượng)
VKD bình quân
Chỉ tiêu này có thể tính cho từng loại vốn: VCĐ, VLĐ, VCSH, vốn

Sức sản xuất của đồng vốn

=

vay,… Chỉ tiêu này phản ánh cứ mỗi đồng vốn mỗi loại tạo ra bao nhiêu đồng
giá trị sản xuất hoặc doanh thu
Sức sinh lời của đồng vốn


20
Sức sinh lời của đồng vốn


=

Lợi nhuận
VKD bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn sinh ra được bao nhiêu đồng lợi

nhuận. Chỉ số càng lớn, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
càng cao.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
 Vòng quay HTK:
Số vòng quay HTK

Giá vốn hàng bán
HTK bình quân

=

Vòng quay HTK là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển
trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh số vòng luân chuyển HTK trong một thời kỳ
nhất định. Số vòng luân chuyển càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá
càng tốt, bởi lẽ DN chỉ đầu tư cho HTK thấp mà vẫn đạt doanh số cao.
 Vòng quay các khoản phải thu:
Vòng quay của các khoản phải thu

=

Doanh thu
Số dư bình quân các khoản phải thu

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản

phải thu thành tiền mặt của DN. Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi
các khoản thu là tốt.
 Kỳ thu tiền trung bình:

Kú thu tiÒn trung b×nh =
=

360
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i thu
Sè d­ b×nh qu©n c¸c kho¶n ph¶i thu × 360
Doanh thu thuÇn

Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các
khoản phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay
các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền càng nhỏ.


×