Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Luận văn thạc sỹ Quản lý hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ của công ty bảo hiểm PJICO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.72 KB, 102 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thu Thủy


ii

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6

Tên viết tắt
BH
BHPNH
CTCP
DNBH
PJICO
TNDS


Tên
Bảo hiểm
Bảo hiểm phi nhân thọ
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp bảo hiểm
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Trách nhiệm dân sự


iii

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1:
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:
Bảng 2.5:
Bảng 2.6:
Bảng 2.7:
Bảng 2.8:
Bảng 2.9:
Bảng 2.10.
Sơ đồ 1.2:
Sơ đồ 2.1:
Sơ đồ 2.2:
Sơ đồ 2.3:
Biểu 2.1:
Biểu 2.2.


DANH MỤC BẢNG
Danh sách các cổ đông sáng lập của Công ty PJICO
Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO
Tổng hợp các chỉ số cơ bản của Pjico từ năm 2009 - 2013
Cơ cấu doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm gốc phi nhân thọ của
Số lượng cán bộ công nhân viên và đại lý của công ty Pjico
Số hợp đồng khai thác bảo hiểm con người của công ty Petrolimex
Chi phí giám định của PJICO giai đoạn 2009-2013.
Hiệu quả khâu giám định của PJICO giai đoạn 2009-2013.
Chi bồi thường của PJICO giai đoạn 2009 – 2013.
Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm phi
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Quy trình khai thác bảo hiểm phi nhân thọ ở Pjico
Sơ đồ tổ chức cơ cấu bộ máy hoạt động
Sơ đồ miêu tả kênh phân phối sản phẩm trực tiếp ở công ty Pjico
Sơ đồ kênh phân phối sản phẩm gián tiếp của Pjico
DANH MỤC BIỂU
Thị phần nghiệp vụ BH hàng hóa vận chuyển của các DNBH
Biểu đồ thể hiện tỷ trọng đóng góp vào doanh thu của các nghiệp vụ

Trang
37
42
45
47
52
53
54
55
56

59
18
40
49
50
48
66


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và là xu
thế tất yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Vì vậy thị trường bảo hiểm Việt
Nam cần phải có những bước chuyển mình nhằm đáp ứng những nhu cầu của thách
thức và hội nhập nếu không muốn gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Đặc biệt Việt
Nam hiện nay đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới
WTO, do đó lĩnh vực dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là một trong những lĩnh
vực nhạy cảm được quan tâm nhiều. Những biến động trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam trong thời gian gần đây, nhất là sau khi gia nhập WTO đã chứng minh tính sôi
động của nó với hàng loạt các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài ở Châu Âu,
Châu Mỹ và cả trong khu vực cũng như những nước láng giềng đã đang và sẽ ra
nhập vào thị trường Việt Nam.
Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã và đang nỗ
lực không ngừng để giữ vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trước những
đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường.
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico) được thành lập từ năm 1995, là
một trong những công ty cổ phần đầu tiên được thành lập trong lĩnh vực bảo hiểm.
Đến nay sau gần 20 năm từ khi gia nhập thị trường công ty đã thổi một luồng gió

mới vào thị trường bảo hiểm Việt Nam với những thành tựu kinh doanh đáng kể,
chiếm được cảm tình và niềm tin của đông đảo khách hàng trong đó có rất nhiều
khách hàng lớn. Có thể nói vị thế của PJICO ngày càng được khẳng định và nâng
cao trên thị trường, là một địa chỉ đáng tin cậy cho nhiều tổ chức cá nhân tìm đến để
đảm bảo an toàn, bình yên cho việc kinh doanh và cuộc sống của họ. Tuy nhiên
trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, đặc biệt là năm
2008 này theo cam kết gia nhập WTO thì không còn rào cản phân biệt giữa doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Để
có thể giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế của mình đòi hỏi công ty phải có sự
chuẩn bị về mọi mặt để chủ động cạnh tranh trên thị trường. Vì thế mà quản lý hoạt


2

động kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó
có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố,
phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng của thị trường,
khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất trong
kinh doanh. Mặt khác, hiện nay hoạt động quản lý kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ của công ty Pjico cung gặp nhiều bất cấp, đặc biệt là những vấn đề liên quan
đến giám định bồi thường.
Xuất phát từ đòi hỏi thiết thực khách quan đó em đã chọn đề tài: “Quản lý
hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ của công ty bảo hiểm PJICO” để nghiên cứu
tìm hiểu.
2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài
Với mảng đề tài về bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay đã
có nhiều đề tài nghiên cứu như:
Trần Hùng Tiến (2010) “Nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm phi nhân
thọ Việt Nam trong thời gian gần đây” Luận văn thạc sỹ, Đại học Lao động xã hội
Tác giả Trần Hùng Tiến, đã có những đánh giá chi tiết về thực trạng cạnh tranh

trên thị trường bỏ hiểm phi nhân thọ Việt Nam thời gian qua. Tác giả cũng đã khái quát
được các tiêu chí cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, từ đó có
những đánh giá so sánh giữa một số doanh nghiệp bảo hiểm hiểm phi nhân thọ.
Nguyễn Thị Thủy (2012) “ Các biện pháp cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm tại Việt Nam” Báo cáo khoa học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả báo cáo đã đưa ra được những thực trạng mới nhất về thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ, những bảng số liệu tổng hợp chi tiết về mức độ tổn thất, bồi thường
của các doanh nghiệp bảo hiểm lớn của Việt Nam như: Bảo Việt, Bảo Minh, Pjico…
Tác giả cũng có những đánh giá khách quan về hạn chế của các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam so với các doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế. Từ đó đưa ra được các giải pháp
thích hợp cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới.
Chu Thị Thơm (2013) “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam” Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Thương mại


3

Tác giả Chu Thị Thơm nghiên cứu hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ dưới góc nhìn quản lý vĩ mô. Tác giả đã khái quát được các lý luận về quản lý
nhà nước đối với bảo hiểm phi nhân thọ, thực trạng bảo hiểm phi nhân thọ của nước
ta trong thời gian qua. Tuy nhiên tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu quy trình hoạt
động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ.
Trên đây là một số đề tài nghiên cứu khoa học về bảo hiểm phi nhân thọ,
nhưng tới nay vẫn chưa có luận văn hay đề tài nghiên cứu nào nghiên cứu đầy đủ
tổng hợp các hoạt động trong nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ của Pjico. Xuất phát
từ thực tiễn đó tôi quyết chọn đề tài này nhằm nghiên cứu và tìm hiểu rõ hơn công
tác quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Pjico.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ và quản lý các hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ của

công ty bảo hiểm.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Do điều kiện nghiên cứu có hạn, luận văn chủ yếu tạp trung vào
nghiên cứu hoạt động quản lý bảo hiểm phi nhân thọ trên ba phần chính là: Hoạt động
khai thác, công tác giám định bồi thường và công tác giải quyết khiếu nại.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu về hoạt động quản lý của Pjico trên địa
bàn cả nước.
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về bảo hiểm phi nhân
thọ của Pjico từ năm 2009 đến 2013.
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, luận văn hướng tới một số mục
tiêu nghiên cứu như sau:
Hệ thống hóa lý luận về quản lý bảo hiểm phi nhân thọ
Đánh giá thực trạng quản lý bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty bảo hiểm
PJICO qua một số chỉ tiêu phân tích


4

Nghiên cứu thực trạng quy trình kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại công
ty bảo hiểm PJICO. Từ đó đề ra các biện pháp tăng cường kết hợp cho các mảng
nghiệp vụ quản lý hướng tới việc tạo ra tiến trình triển khai bảo hiểm phi nhân thọ
hiệu quả nhất.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mac - Lenin, đây là hai phương pháp làm cơ sở cho các phương
pháp khác cụ thể như sau:
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: chủ yếu được thu thập từ các nguồn
sau: Các báo cáo về tình hình kinh doanh của các phòng, ban, liên quan đến bảo

hiểm phi nhân thọ của Pjico: Phòng kinh doanh, Phòng giám định – bồi thường, …
Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê; Các đề tài, báo cáo khoa học liên
quan; Các bài báo, tạp chí đánh giá của các chuyên gia; Các văn bản quy định, nghị
định của các cơ quan nhà nước về bảo hiểm phi nhân thọ; Các nguồn thông tin khác
trên Internet.
Phương pháp phân tích dữ liệu:
Phương pháp thống kê: Qua các số liệu thu thập được từ các nguồn kể trên,
tác giả tiến hành lựa chọn và thống kê theo các tiêu chí đánh giá nhằm phục vụ quá
trình nghiên cứu đề tài.
Phương pháp so sánh: Thông qua số liệu đã thống kê về thực trạng xuất khẩu
café Việt Nam, tác giả tiến hành so sánh các chỉ tiêu theo thông số tuyệt đối và
thông số tương đối.
Phương pháp tổng hợp: Mỗi một vấn đề sẽ được phân tích theo nhiều khía
cạnh, phân tích từng chiều, từng cá thể và cuối cùng tổng hợp các mối quan hệ của
chúng lại với nhau.
Phương pháp mô tả: Tình hình kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ sẽ được
mô tả cụ thể qua đồ thị và biểu đồ để thấy được xu hướng cũng như biến động theo
thời gian, từ đó rút ra được các kết luận trong quá trình nghiên cứu.


5

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về quản lý hoạt động bảo hiểm phi nhân
thọ của công ty bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ tại công
ty bảo hiểm PJICO
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ

của công ty bảo hiểm PJICO


6

Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BẢO HIỂM PHI NHÂN
THỌ CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM
1.1. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1.1. Bảo hiểm phi nhân thọ
a) Khái niệm bảo hiểm phi nhân thọ
Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này
một người , doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo
hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi
bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”.
Theo Monique Gaultier – Pháp, bảo hiểm phi nhân thọ có thể được định
nghĩa theo cách tiếp cận về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý là: “ Bảo hiểm phi nhân
thọ là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một
khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro.
Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ
các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo phương pháp thống kê”.
Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam năm 2005 giải thích về thuật ngữ
bảo hiểm phi nhân thọ như sau: “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm
tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm
nhân thọ”.
b) Đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ
Sản phẩm của bảo hiểm phi nhân thọ là sản phẩm vô hình
Sản phẩm của bảo hiểm phi nhân thọ về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa,
một lời cam kết mà Công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí
để đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai.

Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua các
giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, hình dáng, kích
thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được bằng các giác
quan như cầm, nắm, sờ, ngửi hoặc nếm thử.


7

Bảo hiểm phi nhân thọ vừa mang tính bồi hoàn, vừa không mang tính bồi hoàn
Trong thời gian bảo hiểm, không có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì doanh
nghiệp bảo hiểm không phải trả tiền hay bồi thường bảo hiểm. Nếu có sự kiện bảo
hiểm xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền hoặc bồi thường bảo hiểm.
Do tính bất ngờ của rủi ro bảo hiểm cả về không gian, thời gian và quy mô
nên doanh nghiệp bảo hiểm phải xây dựng các quỹ dự phòng để thực hiện cam kết
của mình trước bên tham gia bảo hiểm, quỹ này được sử dụng để tham gia đầu tư,
tuy nhiên phải đảm bảo tính thanh khoản cao.
Số tiền bồi thường bảo hiểm trong một hợp đồng nếu có thường rất lớn, lớn
hơn nhiều lần số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng. Vì thế có thể dẫn đến
các trường hợp trục lợi bảo hiểm đã đóng. Doanh nghiệp bảo hiểm muốn đảm bảo
và ổn định nguồn tài chính cho việc bù đắp tổn thất trong hoạt động bảo hiểm thì
phải thực hiện tốt nguyên tắc lấy số đông bù cho số ít. Trong trường hợp có hợp
đồng có giá trị lớn hoặc đối tượng bảo hiểm có nguy cơ dẫn đến rủi ro cao thì doanh
nghiệp bảo hiểm phải thực hiện các biện pháp phân tán rủi ro như đồng bảo hiểm,
tái bảo hiểm; mặt khác để giảm bớt chi phí bồi thường các doanh nghiệp bảo hiểm
phải tăng cường các biện pháp đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế tổn thất bảo hiểm.
Tâm lý người mua hàng không muốn tiêu dùng dịch vụ này
Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để được
nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần so với
số phải đóng.
Hợp đồng BH phi nhân thọ thường xác định thời hạn

Hợp đồng BH thường là 01 năm hoặc ngắn hơn (ngoại trừ một số hợp đồng
trong BH xây dựng lắp đặt có thời hạn theo thời gian xây dựng công trình) thậm chí
có những hợp đồng BH chỉ có hiệu lực vài tháng (BH hàng hoá xuất khẩu), vài ngày
(BH vận chuyển hàng hoá, BH du lịch), hoặc chỉ vài giờ (BH tai nạn hành khách,
BH du lịch).
c) Phân loại bảo hiểm phi nhân thọ
Căn cứ theo đối tượng bảo hiểm thì bảo hiểm phi nhân thọ có ba loại: BH tài
sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người phi nhân thọ.


8

Bảo hiểm tài sản: Là loại bảo hiểm có đối tượng là tài sản (có thể là hữu hình
hoặc vô hình). Hiện nay, hầu hết ở các quốc gia có những nghiệp vụ bảo hiểm tài
sản cơ bản sau: BH hàng hoá; BH vật chất tàu, máy bay, xe cơ giới; BH mọi rủi ro
trong xây dựng, lắp đặt, BH hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Ngoài ra còn một số
nghiệp vụ khác: BH nông nghiệp; BH gián đoạn kinh doanh; BH tiền trong két, BH
nhà tư nhân, trộm cắp, tín dụng,…
Đặc trưng cơ bản của BH tài sản: Người được bảo hiểm có thể do chủ sở hữu
hoặc người được giao quyền chiếm hữu sử dụng, người thừa kế. BH tài sản có thể
nhận BH một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản, không bảo hiểm lớn hơn giá trị tài
sản đó. Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường không thể lớn hơn thiệt hại của tài
sản đó trong một sự cố bảo hiểm.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS): TNDS là một loại trách nhiệm pháp
lý, nó phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. TNDS được coi là biện pháp cưỡng
chế, nó được áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật. Nhìn chung
TNDS là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. TNDS có hai loại TNDS theo hợp đồng
và TNDS ngoài hợp đồng. BH TNDS có một số nghiệp vụ cơ bản sau: TNDS chủ
xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách trên xe; TNDS chủ xe đối với hàng
hoá vận chuyển trên xe; TNDS của chủ tàu biển; TNDS của chủ hãng hàng không;

trách nhiệm sản phẩm; TNDS của chủ thầu đối với người thứ ba trong xây lắp…
Đặc trưng của BH trách nhiệm dân sự: Đối tượng bảo hiểm trong BH trách
nhiệm dân sự mang tính trừu tượng: Khi thiết lập hợp đồng thì đối tượng bảo hiểm
chưa xuất hiện. Nó chỉ biểu hiện cụ thể khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ
bồi thường. Phương thức bảo hiểm có thể là có giới hạn (được ấn định trong hợp
đồng), hoặc không giới hạn (không ấn định trước mà bồi thường theo phát sinh
trách nhiệm).
Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm
là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn của con người. Bên mua bảo hiểm có thể
mua bảo hiểm cho chính bản thân mình hoặc vợ, chồng, con, cha, mẹ, anh, chị, em
ruột, người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng, và người khác nếu bên mua bảo
hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.


9

Loại hình bảo hiểm này có mục đích thanh toán những khoản trợ cấp hoặc số
tiền ấn định cho người được BH hoặc người được thụ hưởng BH, trong trường hợp
xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được BH. Những rủi ro
trong BH con người phi nhân thọ là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, tử vong. Vì lý do giá
trị con người là không thể xác định bằng tiền, nên trong BH con người không có
khái niệm BH trùng, và thuật ngữ “chi trả BH” hoặc “ thanh toán tiền bảo hiểm”
được thay thế cho “bồi thường bảo hiểm”.
Một số loại BH con người ở Việt nam hiện nay: BH tai nạn con người, BH
trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, BH sinh mạng cá nhân, BH toàn diện học sinh, BH
tai nạn hành khách, BH tai nạn thuyền viên, BH khách du lịch, …
Đặc trưng của BH con người phi nhân thọ: Đối tượng BH con người phi
nhân thọ là tính mạng, sức khoẻ: Đây là phạm trù phi giá trị hoá. Số tiền BH được
ấn định trước trên hợp đồng bảo hiểm. Khi có sự kiện BH, các khoản tiền BH được
thanh toán mang tính chất khoán chứ không phải là bồi thường thiệt hại. Trong bảo

hiểm tai nạn con người, người thụ hưởng nhận được số tiền trong phạm vị số tiền
bảo hiểm, căn cứ vào thương tật thực tế của người được bảo hiểm và thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm. Còn trong bảo hiểm sức khoẻ con người, người được bảo
hiểm được nhận số tiền trong phạm vi số tiền bảo hiểm, căn cứ vào chi phí khám
bệnh, chữa bệnh, phục hồi sức khoẻ của người đó do bệnh tật hoặc tai nạn gây ra và
thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
1.1.2. Nguyên tắc hoạt động trong bảo hiểm phi nhân thọ
Nguyên tắc số đông bù số ít:
KDBH phi nhân thọ là việc người BH tìm kiếm lợi ích kinh tế dựa trên cơ sở
hợp đồng BH, mà theo đó đổi lấy phí BH, người BH cam kết thực hiện bồi thường,
hoặc trả tiền BH cho người được BH khi có sự kiện BH xảy ra. Khoản tiền bồi
thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí BH mà các
DNBH nhận được. Để làm được điều này, hoạt động của BH phi nhân thọ phải dựa
trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt không thể thiếu
được trong bất kỳ một nghiệp vụ BH phi nhân thọ nào.


10

Các DNBH thông qua việc huy động bằng hình thức phí BH, thành lập nên
quỹ bồi thường để chi trả cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những
người tham gia BH. Các DNBH đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo quy luật số lớn.
Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BH thì quỹ BH tích tụ được càng
lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn.
Thông thường, một sản phẩm BH chỉ có thể được triển khai có hiệu quả khi có
nhiều nhu cầu về cùng loại dịch vụ đó.
Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm:
Về nguyên tắc, những rủi ro có thể được BH là những rủi ro bất ngờ, không
lường trước được và những nguyên nhân gây ra rủi ro phải là khách quan và không
cố ý. Vì vậy, các DNBH thường không nhận BH cho các trường hợp tổn thất gây ra

do hành vi cố ý của người tham gia BH (ví dụ cố ý tự tử), những tổn thất đã xảy ra,
hoặc chắc chắn sẽ xảy ra (ví dụ hao mòn tự nhiên, giảm giá trị thương mại..), hay
những tổn thất bởi người tham gia BH vi phạm nghiêm trọng pháp luật… Để đảm
bảo nguyên tắc này, trong các điều khoản của hợp đồng BH luôn qui định các rủi ro
bị loại trừ.
Nguyên tắc này nhằm tránh việc bồi thường cho những tổn thất có thể thấy
trước hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Đồng thời làm giảm xác suất rủi ro trong khi tính
toán và đưa ra mức phí BH chính xác, hợp lý. Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo
quyền lợi cho các DNBH mà chính những người tham gia BH cũng được hưởng
mức phí BH hợp lý và cảm thấy công bằng hơn khi mua BH.
Nguyên tắc phân tán rủi ro:
Các DNBH có chức năng huy động và thành lập quỹ BH trên cơ sở sự đóng
góp của nhiều người. Đây là một quỹ tài chính lớn và dùng để thực hiện cam kết bồi
thường và chi trả BH. Tuy nhiên các DNBH cũng phải đối mặt với những tổn thất
có thể rất lớn mà không phải lúc nào DNBH cũng đảm bảo được khả năng thanh
toán (có thể thấy điều này ở các DNBH có qui mô nhỏ, hoặc mới thành lập).
Vì lý do trên, các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ thường không nhận những
rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của mình. Tuy nhiên, để tránh được điều


11

tối kỵ là phải từ chối nhận BH, đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh,
các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro đó là đồng BH và tái BH. Nếu trong
đồng BH, nhiều DNBH cùng nhận BH cho một rủi ro lớn thì tái BH lại là phương
thức trong đó, một DNBH nhận BH cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt phần rủi
ro cho một hoặc nhiều DNBH khác.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối:
Nguyên tắc này đòi hỏi các DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều
kiện điều khoản để soạn thảo hợp đồng đảm bảo cho quyền lợi của hai bên. Sản

phẩm cung cấp của nhà BH là sản phẩm dịch vụ và là sản phẩm “vô hình”. Người
mua chỉ có trong tay một hợp đồng, một cam kết chứ không hề có một sản phẩm cụ
thể. Vì vậy, chất lượng sản phẩm có được đảm bảo hay không, quyền lợi của người
mua có được đầy đủ công bằng hay không…đều chủ yếu dựa vào sự trung thực từ
phía các DNBH. Ngược lại, nguyên tắc này cũng đòi hỏi người tham gia BH phải
trung thực khi kê khai về những đối tượng trước khi tham gia BH, để xác định mức
phí phù hợp, cũng như phải trung thực khi khai báo rủi ro trong khi đòi bồi thường.
Mọi hành vi gian lận, không trung thực, nhằm trục lợi BH sẽ bị pháp luật xử lý.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm:
Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia BH phải có một số quan hệ với đối
tượng tham gia BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản và quyền nghĩa vụ
nuôi, cấp dưỡng đối với đối tượng được BH. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng
BH cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại nhằm thu lợi từ một hợp
đồng BH.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, còn có một số nguyên tắc đó là nguyên tắc
bồi thường, nguyên tắc khoán…áp dụng cho từng trường hợp cụ thể.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ trong đời sống kinh tế xã hội
Bảo hiểm phi nhân thọ góp phần đảm bảo ổn định đời sống, ổn định tài
chính, từ đó ổn định về tinh thần cho người tham gia BH và mang lại sự an toàn cho
xã hội. Khi gặp rủi ro thiên tai hay tai nạn bất ngờ, các cá nhân, doanh nghiệp sẽ bị


12

tổn thất về kinh tế hoặc thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm bồi
thường hoặc trợ cấp về tài chính, để người tham gia BH nhanh chóng khắc phục
hậu quả, ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh. Từ việc
hỗ trợ tài chính, bảo hiểm còn đáp ứng các nhu cầu về đảm bảo an toàn cho
người tham gia bảo hiểm, đưa đến cho họ sự tin cậy về sự an toàn và một chỗ

dựa tinh thần.
Do tính chất nghề nghiệp và xuất phát từ chính lợi ích của các DNBH phi
nhân thọ, đòi hỏi họ phải có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá rủi ro, thống kê tai
nạn, xác định các nguyên nhân và đề ra các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa giảm
thiểu rủi ro cho toàn xã hội. Để thực hiện điều đó, các DNBH phi nhân thọ thường
xuyên tiến hành các hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất giúp cho cuộc sống con
người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo của mỗi cá nhân mỗi doanh
nghiệp. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối mỗi con người và toàn xã hội.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động KDBH phi nhân thọ là
tạo lập, quản lý quỹ tài chính đủ lớn, nhằm chủ động đối phó với rủi ro và góp phần
làm giảm “tổng rủi ro” của xã hội.
Bảo hiểm phi nhân thọ là “tấm lá chắn” hữu hiệu cho các doanh nghiệp,
thông qua việc ổn định giá thành sản phẩm. Thật vậy, khi không may gặp rủi ro bất
ngờ, doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại về tài chính và chắc chắn sẽ đẩy chi phí của doanh
nghiệp tăng lên. Khi đó nếu giữ nguyên giá để cạnh tranh, thì sẽ bị giảm lợi nhuận
thậm chí bị lỗ. Ngược lại nếu tăng giá thì sẽ mất cạnh tranh về giá.
Bảo hiểm phi nhân thọ có thể cung cấp một số vốn không nhỏ để đầu tư, phát
triển kinh tế - xã hội. Với đặc điểm trong KDBH: phí nộp trước, việc bồi thường, trả
tiền bảo hiểm chỉ phải thực hiện sau đó một thời gian. Vì vậy, lượng vốn phần lớn
có thời gian tạm thời nhàn rỗi sẽ được đem đầu tư vào nền kinh tế.

Bảo hiểm phi

nhân thọ cũng góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông
qua hoạt động tái bảo hiểm.
Cuối cùng bảo hiểm phi nhân thọ là chỗ dựa tinh thần cho mọi cá nhân, tổ chức
xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống sinh hoạt và trong sản xuất kinh doanh.


13


Bảo hiểm phi nhân thọ - một trung gian tài chính trong thị trường tài chính:
Cũng như các thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức
năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Không có trung gian tài chính, thị
trường tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn, bởi lẽ nó thực hiện việc “kết nối”
những món tiền nhàn rỗi với những người đi vay một cách nhanh chóng, hiệu quả
và an toàn nhất.
1.2. QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ CỦA CÔNG TY
BẢO HIỂM
1.2.1. Khái niệm quản lý bảo hiểm phi nhân thọ
Quản lý bảo hiểm phi nhân thọ là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thế quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu
quả nhất các tiềm năng, cơ hội của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đặt ra trong
điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý bảo hiểm phi nhân thọ là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo,
kiểm tra các nguồn lực và hoạt động của tổ chức nhằm đạt được mục đích của tổ
chức với kết quả và hiệu quả cao trong điều kiện môi trường luôn biến động.
1.2.2. Mục tiêu và yêu cầu quản lý bảo hiểm phi nhân thọ
Mục tiêu
Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và với
Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm ngày nay
đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Tăng
trưởng và phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài của mọi doanh nghiệp bảo hiểm đang
hoạt động trong nền kinh tế. Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng
mạnh mẽ thì sự cạnh tranh trong ngành bảo hiểm diễn ra cũng ngày càng gay gắt hơn.
Thực tế hoạt động bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của
ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai.
Tăng trưởng thị phần và doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ ở mức cao nhất,
tăng tỷ lệ đóng góp của ngành bảo hiểm hiểm nói chung, của bảo hiểm phi nhân thọ
nói riêng vào GDP



14

Nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
Thực hiện tốt các liên kết giữa các ngành liên quan đến bảo hiểm như: Ý tế,
Xây dựng, vận tải…
Kiểm soát và giảm tổn thất trong bảo hiểm phi nhân thọ.
Yêu cầu
Công tác quản lý phải đảm bảo tính mục tiêu nghĩa là quá trình quản lý sẽ trở
thành công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp
Công tác quản lý bảo hiểm phi nhân thọ phải đảm bảo tính tối ưu nghĩa là
không thừa mà cũng không thiếu đảm bảo các mối quan hệ hợp lý trong quá trình
quản lý
Công tác bảo hiểm phi nhân thọ phải đảm bảo tính chính xác đầy đủ, kịp thời
của tất cả các thông tin nhằm phối hợp tốt các hoạt động và nhiệm vụ của tất cả các
bộ phận trong tổ chức.
Công tác quản lý phải đảm bảo tính linh hoạt thông qua sự quyết định những
cách thức để thay đổi thích nghi với các tình huống xảy ra một cách nhanh nhất.
Công tác quản lý phải đảm bảo tính kinh tế có nghĩa là ngân quỹ hoạt động
luôn phải cân đối một cách tiết kiệm nhất mà vẫn hiệu quả.
1.2.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm
phi nhân thọ.
a) ROS là tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu
Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu thể hiện tỷ lệ thu hồi lợi nhuận trên doanh số
bán được. Qua đó cho chúng ta biết tỷ lệ phần trăm của mỗi đô la doanh số sẽ đóng
góp vào lợi nhuận. Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu được tính như sau:
Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu = Lợi nhuận ròng / Doanh thu thuần
Nếu tỷ lệ này tăng, chứng tỏ khách hàng chấp nhận mua giá cao, hoặc cấp
quản lý kiểm soát chi phí tốt, hoặc cả hai.

Nếu tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu giảm có thể báo hiệu chi phí đang vượt
tầm kiểm soát của cấp quản lý, hoặc công ty đó đang phải chiết khấu để bán sản
phẩm hay dịch vụ của mình.


15

b) ROA là tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản
ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của công ty.
ROA = Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường/Tổng tài sản
ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ
lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). ROA đối với các công ty cổ phần có sự khác
biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử
dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty
qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.
Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả
hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả
của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao
thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
Các nhà đầu tư cũng nên chú ý tới tỷ lệ lãi suất mà công ty phải trả cho các
khoản vay nợ. Nếu một công ty không kiếm được nhiều hơn số tiền mà chi cho các
hoạt động đầu tư, đó không phải là một dấu hiệu tốt. Ngược lại, nếu ROA mà tốt
hơn chi phí vay thì có nghĩa là công ty đang bỏ túi một món hời.
c) ROE là tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả
năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.
Công thức:
ROE = Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường /Vốn cổ phần thường
Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy
tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so

sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định
mua cổ phiếu của công ty nào.
Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của
cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn
đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở
rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà
đầu tư hơn.


16

Khi tính toán được tỷ lệ này, các nhà đầu tư có thể đánh giá ở các góc độ cụ
thể như sau:
- ROE nhỏ hơn hoặc bằng lãi vay ngân hàng, vậy nếu công ty có khoản vay
ngân hàng tương đương hoặc cao hơn vốn cổ đông, thì lợi nhuận tạo ra cũng chỉ để
trả lãi vay ngân hàng.
- ROE cao hơn lãi vay ngân hàng thì phải đánh giá xem công ty đã vay ngân
hàng và khai thác hết lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa để có thể đánh giá công
ty này có thể tăng tỷ lệ ROE trong tương lai hay không.
d) EPS là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu.
Đây là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường
đang được lưu hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả
năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi công thức:
EPS = (Thu nhập ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi) / lượng cổ phiếu bình quân
đang lưu thông.
Trong việc tính toán EPS, sẽ chính xác hơn nếu sử dụng lượng cổ phiếu lưu
hành bình quân trong kỳ để tính toán vì lượng cổ phiếu thường xuyên thay đổi theo
thời gian. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường hay đơn giản hoá việc tính toán
bằng cách sử dụng số cổ phiếu đang lưu hành vào thời điểm cuối kỳ. Có thể làm
giảm EPS dựa trên công thức cũ bằng cách tính thêm cả các cổ phiếu chuyển đổi,

các bảo chứng (warrant) vào lượng cổ phiếu đang lưu thông.
EPS thường được coi là biến số quan trọng duy nhất trong việc tính toán giá
cổ phiếu. Đây cũng chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỉ lệ P/E. Một khía cạnh
rất quan trọng của EPS thường hay bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo ra thu
nhập ròng (net income) trong công thức tính trên.
Hai doanh nghiệp có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một trong hai có thể có ít
cổ phần hơn tức là doanh nghiệp này sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu như các yếu tố
khác là cân bằng thì rõ ràng doanh nghiệp này tốt hơn doanh nghiệp còn lại. Vì
doanh nghiệp có thể lợi dụng các kỹ thuật tính toán để đưa ra con số EPS hấp dẫn
nên các nhà đầu tư cũng cần hiểu rõ cách tính của từng doanh nghiệp để đảm bảo


17

"chất lượng" của tỉ lệ này. Tốt hơn hết là không nên dựa vào một thước đo tài chính
duy nhất mà nên kết hợp với các bản phân tích tài chính và các chỉ số khác.
e) P/E là chỉ số giá trên thu nhập
P/E là một chỉ số được các nhà đầu tư sử dụng rất phổ biến trong phân tích
tài chính. Tất nhiên tỷ lệ này cũng có những hạn chế nhất định nhưng nó có ưu điểm
là dễ tính và dễ hiểu. Nếu bạn muốn biết thị trường sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi
đôla lợi nhuận của một công ty, chúng ta hãy xem xét P/E.
P/E là một tỷ lệ phần trăm giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập trên một cổ
phhiếu.
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu
lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho
từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường
được công bố trên báo chí.
Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ
tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ
suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ

trả cổ tức cao.


18

1.2.4. Nội dung quản lý bảo hiểm phi nhân thọ
a) Quản lý hoạt động khai thác bảo hiểm phi nhân thọ

Nhận đề nghị bảo hiểm

Thu thập, phân tích thông
tin khách hàng, điểu tra
rủi ro
Xem xét phân cấp
Từ chối

Chào phí bảo hiểm

Theo dõi đàm phán với
khách
Khách hàng
đồng ý

Khách
hàng chưa
đồng ý

Tiếp nhận yêu cầu bảo
hiểm chính thức


HĐBH, thu phí bảo hiểm

Theo dõi thực hiện hợp
đồng
(Nguồn: Phòng bảo hiểm phi nhân thọ của công ty bảo hiểm Pjico)
Sơ đồ 1.2: Quy trình khai thác bảo hiểm phi nhân thọ ở Pjico


19

(1) Quản lý về hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ
Đây là vấn đề đầu tiên, đi trước, quan trọng nhất trong tiến trình triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Vấn đề này đòi hỏi đảm bảo chính xác, tối ưu để
giảm thiểu sự sai lệch của các vấn đề tiếp theo. Quản lý việc đảm bảo tất cả các hợp
đồng được lập thỏa mãn đầy đủ nguyên tắc và nội dung cơ bản của hợp đồng bảo
hiểm phi nhân thọ. Đây là căn cứ pháp lý duy nhất của các chủ thể tham gia hợp
đồng bảo hiểm.
Quản lý nội dung hợp đồng là việc điều tra làm rõ tính xác thực của các điều
kiện tiên quyết của hợp đồng gồm: Phải tồn tại một đối tượng được bảo hiểm ngay
tại thời điểm giao kết hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm và đối tượng được bảo
hiểm phải có mối liên hệ trên phương diện tài chính. Mối quan hệ giữa người tham
gia bảo hiểm và đối tượng được bảo hiểm phải được pháp luật công nhận. Quyền lợi
được bảo hiểm là giá trị của những lợi ích tài chính mà người tham gia bảo hiểm sẽ
có được nếu đối tượng được bảo hiểm tồn tại và là những thiệt hại nếu xảy ra tổn
thất liên quan đến đối tượng được bảo hiểm.
Quản lý việc tiến hành kiểm tra sự phù hợp của các thông tin về hình thức
ghi trên hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó chú trọng phân tích kỹ, làm rõ
các thông tin mà người mua bảo hiểm dễ nhầm lẫn nhằm tránh những khiếu nại có
thể xảy ra trong nghiệp vụ bảo hiểm.
Quản lý về so sánh, phân tích và chọn ra những chế độ bồi thường phù hợp cho

từng hợp đồng bảo hiểm. Muốn vậy phải nắm vững quá trình định phí bảo hiểm vì đây
là nghiệp vụ phụ thuộc nhiều vào sự hiểu biết chủ quan của người bán bảo hiểm.
Việc định phí bảo hiểm trong hợp đồng phải tuân thủ chính xác, khoa học,
tối ưu. Phí bảo hiểm là nhân tố đầu tiên quyết định sự lựa chọn của khách hàng nên
việc xác định phí bảo hiểm phải chính xác phù hợp.
Nguyên tắc định phí: Phí toàn phần = Phí thuần + Phí hoạt động
Trong đó: phí thuần thường xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định so với
phí toàn phần, phí hoạt động (phụ phí) gồm chi phí cho hoạt động mới, chi phí thu
phí bảo hiểm, chi phí quản lý.


20

Một số trường hợp đặc biệt cần xem xét trong lựa chọn mức phí bảo hiểm
phù hợp:
Hoàn phí bảo hiểm: Khi khách hàng đã đóng góp phí bảo hiểm cả năm,
nhưng trong năm không hoạt động một thời gian vì lý do nào đó thì doanh nghiệp
bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm theo một tỷ lệ hoàn phí của những tháng ngừng
hoạt động đó cho khách hàng.
Số phí hoàn lại được tính theo công thức sau:
Phí hoàn lại = Phí cả năm x (Số tháng không hoạt động/12 tháng) x tỷ lệ
hoàn phí
Khi khách hàng muốn hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hạn hợp đồng
thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo
công thức trên, nhưng với điều kiện là chưa có lần nào doanh nghiệm bảo hiểm trả
tiền bảo hiểm.
Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm nhiều
tại doanh nghiệp mình, doanh nghiệp bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so
với mức phí chung theo số hợp đồng tham gia bảo hiểm.
Và doanh nghiệp bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người

tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số
năm không có khiếu nại gia tăng.
Biểu phí đặc biệt: Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính
được đề cập ở trên, chỉ khác là dựa trên các số liệu thống kê về bản thân khách hàng
đó, cụ thể là:
Số lượng tài sản của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm
Tình hình bồi thường tổn thất của doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng ở
những năm trước đó
Tỷ lệ phí theo quy định của công ty
Trong trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt, còn nếu cao hơn hoặc bằng thì
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung.


21

(2) Về quản lý kênh phân phối
Quản lý mạng lưới phân phối là phải kết hợp nhuần nhuyễn và phối hợp
uyển chuyển các kênh phân phối độc lập này để phục vụ khách hàng, tránh tạo ra
những xung đột về lợi ích giữa các loại kênh và đảm bảo sự hỗ trợ đầy đủ cho
những kênh phân phối trung gian thông qua tính khoa học và thực tiễn của kế hoạch
và định mức. Phân tích đánh giá so sánh hiệu quả khai thác bảo hiểm của mạng lưới
phân phối khác nhau để xác định việc nâng bậc, hạ bậc, tiếp tục sử dụng hay chấm
dứt hợp đồng đại lý. Sự đánh giá này là công việc có tính chất hệ thống và chính
thức trong quan hệ so sánh với các tiêu chuẩn đã được xây dựng, thảo luận và nhất
trí công khai. Trong tiêu chí đánh giá, doanh thu khai thác là điều quan trọng nhất.
Bên cạnh đó căn cứ đánh giá còn dựa trên số liệu về hiệu quả của các hợp đồng khai
thác, tỷ lệ khách hàng tái tục, tỷ lệ doanh thu khai thác mới trong tổng doanh thu, ý
thức tổ chức kỷ luật, sự đánh giá của đồng nghiệp và cán bộ phụ trách.
Việc quản lý kênh phân phối nhằm đảm bảo khai thác tối đa số lượng hợp

đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kênh phân phối
sản phẩm như thói quen, và tập quán tiêu dùng, sở thích mua, nhân khẩu học người
tiêu dùng, điều kiện kinh tế, môi trường pháp lý…Có khi kênh phân phối phục vụ
tại nhà chiếm ưu thế, nhưng lúc khác kênh phân phối qua đại lý lại được ưa chuộng
hơn. Hệ thống phân phối của doanh nghiệp bảo hiểm thể hiện ở số lượng các chi
nhánh và các đại lý. Việc triển khai các công nghệ hiện đại trong quản lý đang là
một phương thức rút ngắn khoảng cách về không gian nhưng vai trò của mạng lưới
đại lý rộng khắp vẫn rất có ý nghĩa, đặc biệt trong điều kiện hình thức phân phối
truyền thống vẫn còn phát triển. Hiệu quả của mạng lưới đại lý cũng là một chỉ tiêu
quan trọng. Có thể nói, quản lý nhân tố con người mà cụ thể là những đại lý, môi
giới bảo hiểm và các cá nhân trong vai trò người bán hàng là yếu tố sống còn trong
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là nhân tố không dễ gì bắt
chước được ngay, nó tạo nên nét riêng biệt cho hệ thống phân phối bảo hiểm và là
lợi thế cạnh tranh vượt trội cho doanh nghiệp trong ngành nghề bảo hiểm hiện nay.
Phương thức quản lý các kênh phân phối điển hình trong kinh doanh bảo hiểm:


22

Đối với kênh phân phối trực tiếp: Quản lý quy trình bán sản phẩm bảo hiểm
truyền thống qua các hình thức chào mời như quảng cáo dùng thư tín điện tử, ấn
phẩm, truyền thông điện tử, marketing qua điện thoại, fax, bán hàng qua internet…
đến người tiêu dùng.
Đối với kênh phân phối gián tiếp: Quản lý thông qua chào bán nhiều loại sản
phẩm bảo hiểm cùng lúc, hợp đồng bảo hiểm thường thông qua thỏa thuận và không
dùng hợp đồng mẫu có sẵn là việc bán hàng thông qua một hoặc nhiều bên trung
gian thứ ba như các công ty môi giới, đại lý bán buôn và đại lý bán lẻ.
Quản lý đối với đại lý bảo hiểm: Thiết kế vận hành quy trình cho tổ chức
hoặc cá nhân làm đại lý bảo hiểm được doanh nghiệp ủy quyền thực hiện các công
việc liên quan đến khai thác bảo hiểm, bán các sản phẩm bảo hiểm, ký kết hợp đồng

bảo hiểm, thu phí bảo hiểm cấp biên lai, chăm sóc khách hàng, thuyết phục khách
hàng tái tục hợp đòng bảo hiểm, các hoạt động khác trong khuôn khổ quyền hạn và
trách nhiệm của đại lý.
Các đại lý nằm trong hệ thống cơ cấu của doanh nghiệp bảo hiểm và chịu sự
điều tiết của hoạt động quản lý mạng lưới đại lý bảo hiểm như: tuyển dụng đại lý,
tập huấn đào tạo đại lý, lập và điều hành mô hình hệ thống tổ chức mạng lưới đại lý,
lập và thực thi kế hoạch đánh giá và kèm thưởng phạt với hoạt động của đại lý.
Quản lý đối với môi giới bảo hiểm: Hợp tác và sử dụng kênh phân phối này
thông qua những ưu thế về nghiệp vụ bảo hiểm mà nó cung cấp. Hiện nay có các
loại môi giới bảo hiểm gốc và môi giới tái bảo hiểm:
Quản lý việc đảm bảo môi giới bảo hiểm gốc cung cấp những thông tin chính
xác về doanh nghiệp bảo hiểm đến người tiêu dùng như tư vấn về quản lý rủi ro hiệu
quả nhất, thủ tục khiếu nại để có mức bồi thường thỏa đáng nhất, văn bản quy phạm
pháp luật mới nhất về bảo hiểm, hồ sơ những vụ bảo hiểm đã từng được bồi thường,
chuyển giao những ý tưởng về loại bảo hiểm phi nhân thọ mới trong tương lai.
Quản lý việc hợp tác với môi giới tái bảo hiểm nhằm có được sự hỗ trợ giúp
đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc làm việc với doanh nghiệp tái bảo hiểm trong
việc bảo hiểm cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Khi có số tiền bồi thường


×