Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 5 LÀM TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.51 MB, 42 trang )

Phßng gi¸o dôc ®µo t¹o giao thñy
Tr-êng tiÓu häc giao l¹c

BÁO CÁO SÁNG KIẾN

HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 5
LÀM TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ

Tác giả: ĐẶNG THỊ THỤC AN
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ: Giáo viên –Tổ trưởng Tổ 4&5
Nơi công tác: Trường Tiểu học Giao Lạc
Huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định

Nam Định, ngày 20 tháng 3 năm 2015

1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:

HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 5 LÀM

M

TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Giáo dục Tiểu học
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 05/ 09/ 2013 đến ngày 20/ 03 / 2015


4. Tác giả:
Họ và tên: Đặng Thị Thục An
Năm sinh: 1976
Nơi thường trú: Giao Lạc - Giao Thuỷ - Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm

Nơi làm việc: Trường Tiểu học Giao Lạc
Địa chỉ liên hệ: Giao Lạc - Giao Thuỷ - Nam Định
Điện thoại: 0913066729.
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Giao Lạc
Địa chỉ: Xã Giao Lạc- huyện Giao Thuỷ - tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503743033

2


I.ĐIỀU KIỆN
Tập làm văn là một phân môn trong chương trình Tiếng Việt của bậc Tiểu
học. Đây là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp. Việc dạy Tập
làm văn ở bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện cho
học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp
trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Nếu như các môn
học và phân môn khác của môn Tiếng Việt cung cấp cho các em một hệ thống
các kiến thức kĩ năng thì phân môn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể
hiện các kiến thức, rèn luyện các kĩ năng đó một cách linh hoạt thực tế và có hệ
thống hơn. Chính những văn bản nói, viết các em có được từ phân môn Tập
làm văn đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
mà các em đã được học ở phân môn Tập làm văn. Các kiểu bài miêu tả được

học nhiều nhất, nó giúp cho học sinh tái hiện lại cuộc sống con người, phong
cảnh thiên nhiên hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc. Nó giúp các em có
tâm hồn văn học, có tình yêu quê hương đất nước và cuộc sống con người.
1. Xuất phát từ tính chất của môn tập làm văn
- Tập làm văn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học khác nhau trong môn
Tiếng Việt như Tập đọc, Chính tả,
từ và câu… nhằm giúp cho học sinh
có một năng lực mới; sản sinh ngôn bản (bằng hình thức nói hoặc viết). Nhờ
năng lực này, học sinh biết cách sử dụng Tiếng Việt làm công cụ tư duy, giao
tiếp, học tập.
- Tập làm văn có tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Tập làm
văn mang tính chất thực hành vì nhiệm vụ chủ yếu của nó là hình thành cho học
sinh kĩ năng nói và viết văn bản. Mang tính toàn diện tổng hợp vì Tập làm văn
được xây dựng trên thành tựu của nhiều môn khoa học, trong đó nổi bật là lý
thuyết hoạt động lời nói, các hiểu biết về ngữ pháp văn bản, lôgic hoặc lý luận
văn học…; vì Tập làm văn đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều mặt
từ các hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức…;
vì Tập làm văn đòi hỏi học sinh không chỉ vận dụng các hiểu biết lý luận mà
còn cả cảm xúc, tình cảm… khi làm bài; vì Tập làm văn sử dụng nhiều loại kĩ
năng từ kĩ năng dùng từ đặt câu đến kĩ năng dựng đoạn. Các kĩ năng này là do
nhiều phân môn của môn Tiếng Việt rèn luyện.
- Bài tập làm văn còn là sản phẩm không lặp lại của mỗi học sinh trước những
đề tài cụ thể. Điều đó giải thích cho tính sáng tạo của Tập làm văn.
3


- Tập làm văn giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài và có ý thức,
học sinh dần dần nắm được cách viết và cách nói các bài văn theo nhiều phong
cách khác nhau.
- Tập làm văn góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân

cách cho học sinh.
2. Xuất phát từ vai trò, vị trí của dạy học văn miêu tả trong phân môn Tập làm
văn ở Tiểu học
- Trong môn Tiếng Việt có rất nhiều phân môn như: Luyện từ và câu, Tập đọc,
Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện. Trong đó Tập làm văn là môn học có tính
chất tổng hợp kiến thức cơ sở liên quan đến nhiều ngành khoa học. Môn Tập
làm văn giúp học sinh ý thức được một câu văn khi chuyển đến người đọc hay
người nghe đều chứa đựng nội dung ý nghĩa hoặc thông tin cần thiết. Tập làm
văn có nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn bản
nói và viết. Không học tốt Tập làm văn, khả năng nói và viết ngôn bản của học
sinh sẽ bị hạn chế. Phần Tập làm văn trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học
được xây dựng gồm 2 mạch: Mạch dạy tập làm văn nói và mạch dạy dạy tập
làm văn viết.
- Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan
trọng và xuyên suốt. Ở lớp 4, văn miêu tả được dạy 30 tiết với 3 kiểu bài: Tả đồ
vật, tả cây cối, tả con vật. Chương trình Tập làm văn lớp 5 tiếp tục dạy về văn
miêu tả với hai kiểu bài: Tả cảnh – 14 tiết, tả người – 12 tiết. Mục đích của việc
dạy văn miêu tả ở Tiểu học giúp học sinh có thói quen quan sát, biết phát hiện
những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh; biết truyền những rung cảm
của mình vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm,
những câu văn sáng rõ về nội dung, chân thực về tình cảm. Một bài văn hay là
một bài văn mà khi đọc, người đọc thấy hiện ra trước mắt mình: con người,
cảnh vật, đồ vật,… cụ thể, sống động như nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc
sống. Như vậy, có thể xem văn miêu tả là một bức tranh về sự vật bằng ngôn từ.
Và để làm tốt một bài văn miêu tả, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức
tổng hợp của các môn học. Kiến thức của các môn học này cộng với vốn sống
thực tế sẽ giúp học sinh trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc và sống
động. Qua đó, bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hướng, đất nước, vốn sống,
vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài để nghiên

cứu “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 làm tốt bài văn miêu tả”.
4


II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1 Đặc điểm tình hình dạy học tập làm văn ở
1.1.1 Thuận lợi
- Văn miêu tả lớp 5 là sự nối tiếp của thể loại văn miêu tả học sinh đã được
làm quen ở lớp 4. Nếu giáo viên lớp 4 dạy chắc và kĩ phần này thì giáo viên lớp
5 sẽ có nhiều thuận lợi trong dạy học văn miêu tả.
- Học sinh lớp 5 là học sinh lớn nhất bậc Tiểu học nên nhận thức cũng tốt hơn,
có khả năng tưởng tượng phong phú hơn, biết nhìn nhận và thu tóm những hình
ảnh và ghi nhớ có hệ thống hơn so với các em học sinh lớp dưới. Đa số các em
đã biết sử dụng từ để đặt câu, viết như thế nào cho trọn vẹn ý, các em lĩnh hội
nhanh và biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào bài văn của mình.
- Giáo viên của trường được học bồi dưỡng thường xuyên đầy đủ về phân
môn Tập làm văn, được tham dự đủ các tiết chuyên đề của khối, trường,
được tham dự các giờ thao giảng của đồng nghiệp để học hỏi rút kinh
nghiệm cho bản thân.
1.1.2 Khó khăn
hình thành tâm lí chung là ngại học Tập làm văn, coi Tập làm văn là lĩnh vực
không thể nào chiếm lĩnh được. Có chăng, chỉ một số ít các bạn là có may mắn
học giỏi môn này mà thôi.
- Từ phía cha mẹ học sinh: Một nét tâm lí khá phổ biến của cha mẹ học sinh là
muốn con giỏi toán và các môn tự nhiên, rất ít cha mẹ muốn con học Tập làm
văn nếu không có yêu cầu của giáo viên. Chính vì vậy cha mẹ thường ít chú ý
đến văn hóa đọc của con, ít quan tâm đến việc bồi dưỡng, hình thành kĩ năng
quan sát, phát hiện cái hay, cái mới, cái riêng của sự vật trong quan sát, khi cần
làm văn thì lại cho con chép văn mẫu, hoặc thay vì hướng dẫn con thì lại làm

bài hộ con để đối phó.
1. 2. Thực trạng dạy học tập làm văn miêu tả ở trường Tiểu học – tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân.
Trên thực tế, việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và dạy học thể
loại văn miêu tả nói riêng ở nhà trường Tiểu học hiện nay còn rất nhiều bất cập.
1.2.1. Về phía giáo viên:
Đây quả là một phân môn khó, đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn làm sao để
học sinh tổng hợp được kiến thức, thể hiện được rung cảm cá nhân, sáng tạo
5


được một văn bản của riêng mình trong đó tiếng mẹ đẻ được thể hiện một cách
trong sáng. Trong quá trình giảng dạy, thường xuất hiện hai thái cực:
+ Hoặc hướng dẫn chung chung để học sinh tự mày mò.
+ Hoặc đưa ra “văn mẫu” để học sinh cứ việc sao chép.
Cả hai cách trên đều làm cho học sinh không biết làm văn, ngại học văn,
mặc dù vẫn có tình yêu với văn học (ví dụ như rất nhiều em vẫn thích đọc
truyện, khi đọc một câu truyện hay vẫn biết cách thể hiện sự rung cảm thích
thú…). Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, một phần là do trình độ nhận thức,
năng lực sư phạm của giáo viên; cũng có thể chính ngay bản thân giáo viên
cũng thiếu những kiến thức khoa học, vốn sống thực tế. Vấn đề này cho thấy,
nhiều giáo viên chưa đánh giá đúng mức vị trí của môn Tiếng Việt trong trường
Tiểu học. Giáo viên cần hiểu rõ rằng phân môn Tập làm văn là môn thực hành
tổng hợp, là kết quả của các môn học, đồng thời cũng là tiền đề để học tốt các
môn học khác. Bởi lẽ, bất cứ môn học nào cũng cần biết quan sát, nhận xét,
diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, sáng sủa.
1.2.2. Về phía học sinh:
-B

-


-

6


VD: Trong bài kiểm tra đầu năm học 2014 – 2015 của học sinh lớp 5A, với đề
bài Tả một cây có bóng mát, một số em đã có những câu văn:
“ Thân cây to, màu nâu sẫm. Trên thân cây có những vết sần sùi dài, rất đẹp”
(Bài làm của HS
). “Cách gốc đa khoảng vài xăng – ti – mét có
những chiếc rễ cây khổng lồ như những con rắn bò ngoằn ngoèo trên mặt đất”
(Bài làm của HS Đinh Công Dũng). “ Cây phượng cao đến tầng hai lớp em
học. Lá cây xanh non nớt to bằng bàn tay em”. (Bài làm của HS
).
“Lá cây phượng màu xanh nhưng đến mùa hè chúng lại biến thành màu đỏ
chót.” (Bài làm của HS
). “
,
tay cái của em.” (Bài làm của HS Đinh Văn Dương). “
.” (Bài làm của HS
). “Cây phượng
cao khoảng 10m. Cây phượng nặng chừng 1 tấn. Lá phượng to hơn bàn tay em
một tí. Mùa hè hoa phượng màu đỏ nhạt. Mùa thu hoa phượng màu đỏ đậm. …
Mùa hè phượng cố nhô lên ra vẻ hùng vĩ”. (Bài làm của HS
). “Hoa bàng màu trắng nhỏ li ti hình ngôi sao hương thơm bát ngát” (Bài
làm của HS
). “Lá cây phượng vĩ rơi khắp sân trường làm
cả một góc sân… Hoa phượng đỏ có mùi thơm nồng nàn khiến cho
sân trường rất thơm.” (Bài làm của HS

). Những câu văn này
cho thấy học sinh thiếu vốn sống thực tế, chưa quan sát kĩ đặc điểm thân, gốc,
hoa, lá của cây bàng, cây phượng.
Cũng vì thiếu vốn sống, ít quan sát hoặc quan sát không có sự hướng dẫn của
người lớn nên rất nhiều em tả lá bàng vào mùa thu như sau: “ Lá bà
có màu xanh còn đến mùa thu thì chuyển sang màu vàng. Vào mùa thu, lá
bàng rụng. Cây chỉ còn những cành trụi lá…” (Bài làm của HS
). Nếu quan sát kĩ các em sẽ nhận thấy lá bàng có điểm rất đặc biệt khác
với nhiều loại cây khác, đó là vào mùa thu, nó chuyển dần sang màu vàng gạch
rồi màu đỏ sẫm như những tấm thiệp báo tin mùa đông sắp tới.
+ Cũng từ lỗi quan sát chưa kĩ, thiếu kiến thức thực tế sẽ dẫn đến lỗi nhiều em
diễn đạt thiếu cảm xúc, bài văn khó truyền cảm cho người đọc, khi sử dụng các
hình ảnh so sánh, nhân hóa sẽ thiếu chính xác hoặc không thể viết được một
hình ảnh so sánh nhân hóa nào trong bài viết của mình.
Ví dụ: Khi tả cây bàng, có em đã viết: “Nhìn từ xa cây như một cái ô khổng lồ,
lại gần thì thấy thân cây sần sùi cho thấy tuổi trẻ đã qua tuổi già đã đến” (Bài
làm của HS
)
7


+ Việc học tập trên lớp, vì thiếu tập trung và chưa có phương pháp học nên
cũng có những hạn chế nhất định. Có học sinh khi đọc đề bài lên, không biết
mình cần viết những gì và viết như thế nào, viết cái gì trước, viết cái gì sau…
dẫn đến bài làm lộn xộn, không mạch lạc, khúc triết.
+ Hiện nay trên các cửa hàng sách có bày bán rất nhiều sách tham khảo, văn
mẫu từ nhiều luồng khác nhau nên đã tạo điều kiện cho học sinh chép văn mẫu.
Tuy nhiên lỗi không phải ở các bài “văn mẫu” mà là ở chỗ sử dụng các bài văn
mẫu đó như thế nào. Nếu thay vì cho các em chép lại nguyên văn các bài văn
mẫu, giáo viên và cha mẹ học sinh biết tận dụng các bài văn tham khảo đó để

phân tích những hình ảnh hay, hình ảnh đẹp, sử dụng nó như những tư liệu
tham khảo về thế giới tự nhiên và xã hội, giúp các em học cách viết văn (bố cục,
viết câu, sử dụng từ ngữ…) thì sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu
quả viết văn của học sinh.
+ Ngoài ra, có thể kể đến các nguyên nhân khác, như sự hấp dẫn của các trò
chơi hiện đại. Ngoài giờ học, các em thường bị thu hút vào các trò chơi GAME
hoặc các trang WEB hấp dẫn khác trên mạng Internet mà quên đi rằng thế giới
thiên nhiên xung quanh các em thực sự hấp dẫn. Trẻ em ngày nay đang dần lãng
quên một thế giới thơ mộng ở xung quanh, cái thế giới mà không phải chỉ nhà
văn Tô Hoài mới có. Đó là thế giới của ruộng đồng, cây cỏ, côn trùng, của mưa,
của gió… Đây là thế giới có khả năng làm phong phú tâm hồn tuổi thơ và rèn
luyện óc quan sát, nhận xét của các em.
+ Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ. Phần lớn học
sinh Tiểu học ít quan tâm đến việc đọc và nếu có đọc thì thường là đọc truyện
tranh, thậm chí có những truyện tranh không mang tính giáo dục. Điều này đã
tạo ra một lỗ hổng lớn trong việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp từ các tác
phẩm văn học, khiến cho việc cảm nhận các tác phẩm văn học bị hạn chế dẫn
đến các em khó thể hiện cảm xúc trước những sự vật xung quanh.
+ Việc trò chuyện, tiếp xúc với bố mẹ, với những người thân trong gia đình,
cộng đồng cũng rất hạn chế bởi những lí do: người lớn thì bận công việc còn
các em thì đến trường cả ngày cho nên vốn liếng về cuộc sống, về văn học của
học sinh Tiểu học rất hạn chế. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến việc
học Tập làm văn của học sinh.
Tuy nhiên, theo cá nhân tôi, trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân chủ
quan – việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học còn bất cập vẫn là

8


nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng học tập phân môn này chưa cao

y
cần phải có một số biện pháp khắc phục.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Lí thuyết về văn miêu tả được trình bày đầy đủ trong SGK. Phương pháp để
làm một bài văn miêu tả cũng được trình bày đầy đủ để giáo viên có thể hướng
dẫn học sinh trong chương trình học. Dưới đây là một số biện pháp mà tôi đã
mạnh dạn áp dụng trong dạy học để có thể nâng cao hiệu quả của dạy học Tập
làm văn nói chung và dạy văn miêu tả nói riêng:
2.1. Tích lũy kiến thức
2.1.1. Kiến thức từ các tác phẩm văn học
- Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu văn học bằng thói quen đọc sách và đọc có
chọn lọc. Ngay từ đầu năm học, tôi đã cùng với Ban phụ huynh học sinh xây
dựng ở lớp một tủ sách đọc chung. Các em trong lớp sẽ mang đóng góp vào tủ
sách này các tác phẩm văn học hay. Sau đó, trong các tiết
Thư viện hoặc
hướng dẫn học, tôi sẽ lựa chọn một tác phẩm, một đoạn trích để cùng các em
phân tích cái hay, cái đẹp của việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả.

9


.
Sau đó, tôi đã lựa chọn một số đoạn viết có tác dụng bồi dưỡng cách sử dụng
từ của học sinh trong văn miêu tả:
+ Kiến thức về các hiện tượng tự nhiên được miêu tả sinh động, cụ thể, có thể
cảm nhận được trực tiếp
Có thể kể ra đây hàng loạt các tác phẩm văn học rất thành công như bài
“Mưa” của Trần Đăng Khoa:
Sấm
Nhảy múa

Đất trời
Ghé xuống sân
Mưa
Mù trắng nước
Khanh khách
Mưa
Mưa chéo mặt sân
Cười
Ù ù như xay lúa
Sủi bọt
Cây dừa
Lộp bộp
Cóc nhảy chồm chồm
Sải tay bơi
Lộp bộp
Chó sủa
Ngọn mùng tơi
Rơi
Cây lá hả hê….
Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được ở đó một âm điệu lạ, dồn dập, gấp gáp
như tiết tấu một trận mưa rào mùa hạ; hay khi miêu tả trời hạn hán, Nam Cao đã
phác họa những hậu quả vô cùng thảm khốc của mặt trời đối với vạn vật “lá cây
mềm rũ, cá úi lên trên mặt nước, đất dộp lên, nứt toang, rắn câng…”; hay trong
bài “Giữ đê” của Ma Văn Kháng, điệp từ mưa xuất hiện trong ba câu văn ngắn
gọn cùng với một loạt từ ngữ gợi tả rả rích đêm ngày, tối tăm mặt mũi, thối đất

10


thối cát đã vẽ ra trước mắt người đọc những trận mưa không dứt. Và dường như

chưa hài lòng, tác giả còn diễn tả thêm cái dữ dội của thời tiết Tưởng như có
bao nhiêu nước, trời hút lên rồi đổ hết xuống đất liền…
+ Kiến thức về mối quan hệ giữa con người với con người
Tác phẩm văn học là bức tranh sinh động về đời sống con người. Nó miêu tả
được hình ảnh của con người, cho ta thấy cách sinh hoạt, cách giao tiếp, những
suy nghĩ và cả những cảm giác vui buồn… Nhà văn Ngô Tất Tố đã phác họa
một phiên chợ trung du như một bức tranh mà mọi màu sắc, âm thanh, hoạt
động được diễn tả hết sức sống động: Vai kĩu kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn
thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chíp chíp, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói léo
xéo. Thỉnh thoảng lại điểm những tiếng ăng ẳng của con chó bị lôi sau sợi xích
sắt, mặt buồn rầu, sợ sệt… màu nâu, màu chàm, màu ka – ki, các thứ quần áo
trà trộn dưới bóng cây… Nhưng luồng phát âm của hàng nghìn cái miệng cũng
đủ làm cho khu rừng ầm ầm… Hay khi đọc bài “Tình quê hương” của Nguyễn
Khải, người đọc cảm nhận được tâm trạng của người lính sau những ngày ăn tết
ở quê hương trở về đơn vị. Những từ ngữ như đăm đắm, quyến rũ, nhớ thương,
mãnh liệt, day dứt đã diễn tả được niềm nhớ thương quê hương da diết. Kỉ
niệm cứ tuôn chảy trong hồi ức, trong những câu văn âm vang giai điệu thiết
tha, trìu mến…
+ Kiến thức về ngôn ngữ:
Đọc các tác phẩm văn học người đọc sẽ tìm thấy ở đó nhiều khía cạnh của
cuộc sống, dẫn đến sự đa dạng, phong phú trong cách sử dụng ngôn từ, cách
giao tiếp. Ngôn ngữ giao tiếp cứ vì thế mà tự nhiên ăn sâu vào tiềm thức của
người đọc, nó như cái vốn để người đọc huy động khi cần thiết.
Để học sinh nắm bắt được những kiến thức phong phú từ các tác phẩm văn
học, vai trò của người thầy hết sức quan trọng: Giúp học sinh tiếp cận với
những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học. Tìm hiểu được
ngôn ngữ nghệ thuật qua sự chuyển hóa các lớp nghĩa tinh tế. Học sinh cảm
nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ, vẻ đẹp của hình ảnh, có được những hiểu biết
về con người cũng như cuộc sống xung quanh các em. Từ đó, học sinh chuyển
kiến thức đã tiếp nhận thành năng lực sử dụng tiếng Việt. Kiến thức Tiếng Việt

chỉ thực sự có ích với học sinh khi nó được vận dụng vào thực tế tiếp nhận và
tạo lập văn bản.
Ví dụ: Tôi đã cho học sinh tìm hiểu đoạn văn hay viết về cây bàng, đọc và
phát hiện cái hay trong sử dụng ngôn ngữ. Trước khi cho các em tìm hiểu đoạn
11


văn, tôi yêu cầu các em nêu lên những đặc điểm về cây bàng mà em biết, dùng
từ ngữ để diễn tả các đặc điểm đó. Sau đó tôi đọc cho các em nghe đoạn văn,
phân tích để các em thấy cũng vẫn những đặc điểm đó nhưng tác giả đã sử dụng
những từ ngữ độc đáo để mang lại cảm xúc và sự hình dung dễ hơn cho người
đọc:
Bàng thay lá
Chỉ vài hôm, lộc non đã tràn đầy trên bàn tay mùa đông của cây bàng. Dáng
mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đã thả ngàn
vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời, xanh biếc, chi chít đầy cành và xoay thành
những tán tròn quanh thân cây. Lá non lớn nhanh, đứng thẳng và cao chừng
gang tay, cuộn tròn như những chiếc tai nhỏ. Khi những tai nhỏ xòe ra thành
vài ba chiếc lá nhỏ, cây bàng nảy thêm một lứa lộc lần thứ hai màu đỏ đọt giữa
những chùm lá, tán bàng bây giờ là một màu áo lục non lỗ đỗ những vệt hoa
hồng thắm. Chỉ trong vòng mươi hôm từ khi nảy lộc, nhìn lại thấy lá đã già trên
thân cây đầy những hốc bướu cổ quái, tưởng vẫn y như thế từ trăm năm. Ai ngờ
trên thân thể đại lão của nó là một linh hồn rất trẻ, bởi không còn một chiếc lá
nào năm ngoái còn sót lại trên cây.
Hay như khi học sinh học bài văn tả cảnh sông nước, tôi gợi ý để các em tìm
thấy cái hay, cái đẹp trong sử dụng từ của đoạn văn:
Cảnh đẹp Quảng Bình
Từ Đèo Ngang nhìn về hướng nam, ta bắt gặp một khung cảnh thiên nhiên kì
vĩ: phía tây là dãy Trường Sơn trùng điệp, phía đông nhìn ra biển cả, ở giữa là
một vùng đồng bằng xanh biếc màu diệp lục. Sông Ròn, sông Gianh, sông Nhật

Lệ, những con sông như những dải lụa vắt ngang giữa thảm lúa vàng rồi đổ ra
biển cả.
Bờ biển Quảng Bình có nhiều bãi tắm đẹp. Ngoạn mục nhất có lẽ là bãi tắm
Đá Nhảy nằm ngang chân đèo Lí Hòa, điểm giao hòa giữa núi và biển. Từ trên
đèo nhìn xuống, ta có cảm tưởng như núi mẹ, núi con đang dắt nhau ra tắm
biển. Còn biển thì suốt ngày tung bọt trắng xóa kì cọ hàng trăm mỏm đá nhấp
nhô thấp thoáng dưới rừng thùy dương, bãi cát vàng chạy dài hàng trăm cây số.
(Theo Văn Nhĩ)
Hay như khi học sinh học về thể loại văn Tả người, tôi đã yêu cầu các em tìm
một số từ ngữ, chi tiết để miêu tả một cụ già. Các em cần phân tích với các từ
ngữ tìm được như vậy thì người đọc sẽ hình dung cụ già mà em định tả là người
như thế nào? có những đức tính gì?. Sau đó tôi cho các em tìm hiểu đoạn văn tả
12


một cụ già, tìm những từ ngữ hay có trong đoạn, phân tích để học sinh thấy rõ
với các từ ngữ đó, hình ảnh cụ già đã hiện lên như thế nào.
“…Một ông già, miệng ngậm tẩu thuốc lá, mắt nheo nheo vì khói bước ra.
Mặt ông phương phi, hồng hào, trán vuông, tóc bạc trắng xõa xuống vai. Đó là
ông Giàng Phủ…”
Đọc đoạn trich ta thấy hình ảnh của một cụ già người dân tộc khỏe mạnh
(hồng hào), phúc hậu (phương phi), có những nét rất riêng không lẫn với ai
khác (miệng ngậm tẩu, trán vuông, tóc bạc trắng xõa xuống vai).
2.1.2. Kiến thức từ các môn học khác
Các môn học khác cũng là nguồn cung cấp vốn sống cũng như vốn từ khá
phong phú.
- Môn Khoa học, TN – XH cung cấp những kiến thức về cuộc sống xung quanh,
giúp các em tìm hiểu về những hiện tượng thiên nhiên như nắng, gió, mây,
mưa,… những con suối, dòng sông, những cánh rừng, ngọn núi, những con vật,
đồ vật thân thiết, gần gũi với các em. Vì vậy trong quá trình dạy học, giáo viên

cần phát hiện các bài học có nội dung như vậy để tích hợp dạy cho học sinh vốn
từ và cách diễn đạt.
- Môn Mĩ thuật: Những bức vẽ về đề tài thiên nhiên, sinh hoạt của con người;
những bức vẽ về người và vật trong môn Mĩ thuật cũng giúp học sinh rèn luyện
kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú, sự cảm nhận tinh tế về màu sắc.
- Môn Tập đọc: Đây là môn học giúp các em làm quen với một số tác phẩm hay
của các nhà văn, nhà thơ. Nếu giáo viên biết khai thác tốt nội dung, kết hợp với
phân tích nghệ thuật, từ ngữ thì cũng trợ giúp khá đắc lực cho việc làm giàu vốn
từ và cáh diễn đạt của học sinh. Sau nhiều năm dạy lớp Năm, bản thân tôi thấy
có thể khai thác nội dung của một số bài tập đọc phục vụ cho làm văn miêu tả ở
lớp Năm:
+ Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa (Tiếng Việt 5 – Tập 1): Đây là bài tập
đọc nằm ở tuần học thứ nhất khi các em bắt đầu làm quen với thể loại văn tả
cảnh. Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của các từ chỉ màu vàng có
trong bài, khai thác nội dung để phát hiện được cái tài của nhà văn Tô Hoài khi
sử dụng từ đồng nghĩa. Ví như từ vàng xuộm dùng để chỉ màu vàng đậm trên
diện tích rộng nên tác giả dùng để tả màu vàng của cánh đồng lúa chín, hay như
chùm quả xoan chín thì lại là vàng lịm – màu vàng gợi sự ngọt ngào của quả
chín… Qua đó để các em rút ra nhận xét Văn miêu tả đòi hỏi người viết phải

13


có khả năng quan sát để nắm bắt được những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc của
cảnh vật.
+ Đoạn trích Hoàng hôn trên sông Hương (trang 11 Tiếng Việt 5 – tập 1).
Đây có thể gọi là một bức tranh lụa hấp dẫn. Tất cả đều mềm mại, nhẹ nhàng,
thanh thoát. Dòng sông Hương thật hiền hòa và nên thơ tạo nên cái tĩnh lặng vô
cùng của xứ Huế. Hình như ở xứ ấy, từ con người, cây cầu, chiếc thuyền, sợi
khói cơm chiều và ngay cả những ngọn đèn cũng cố níu giữ lấy cái dịu dàng,

thơ mộng, tĩnh mịch của nơi cố đô cổ kính. Giáo viên cần phân tích để học sinh
thấy đây là bài tả cảnh, nhưng tác giả lựa chọn tả cảnh sông Hương để làm toát
lên cái vẻ nhẹ nhàng, mềm mại, tĩnh lặng của nó, vì vậy tác giả đã chọn trình tự
tả ở đây là trình tự thời gian. Dòng sông, cảnh vật thay đổi theo thời gian.
Nhưng dù ở thời điểm nào thì cách miêu tả của tác giả cũng làm cho người đọc
thấy sông Hương thật dịu dàng, thơ mộng.
+ Bài Kì diệu rừng xanh (trang 75 – Tiếng Việt 5 – Tập 1): Đây là bài văn tả
cảnh có một số hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo, thú vị: “Mỗi chiếc nấm là
một lâu đài kiến trúc tân kì. Tôi có cảm giác mình là một người khổng lồ đi lạc
vào kinh đô của vương quốc những người tí hon. Đền đài, miếu mạo, cung điện
của họ lúp xúp dưới chân…” “… Rừng khộp hiện ra trước mắt chúng tôi, lá úa
vàng như cảnh mùa thu. Tôi dụi mắt. Những sắc vàng động đậy. Mấy con mang
vàng hệt như màu lá khộp đang ăn cỏ non. Những chiếc chân vàng giẫm trên
thảm lá vàng và sắc nắng cũng rực vàng trên lưng nó. Chỉ có mấy vạt cỏ xanh
biếc là rực lên giữa cái giang sơn vàng rợi…” . Đoạn văn làm người đọc liên
tưởng đến hai câu thơ của nhà thơ Lưu Trọng Lư “Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp
trên lá vàng khô” – một hình ảnh thật đẹp, thật lãng mạn. Qua phân tích nội
dung bài đọc, giáo viên cần giúp học sinh nhận thấy trong văn miêu tả nếu biết
sử dụng biện pháp liên tưởng, tưởng tượng hợp lý thì sẽ đem đến cho người đọc
nhiều cảm giác bất ngờ, thú vị.
+ Bài Đất Cà Mau (trang 89 – Tiếng Việt 5 – Tập 1): Đây là bài văn tả cảnh
đặc trưng của đất Cà Mau. Vào mùa mưa, để diễn tả cái đột ngột đến và đi của
những cơn mưa, tác giả đã sử dụng những câu văn ngắn: Đang nắng đó, mưa đổ
ngay xuống đó. Mưa hối hả, không kịp chạy vào nhà. Mưa rất phũ, một hồi rồi
tạnh hẳn… Tác giả cũng lựa chọn cảnh thiên nhiên rất đặc trưng của đất Cà
Mau là những rừng cây nước mặn, kênh rạch chằng chịt và những cây cầu bắc
từ nhà nọ sang nhà kia để miêu tả… Qua phân tích, giáo viên phải lồng ghép để

14



học sinh nhận thấy khi miêu tả cần lực chọn những chi tiết đặc trưng của
cảnh vật để tả.
Như vậy có thể thấy mối quan hệ rất gắn bó giữa môn tập đọc với môn Tập
làm văn. Vì vậy kinh nghiệm quý báu mà bản thân tôi rút ra là phải nắm chắc
chương trình và nội dung của bài đọc để khai thác một cách tối đa, hợp lý các
nội dung này. Nếu thấy bài văn nào có cách sử dụng từ, miêu tả độc đáo cần
phân tích kĩ hơn để học sinh học tập, áp dụng vào viết văn.
2.1.3. Kiến thức từ vốn sống thực tế
- Cuộc sống xung quanh các em thật phong phú. Thiên nhiên cũng là một
trường học lớn. Mỗi khi có điều kiện, giáo viên hãy tạo cho các em cơ hội được
hòa mình vào thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá…

Giáo viên gợi ý, đưa ra những tình huống để kích thích sự tưởng tượng, làm
sống dậy những vốn kiến thức có sẵn trong mỗi học sinh; bằng những câu hỏi
như Mặt trời buổi sáng có gì khác với mặt trời khi sắp lặn? Hàng cây sẽ như
thế nào khi không có gió? Khi có gió to? Chú gà trống trưởng thành và chú gà
trống choai tiếng gáy có giống nhau không? Tìm những từ ngữ miêu tả tiếng
nước chảy? Đặt câu với những từ tìm được? (cũng là tiếng nước chảy nhưng
khi thì ồ ồ, khi thì ầm ầm, khi thì róc rách…). Giáo viên cũng có thể tổ chức các
cuộc thi tìm hiểu và đọc thuộc những câu hát ru, những câu thành ngữ, tục ngữ

15


trong giao tiếp hàng ngày… qua đó phân tích để các em thấy được cái hay của
ông cha ta trong việc dùng từ trong các bài ca dao, các câu tục ngữ.
Ví dụ như câu ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau,/ Ngó về quê mẹ ruột
đau chín chiều”. Tại sao trong câu ca dao này không sử dụng từ Ngày ngày mà
lại dùng từ chiều chiều? Phải chăng từ chiều chiều thường gợi cho người ta cảm

giác buồn man mác, gợi nỗi nhớ quê nhà, nhớ mẹ già tần tảo sớm hôm.
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm cũng có thể hướng dẫn cha mẹ học sinh
để nhận được sự hỗ trợ thêm của cha mẹ các em trong việc bồi dưỡng vốn từ và
tình cảm với văn học. Giáo viên cần từ vấn để cha mẹ các em nhận thấy rằng
những bản nhạc hay, những câu chuyện hấp dẫn, những chuỗi sự việc cứ ngày
tiếp ngày diễn ra,… sẽ là những tri thức rất quý báu giúp các em rèn luyện khả
năng giao tiếp, khả năng sử dụng ngôn từ và khả năng tạo lập văn bản. Từ đó
chính cha mẹ sẽ là người định hướng cho các em những phương tiện giải trí phù
hợp vào những lúc rảnh rỗi.
Tóm lại, việc bồi dưỡng và tích lũy kiến thức là một quá trình lâu dài, đòi
hỏi các thầy cô giáo, các bậc làm cha làm mẹ định hướng cho các em, tạo cho
các em cơ hội được hòa nhập với thế giới thiên nhiên và những mối quan hệ
xung quanh các em. Mỗi ngày một ít, mỗi lúc một ít, mỗi nơi một ít sẽ làm giàu
thêm vốn sống, vốn liếng văn học cho các em.
2. 2. Hướng dẫn học sinh cách quan sát và ghi chép
Bản thân tôi luôn nhận thức được quan sát và biết ghi chép lại những gì đã
quan sát được một cách có chọn lựa là một yếu tố rất quan trọng trong học
phân môn Tập làm văn. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã rất chú trọng việc
hướng dẫn học sinh quan sát và ghi chép.
2. 2.1. Hướng dẫn học sinh quan sát
- Trong văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Việc chọn vị trí quan sát tốt, góc
quan sát phù hợp (xa hay gần, trong hay ngoài, ban ngày hay ban đêm, mùa
xuân hay mùa hạ…), việc quan sát tỉ mỉ, kĩ lưỡng sẽ giúp ta nắm được cái thần
của đối tượng được miêu tả, cảm nhận đối tượng một cách rõ ràng, cụ thể và
tinh tế hơn.
Ví dụ: Có thể thấy qua quan sát của Tô Hoài mà chú gà chọi hiện lên với
những nét rất độc đáo. Từ “đôi chân cứng lẳn như hai thanh sắt phủ đầy những
vẩy lớn sắp vàng” đến bộ mặt “tím lịm, lùi xùi những mào, những tai và những
mấy cái ria mép”. Nổi bật lên trên tất cả là màu của da “đỏ gay, đỏ gắt, đỏ tía,


16


đỏ bóng”. Rõ ràng đây là một chú gà không giống bất cứ một chú gà nào khác.
Tô Hoài đã tìm được những nét chính, nét riêng của chú gà chọi.
Hay như trong bài Cây đa quê hương của Nguyễn Khắc Viện, dưới con mắt
của trẻ thơ, chúng lại phát hiện ra “đó là cả một tòa cổ kính”; rễ cây với
“những hình thù quái lạ” được so sánh “như những con hổ mang giận dữ”.
Còn vòm lá và ngọn gió chiều qua con mắt trẻ thơ lại gợi ra “những điệu nhạc
li kì tưởng chừng như ai đang cười đang nói”.
Vì vậy giáo viên cần khắc sâu để học sinh nắm rõ càng quan sát kĩ đối tượng
thì càng miêu tả được sinh động, sắc nét, lựa chọn được những nét tiêu biểu của
đối tượng khiến cho nó khác với các đối tượng khác cùng loại.
- Quan sát đối tượng không chỉ bằng thị giác như các em vẫn nghĩ, mà phải biết
huy động mọi giác quan: thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ,
nắm), vị giác (nếm). Khi làm văn miêu tả, chúng ta vẫn sử dụng thị giác là chủ
yếu. Nhưng những đoạn văn hay và hấp dẫn là những đoạn văn mà tác giả đã
thành công trong việc dùng nhiều giác quan để quan sát.
Ví dụ: Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu đoạn văn sau trong giờ hướng dẫn
học để nhằm làm tăng khả năng quan sát trong làm văn Tả cảnh:
Buổi sáng mùa hè trong thung lũng
Rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm. Trong bầu không khí đầy hơi ẩm và
lành lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiếc chăn đơn. Bỗng một
con gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp
đó, rải rác khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi
cũng thức dậy gáy te te.
Trên mấy cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả. Ngoài suối, tiếng chim
cuốc vọng vào đều đều… Bản làng đã thức giấc. Đó đây, ánh lửa hồng bập
bùng trên các bếp. Ngoài bờ ruộng đã có bước chân người đi, tiếng nói chuyện
rì rầm, tiếng gọi nhau í ới.

Tảng sảng, vòm trời cao xanh mênh mông. Gió từ trên đỉnh núi tràn xuống
thung lũng mát rượi. Khoảng trời sau dãy núi phía đông ửng đỏ. Những tia
nắng đầu tiên hắt chéo qua thung lũng, trải lên đỉnh núi phía tây những vệt
sáng màu lá mạ tươi tắn…. Ven rừng, rải rác những cây lim đã trổ hoa vàng,
những cây vải thiều đã đỏ ối những quả…
Nắng vàng lan nhanh xuống chân núi rồi rải vội lên đồng lúa. Bà con xã
viên đã đổ ra đồng cấy mùa, gặt chiêm. Trên những ruộng lúa chín vàng, bóng
áo chàm và nón trắng nhấp nhô, tiếng nói, tiếng cười nhộn nhịp, vui vẻ.
17


Mặt trời nhô dần lên cao. Ánh nắng mỗi lúc một gay gắt. Dọc theo những con
đường mới đắp, vượt qua một chiếc cầu gỗ bắc qua con suối, từng tốp nam nữ
thanh niên thoăn thoắt gánh lúa về sân phơi. Tiếng cười giòn tan vọng vào vách
đá.
(Hoàng Hữu Bội)
Phân tích: Tác giả đã sử dụng nhiều giác quan để quan sát một buổi sáng mùa
hè ở vùng cao. Đó là thị giác, thính giác và xúc giác. Buổi sáng được mở đầu
bằng thời gian lúc “rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm”. Sự chuyển động
của thời gian được diễn tả bằng những âm thanh từ đơn lẻ , từ xa vọng lại đến
rộn ràng lan rộng. Việc sử dụng các từ tượng thanh đã thể hiện các bước chuyển
động của thời gian một cách tự nhiên (Sự thành công của tác giả khi quan sát
bằng thính giác). Tiếp đó, bức tranh sinh hoạt của ngày mới bắt đầu bằng dấu
hiệu của tiếng reo trong bếp lửa bập bùng, tiếng bước chân của người đi, tiếng
người nói chuyện với nhau. Trong đoạn văn đầu, việc chọn tiếng gà, tiếng ve,
tiếng chim cuốc, tiếng bếp lửa, tiếng bàn chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm,
tiếng gọi nhau í ới… để miêu tả là thích hợp với thời gian chưa sáng hẳn, cảnh
vật chỉ có thể nhận biết qua âm thanh. Rồi sau đó cảnh vật được cảm nhận bằng
xúc giác “gió tràn xuống mát lạnh” để báo hiệu một bức tranh thiên nhiên hiện
ra rực rỡ dưới ánh mặt trời. Đây là đoạn tác giả sử dụng thị giác để quan sát là

chủ yếu. Việc sử dụng nhiều giác quan như vậy đã làm cho buổi sáng mùa hè
trong thung lũng vừa tươi tắn sắc màu vừa rộn ràng âm thanh cuộc sống.
- Tuy nhiên với từng kiểu bài ta có những cách quan sát khác nhau. Giáo viên
cũng cần gợi ý để học sinh lựa chọn cách quan sát tốt nhất. Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm của cá nhân tôi thì mỗi loại bài đều có cách quan sát đặc trưng. Đối với
kiểu bài Tả đồ vật ta có thể quan sát theo trình tự: mắt nhìn, tay sờ, tai nghe,
mũi ngửi,… nhưng với bài văn Tả cây cối cần phải quan sát theo trình tự: từ xa
đến gần, từ bao quát đến đến bộ phận, quan sát nét khác biệt của cây đó với cây
khác. Đối với bài văn Tả loài vật ta lại quan sát theo trình từ: ngoại hình rồi
mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt động của con vật. Còn đối
với bài văn Tả cảnh ta quan sát theo trình tự: thời gian, theo đặc điểm nổi bật
của cảnh và theo từng góc độ của cảnh. Với bài văn Tả người lại cần quan sát
kĩ về: ngoại hình (tầm vóc, cách ăn mặc, khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, hàm
răng…); về tính tình và hoạt động (lời nói, cử chỉ, thói quen, cách cư xử với
người khác, việc làm…)

18


- Một biện pháp cũng rất hiệu quả, giúp học sinh viết bài có cảm xúc hơn, đó là
giáo viên cho học sinh tiếp cận với một số đoạn văn, câu văn thể hiện sự quan
sát tinh tế của tác giả. Sự vật trong tự nhiên, mỗi sự vật đều có một đặc điểm
riêng, chỉ khi nào ta nắm được đặc điểm riêng đó thì khi viết ra mới có hình ảnh
như thật. Nhưng chỉ làm nổi bật đặc điểm bên ngoài thôi chưa đủ, cần nêu
được cái đặc sắc ẩn chứa bên trong sự vật đó để nói lên những suy tư, những
tình cảm không chỉ của người viết gửi gắm vào đó mà còn là của sự vật đó.
Muốn làm được điều này, dứt khoát phải có sự quan sát tinh tế và phải có được
những cái rất riêng về đối tượng và rung cảm với nó. Người đọc đã thật sự bất
ngờ và thích thú trước những phát hiện độc đáo, mới mẻ của Trần Đăng Khoa
khi tả: “Bác mặt trời đạp xe qua đỉnh núi”; “Lá rơi rất mỏng như là rơi

nghiêng”…
Ví dụ:
+ Khi miêu tả buổi sáng đầu thu, nhờ quan sát tinh tế tác giả đã có câu văn
miêu tả: “Một vài giọt mưa loáng thoáng rơi trên chiếc khăn quàng đỏ và mái
tóc xõa ngang vai của Thủy; những sợ cỏ đẫm nước lùa vào dép Thủy làm cho
bàn chân nhỏ bé của em ướt lạnh.”
+ Hay như khi miêu tả cây cối trong cái nắng gay gắt của buổi trưa: “Cây
chuối cũng ngủ, tàu lá lặng đi như thiếp vào trong nắng.” Từ lặng, thiếp đi đã
diễn tả được rất chính xác cái mệt mỏi của cảnh vật trong cái nắng trưa gay gắt.
+ Hay như khi miêu tả cảnh buổi chiều tối: “Trong im ắng, hương vườn thơm
thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ,
trườn theo những thân cành.” Từ thơm thoảng, rón rén, tung tăng có tác dụng
diễn tả được cái im lặng, thanh bình của buổi chiều. Cảnh vật tĩnh lặng đã làm
nền cho hương vườn thơm nhẹ tung tăng khắp nơi. Chỉ có quan sát tinh tế tác
giả mới cảm nhận được và viết ra những câu văn hay như vậy.
+ Hay như khi miêu tả một cơn mưa, tác giả đã quan sát tinh tế mọi cảnh vật
nên đã rất thành công khi sử dụng biện pháp nhân hóa trong đoạn văn sau: “…
Nước tuôn xối xả. Gió thổi mạnh, giật toang cánh cửa sổ. Những cây cổ thụ hai
bên đường đón nhận trận mưa lớn một cách bình thản; những cây non, cây thân
nhỏ trong mưa vừa run rẩy, ngả nghiêng nhưng vẫn cố bám vào nhau để chống
chọi cơn mưa. Chị gà mái mơ xòe to đôi cánh che cho đàn con ở góc hiên, mắt
vẫn không quên cảnh giác nhìn chú mèo khoang cũng đang trú mưa gần đó.
Dây quần áo ngoài sân nhà vì không có người cất nên ướt hết cả.”

19


2.2.2. Hướng dẫn học sinh ghi chép những điều quan sát được
- Quan sát luôn đi liền với ghi chép. Ghi chép làm giàu thêm cho cho trí nhớ,
ghi chép giúp học sinh lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc để đưa

vào bài viết. Vậy thì phải ghi chép như thế nào? Theo tôi, giáo viên nên hướng
dẫn học sinh ghi các ý quan sát được thành các phần cách gạch đầu dòng theo
kiểu xây dựng dàn ý phần thân bài. Học sinh sẽ kết hợp quan sát và lựa chọn từ
ngữ để diễn đạt những điều quan sát được thành một dàn ý chi tiết cụ thể.

ghi

20


cây hoa ghi
- Giáo viên cần xây dựng cho học sinh thói quen ghi chép khi quan sát, thói
quen lập dàn ý trước khi viết một bài văn theo đề tài cụ thể. Khi ghi chép phải
ghi được những đặc điểm cơ bản: hình dạng, màu sắc, hoạt động…của đối
tượng. Cố gắng tìm ra và viết được những điều mà người khác không nhìn thấy
để bài viết của mình có cái mới, cái riêng, cái độc đáo.
- Sắp xếp những ý đã quan sát được thành một dàn ý chi tiết. Việc lập dàn ý sẽ
tránh được cho học sinh lỗi khi làm bài diễn đạt lộn xộn, thiếu chặt chẽ.
Ví dụ: Khi làm bài văn Tả cảnh sông nước, tôi đã giúp học sinh xây dựng một
dàn ý theo mẫu, học sinh điền vào chỗ trống các ý quan sát được. Đây là bước
đầu để học sinh làm quen với cách lập dàn ý cho một bài văn:
Dàn bài 1: Tả theo trình tự thời gian
1. Mở bài: Giới thiệu dòng sông.
- Dòng sông……….
- Đặc điểm nổi bật nhất…………...
2. Thân bài

21



- Buổi sáng:
+ Mặt sông: …………………….
+ Bầu trời, mây ……………………
+ Cá: …………………
- Trưa:
+ Mặt sông:
+ Tàu thuyền: ……………
- Chiều:
+ Mặt trời: …………………..
+ Gió: ………………………
+ Lũ trẻ: ………………………..
- Đêm trăng:
3. Kết bài: Cảm nghĩ về dòng sông:
Dàn bài 2: Tả theo trình tự không gian
Thân bài:
* Tả bao quát:
- Mặt nước: …………………..
- Mùa hè: ……………………
- Mùa đông: ………………..
*Tả từng bộ phận của cảnh:
- Mặt sông: ………………………
- Sóng: ……………………
- Tàu thuyền: ………………………
- Hai bên bờ sông: …………………
- Sáng sớm: ………….
- Trưa: ……………
- Chiều: …………………
- Ngày mưa lũ: …………….
- Ngày đẹp trời: ………………….


22


23


Bài làm của HS Vũ Thị Diệu Linh theo dàn bài 1.

24


25


×