Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

XÂY DỰNG CHUYÊN ĐỀ DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN CÔNG NGHỆ LỚP 12 THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁTTRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 90 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I.Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Từ năm học 2014 - 2015, Bộ giáo dục và đào tạo
đã triển khai kế hoạch đổi mới dạy học và kiểm tra, đánh giá, xây dựng các
chuyên đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
II. Mô tả giải pháp:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
Chương trình SGK hiện hành theo các chương, bài/tiết, nội dung chọn vẹn
một vấn đề có thể kéo dài trong nhiều bài học, kiến thức rời rạc về lý thuyết và
thực hành; phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá truyền thống là chủ yếu.
2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến:
Xây dựng các chuyên đề dạy học dựa vào nội dung chương trình SGK hiện
hành có thể thực hiện trong nhiều tiết, sử dụng các PP và kỹ thuật dạy học tích
cực trong các hoạt động dạy học để giải quyết trọn vẹn một vấn đề học tập.
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
1. Hiệu quả kinh tế
GV đã sử dụng triệt để các PPDH tích cực tạo hứng thú cho học sinh học
tập môn Công nghệ; chất lượng bài kiểm tra tăng, HS đạt khá giỏi nhiều hơn và
HS đã yêu thích môn học hơn.
2. Hiệu quả về mặt xã hội
Sáng kiến đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hướng phát
triển năng lực, tư duy sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn cuộc sống của người học.
IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
Tôi xin cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền SKKN của ai.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


TÁC GIẢ

……………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………

(Ký tên, đóng dấu)

PHÙNG THỊ THU HIỀN

1
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

THÔNG TIN CHUNG
Tên sáng kiến:

1.

“XÂY DỰNG CHUYÊN ĐỀ DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
MÔN CÔNG NGHỆ LỚP 12 THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn Công nghệ lớp 12 THPT
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 25 tháng 08 năm 2014 đến ngày 20
tháng 04 năm 2015.
4. Tác giả:
Họ và tên: PHÙNG THỊ THU HIỀN.
Năm sinh:07/07/1979

Nơi thường trú: xóm Trại Làng - xã Hồng Quang - huyện Nam Trực - tỉnh
Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Kỹ thuật.
Chức vụ công tác: Giáo viên, UVBCH Công Đoàn
Nơi làm việc: Trường THPT Nguyễn Du.
Địa chỉ liên hệ: Trường THPT Nguyễn Du - xã Nam Tiến - huyện Nam Trực
- tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0948.348.114
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 95 %.
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT Nguyễn Du
Địa chỉ: xã Nam Tiến - huyện Nam Trực - tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 03503.827.326

2
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

Trường THPT Nguyễn Du - xã Nam Tiến - huyện Nam Trực - tỉnh Nam Định

3
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lý do chọn đề tài

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ. Đó là kỷ nguyên với những đặc điểm nổi bật như: sự bùng nổ thông tin và
cạnh tranh kinh tế diễn ra quyết liệt; số lượng tri thức khoa học tăng rất nhanh và
khoảng thời gian chuyển tiếp từ nghiên cứu, phát minh đến ứng dụng vào thực
tiễn ngày càng rút ngắn một cách đáng kể. Trong dạy học, xuất hiện mâu thuẫn
giữa thời gian đào tạo không tăng với khối lượng kiến thức ngày càng tăng. Mâu
thuẫn này càng trở nên gay gắt.
Thực trạng trên đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo nói chung và nhà trường
phổ thông nói riêng phải dạy học như thế nào để học sinh sau khi ra trường có
khả năng tự lực và thích nghi với môi trường lao động luôn biến đổi. Nền giáo
dục nước ta cần phải đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện, đặc biệt là đổi mới
phương pháp dạy và học để tạo ra những con người biết thích ứng trong hoàn
cảnh mới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo
cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng
lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng,
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, việc dạy và
học môn Công nghệ ngày càng được quan tâm. Thực tế, dạy học môn Công
nghệ hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học chưa mang lại hiệu quả cao.
Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều
giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp
các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn còn
nặng nề về truyền thụ kiến thức lý thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng
giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng

tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng
rãi và hiệu quả trong các trường phổ thông.
4
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là nhiều học sinh phổ thông còn thụ
động trong việc học tập môn Công nghệ; khả năng sáng tạo và năng lực vận
dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn
chế. Do đó,trong phạm vi chương trình Công nghệ 12, việc nghiên cứu đề tài:
“Xây dựng chuyên đề dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Công nghệ lớp 12
THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh” là cần thiết, để đáp ứng
nhu cầu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
2.Mục đích nghiên cứu.
Vận dụng lý luận về các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào dạy
học chuyên đề môn Công nghệ 12 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và năng lực tự học của học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
môn Công nghệ của nhà trường, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu một số luận điểm về cơ sở lý
luận của một số phương pháp dạy học tích cực môn Công nghệ THPT.
- Phạm vi nghiên cứu:Phương pháp dạy học môn Công nghệ 12; nội dung
chương trình môn học Công nghệ 12; học sinh khối 12 trường THPT Nguyễn
Du; giáo viên dạy môn Công nghệ ở một số trường trên địa bàn tỉnh Nam Định.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu một số cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Xây dựng một số chuyên đề dạy học ở bộ môn Công nghệ lớp 12 THPT.

- Tiến hành thực nghiệm và xin ý kiến chuyên gia để đánh giá sơ bộ kết quả
nghiên cứu cũng như hiệu quả các biện pháp đã đề xuất.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài phối hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp quan sát - trò chuyện: Bằng sự quan sát quá trình dạy và học
môn Công nghệ lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Du và thông qua các cuộc trao
đổi, trò chuyện với các giáo viên, học sinh của trường nhằm xác định các mặt
hạn chế trong dạy học Công nghệ lớp 12.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề
tài để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Nghiên cứu thực trạng dạy học Công
nghệ lớp 12 và phân tích những kinh nghiệm thực tiễn của đồng nghiệp để tổng
kết, đúc rút kinh nghiệm, xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
5
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê
- Tham khảo ý kiến chuyên gia về vấn đề nghiên cứu.
6. Cấu trúc của sáng kiến.
Nội dung chính của sáng kiến kinh nghiệm gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Xu hướng dạy học đổi mới hiện nay
1.2. Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học
1.3. Về hình thức và phương pháp dạy học
1.4. Các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
1.5. Vấn đề phát triển năng lực học sinh ở môn Công nghệ THPT

1.6. Tình hình dạy học môn Công nghệ lớp 12 hiện nay
Kết luận chương 1
Chương 2. Xây dựngchuyên đề dạy học môn Công nghệ lớp 12 THPT
2.1. Đặc điểm nội dung môn Công nghệ lớp 12
2.2. Xây dựng chuyên đề dạy học
2.3. Một số chuyên đề dạy học môn Công nghệ lớp 12
Kết luận chương 2
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực nghiệm
3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm
3.3. Đối tượng thực nghiệm
3.4. Điều kiện thực nghiệm
3.5. Tổ chức thực nghiệm
3.6. Kết quả thực nghiệm
Kết luận chương 3
6
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. XU HƯỚNG ĐỔI MỚI DẠY HỌC HIỆN NAY.

Hiện nay, phát triển năng lực sáng tạo ở thế hệ trẻ đang trở thành một vấn
đề được quan tâm. Một trong những nguyên nhân của sự quan tâm đó là quy mô
của của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đòi hỏi mỗi người phải có kỹ
năng biết nhìn thấy, biết đặt ra và biết giải quyết những vấn đề đặt ra trong sản
xuất, nghiên cứu khoa học và trong đời sống xã hội v.v…Đó là một trong

những điều kiện căn bản để tăng năng suất lao động, hợp lý hóa và cải tiến
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống sản xuất và xã hội ở nước ta. Sự gia
tăng như thác lũ của lượng thông tin, phải hiểu thông tin và xử lý thông tin một
cách sáng tạo.
Qua nghiên cứu thực tiễn dạy học ở trường THPT thấy rằng: Phương pháp
thuyết trình, thông báo tri thức của giáo viên vẫn là phương pháp dạy học được
sử dụng quá nhiều, dẫn đến tình trạng hạn chế hoạt động tích cực của học sinh;
Việc sử dụng phối hợp các PPDH cũng như sử dụng các PPDH phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo còn ở mức độ hạn chế; Việc gắn nội dung dạy học
với các tình huống thực tiễn chưa được chú trọng; Dạy học thí nghiệm, thực
hành, dạy học thông qua các hoạt động thực tiễn ít được thực hiện; Việc sử
dụng phương tiện dạy học mới, công nghệ thông tin chỉ bước đầu thực hiện ở
một số trường; Việc rèn luyện khả năng vận dụng tri thức liên môn để giải
quyết các chủ đề phức hợp gắn với thực tiễn chưa được chú ý đúng mức. Thực
trạng trên đây dẫn đến hệ quả là thế hệ trẻ được đào tạo trong trường phổ thông
mang tính thụ động cao, hạn chế khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri
thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống.
Điều đó đặt nhiệm vụ cho ngành giáo dục và đào tạo phải giáo dục thế hệ
trẻ trở thành những người lao động tích cực chủ động và sáng tạo, luôn có
những sáng kiến mới và có tinh thần tự giác cao. Một trong những định hướng
cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm,
kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành
năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định
hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát triển năng lực hành động, năng
lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong
cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông.
7
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định



Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển nên các thiết bị kỹ thuật ngày
càng hiện đại, vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn, các phương pháp công
nghệ luôn được đổi mới,… điều đó làm cho nội dung dạy học môn Công nghệ
sẽ nhanh chóng lạc hậu, nếu như không biết lựa chọn, bổ sung cập nhật và xây
dựng hợp lý.
Mục tiêu dạy học môn Công nghệ thay đổi, làm cho các phương pháp dạy
học Công nghệ phổ thông truyền thống tỏ ra bất cập. Nếu như trước đây, khi
dạy về một loại máy móc hay thiết bị kỹ thuật, giáo viên có thể chỉ sử dụng
phương pháp thuyết trình, trực quan để truyền đạt kiến thức lý thuyết, sử dụng
các phương pháp dạy học thực hành để rèn luyện kỹ năng thực hành; học sinh
chỉ có thể ghi nhớ rồi tái hiện,… thì ngày nay điều đó là không thể được. Bởi lẽ
không thể ghi nhớ và tái hiện lượng thông tin khổng lồ và luôn biến động. Mặt
khác, nếu chỉ ghi nhớ rồi tái hiện thì sản phẩm của giáo dục sẽ là những con
người chỉ biết vâng lệnh, thừa hành,… không có tư duy sáng tạo. Chính vì vậy,
phải đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học Công nghệ phổ thông
nói riêng, nhằm khắc phục những bất cập nêu trên. Trong việc đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay, điều quan trọng nhất là làm thế nào để học sinh động
não, để nâng cao chất lượng hoạt động trí tuệ, làm phát triển trí thông minh, trí
sáng tạo của học sinh. Việc đổi mới dạy học theo xu hướng nhằm đào tạo con
người phát triển toàn diện mà cụ thể là hình thành và phát triển tính tích cực chủ
động, độc lập, sáng tạo, rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình
huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt
động thực hành, thực tiễn.Vì nhờ đó mà họ có thể tiếp tục tự học, tự nâng cao
trình độ và hoàn thiện tri thức của mình, nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày
càng cao của cuộc sống.
Để đạt được những mục tiêu trên, theo xu hướng đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội
dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc

HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực
hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy
cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên –
học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực
xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn
học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát
triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Phải phát huy tính tích cực, tự
8
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng
sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin…), trên cơ sở đó trau dồi
các sản phẩm linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Có thể lựa chọn một cách
linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực
hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được
nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên”.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức tổ
chức dạy học. Tùy theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có
những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp,
học ở ngoài lớp,… Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành
để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, nâng cao hứng thú cho người học.Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị
dạy học môn học tối thiểu đã quy định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự
làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh.
Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học.

1.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC.
Các phương pháp dạy học truyền thống luôn là những phương pháp quan
trọng trong dạy học. Đổi mới không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp truyền
thống mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược
điểm của chúng.
*Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống.
Trước hết người giáo viên cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành
thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp,
chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết
trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ
thuật làm mẫu trong luyện tập.
Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất
yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử
dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật
dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh.
*Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học.
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn
bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và
9
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và
dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi
một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn
lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt
thông qua làm việc nhóm.
Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc

giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có
những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể
chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như
phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án.
Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong
một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hóa “bên ngoài” của học sinh.
Muốn đảm bảo việc tích cực hóa “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của
phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp
dạy học tích cực khác.
*Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề.
Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải
quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng
nhận biết và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề,
đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn
đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức.
Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực
nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với
những mức độ tự lực khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là
những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn
với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức
trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc
giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề,
lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
* Vận dụng dạy học theo tình huống.
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học
được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc
sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học
tập tạo điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương
10
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định



Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

tác xã hội của việc học tập.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển
hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình
huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.Vận dụng dạy học
theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn việc đào
tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo
dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.Tuy nhiên, nếu
các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng lại, thì
chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý
thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết
hợp giữa lý thuyết và thực hành.
*Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt
động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình
học tập, học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm
hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân.
Đây là một quan điểm dạy học tích cực hóa và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy
học định hướng hành động có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên lý
giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã
hội.
Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng
hành động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập
phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra
các sản phẩm có thể công bố.
Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm
dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học

hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống
và dạy học định hướng hành động.
*Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý
hỗ trợ dạy học
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp
dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy
học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa
phương tiện dạy học và phương pháp dạy học.
11
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là
phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ
thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa
phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần
mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (ELearning).
Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương
pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với
phương tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá
tri thức trên mạng một cách có định hướng.
*Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo.
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên, của
người dạy và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và
điều khiển quá trình dạy học.
*Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn.
Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vì
vậy bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác

nhau thì việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng
trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây
dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn.
Ví dụ: Thực hành là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của môn
Công nghệ; các phương pháp dạy học như làm mẫu thao tác, phân tích sản
phẩm kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án là những phương
pháp chủ lực trong dạy học Công nghệ.
*Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh.
Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc
tích cực hóa, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận
thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp
tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập
chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập
cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong
bộ môn.
Như vậy có rất nhiều phương hướng đổi mới phương pháp dạy học với
12
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

những cách tiếp cận khác nhau. Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi
những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học,
điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính
chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những
phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá
nhân.
1.3.VỀ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC.
Hình thức và phương pháp dạy học được đổi mới nhằm phát huy tính chủ

động, tích cực và rèn luyện phương pháp tự học; tăng cường kỹ năng thực hành,
vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Về hình thức tổ chức dạy học.
Từ năm 2011, Bộ GDĐT đã triển khai tổ chức một số cuộc thi: Cuộc thi
khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học (VSEF) và cử học
sinh tham dự Cuộc thi khoa học, kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF); Cuộc thi vận
dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn dành cho học sinh
trung học ...
Các cuộc thi này coi trọng phát huy ý tưởng mới và rèn luyện năng lực
sáng tạo, phong cách làm việc khoa học của học sinh.
- Về phương pháp dạy học.
Có nhiều năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh trong dạy học
như: năng lực tự học; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực sáng
tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông... Trong đó, phát triển năng lực sáng tạo, năng lực phát hiện và
giải quyết vấn đề của học sinh là mục tiêu quan trọng, qua đó góp phần thúc
đẩy sự hình thành và phát triển của các năng lực khác. Để đạt được mục tiêu đó,
phương pháp dạy học cần đổi mới sao cho phù hợp với tiến trình nhận thúc
khoa học để học sinh tham gia vào hoạt động tìm tòi sáng tạo giải quyết vấn đề;
góp phần hình thành năng lực hành động, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của học sinh để từ đó bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, hình
thành khả năng học tập suốt đời, đó chính là các phương pháp dạy học tích cực.
Trong dạy học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là
người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh
nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo
13
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định



Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có
vẻ “nhàn” hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công
sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện
bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài
trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên
phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có
thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến
ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
- Về kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh.
Theo quan điểm dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh, quá
trình dạy - học bao gồm một hệ thống các hành động có mục đích của giáo viên
tổ chức hoạt động trí óc và chân tay của học sinh, đảm bảo cho học sinh chiếm
lĩnh được nội dung dạy học, đạt được mục tiêu xác định. Trong quá trình dạy
học, giáo viên tổ chức định hướng hành động chiếm lĩnh tri thức của học sinh
phỏng theo tiến trình của chu trình sáng tạo khoa học. Cụ thể:
+ Giáo viên tổ chức tình huống, giao nhiệm vụ cho học sinh. Học sinh
hăng hái đảm nhận nhiệm vụ, gặp khó khăn, nảy sinh vấn đề cần tìm tòi giải
quyết. Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, vấn đề được diễn ra chính xác hóa, phù
hợp với mục tiêu dạy học và nội dung cụ thể đã xác định.
+ Học sinh tự chủ tìm tòi giải quyết vấn đề đặt ra. Với sự theo dõi, định
hướng, giúp đỡ của giáo viên, hoạt động của học sinh diễn ra theo một tiến trình
hợp lý, phù hợp với những đòi hỏi phương pháp luận.
+ Giáo viên chỉ đạo trao đổi, tranh luận của học sinh, bổ sung, tổng kết,
khái quát hóa, thể chế hóa tri thức, kiểm tra kết quả học phù hợp với mục tiêu
dạy học các nội dung cụ thể đã xác định.
Tổ chức tiến trình dạy học như vậy, lớp học có thể được chia thành từng
nhóm nhỏ. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia
ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần

của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại
vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp
đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết
quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp.
Các kỹ thuật dạy học tích cực như vậy sẽ được sử dụng trong tổ chức hoạt động
14
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

nhóm trên lớp để thực hiện các nhiệm vụ nhỏ nhằm đạt mục tiêu dạy học.
Để đề xuất vấn đề, giáo viên có thể sử dụng một kỹ thuật nào đó để giao
cho học sinh giải quyết một nhiệm vụ nào đó. Kết quả hoạt động của các nhóm
học sinh được đưa ra thảo luận, từ đó nảy sinh vấn đề cần giải quyết và đề xuất
các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề đó. Hoạt động giải quyết vấn đề của học
sinh có thể được thực hiện ngay trong giờ học trên lớp nhưng thường thì phải
thực hiện ở nhà, giữa hai giờ lên lớp kế tiếp nhau mới đạt được hiệu quả cao.
Giai đoạn này, các phương pháp quan sát, ôn tập, nghiên cứu độc lập cần được
hướng dẫn cho học sinh sử dụng. Các kỹ thuật dạy học tích cực sẽ được tiếp tục
sử dụng trên lớp trong giờ học sau đó để tổ chức các hoạt động trao đổi, tranh
luận của học sinh về vấn đề đang giải quyết nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Để tổ chức được quá trình dạy học như trên, thay cho việc dạy học đang
được thực hiện theo từng bài/ tiết trong sách giáo khoa như hiện nay, cần phải
căn cứ vào chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn nội dung để xây
dựng các chuyên đề dạy học phù hợp với việc sử dụng phương pháp dạy học
tích cực trong điều kiện thực tế của nhà trường.
Tiến trình dạy học chuyên đề được tổ chức thành các hoạt động học của
học sinh để có thể thực hiện ở trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ

thực hiện một số hoạt động trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kỹ
thuật dạy học được sử dụng.
* Đổi mới kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh thực hiện chuyển từ chú trọng kiểm tra kết quả ghi nhớ
kiến thức cuối kỳ, cuối năm sang coi trọng kết hợp kết quả đánh giá phong cách
học và năng lực vận dụng kiến thức trong quá trình giáo dục và tổng kết cuối
kỳ, cuối năm học để hướng tới phát triển năng lực của học sinh; coi trọng đánh
giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học tập, động viên sự cố gắng, hứng
thú học tập của các em trong quá trình dạy học. Việc kiểm tra, đánh giá không
chỉ là việc xem học sinh học được cái gì mà quan trọng hơn là biết học sinh học
như thế nào, có biết vận dụng không.
Thông qua kiểm tra, đánh giá, giáo viên rút kinh nghiệm, điều chỉnh hoạt
động dạy và giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để
động viên, khích lệ; phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học
sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định phù hợp về những ưu điểm nổi
15
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

bật và những hạn chế của học sinh để có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh.
- Đánh giá quá trình học tập của học sinh.
Trong quá trình dạy học, căn cứ vào đặc điểm và mục tiêu của bài học,
của mỗi hoạt động trong bài học, giáo viên tiến hành một số việc như sau:
+ Theo dõi, kiểm tra quá trình và từng kết quả thực hiện nhiệm vụ của học
sinh/nhóm học sinh theo tiến trình dạy học; quan tâm tiến độ hoàn thành từng
nhiệm vụ của học sinh để áp dụng biện pháp cụ thể, kịp thời giúp đỡ học sinh

vượt qua khó khăn.
+ Ghi nhận xét vào phiếu, vở, sản phẩm học tập... của học sinh về những
kết quả đã làm được hoặc chưa làm được, mức độ hiểu biết và năng lực vận
dụng kiến thức, mức độ thành thạo các thao tác, kỹ năng cần thiết...
+ Đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh,
quan sát các biểu hiện trong quá trình học tập, sinh hoạt và tham gia các hoạt
động tập thể để nhận xét sự hình thành và phát triển một số phẩm chất, năng lực
của học sinh; từ đó động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn; phát
huy ưu điểm và các phẩm chất, năng lực riêng; điều chỉnh hoạt động, ứng xử để
tiến bộ.
Khuyến khích, hướng dẫn học sinh tự đánh giá và tham gia nhận xét, góp ý,
nhóm bạn:
+ Học sinh tự rút kinh nghiệm ngay trong quá trình hoặc sau khi thực hiện
từng nhiệm vụ học tập, hoạt động giáo dục khác; trao đổi với giáo viên để được
góp ý, hướng dẫn.
+ Học sinh tham gia nhận xét, góp ý bạn, nhóm bạn ngay trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ học tập và môn học và hoạt động giáo dục; thảo luận,
hướng dẫn, giúp đỡ bạn hoàn thành nhiệm vụ.
+ Chuyển giao nhiệm vụ: Giáo viên tổ chức một tình huống có tiềm ẩn vấn
đề, lựa chọn một kỹ thuật học tích cực phù hợp để giao cho học sinh giải quyết
tình huống.
+ Thực hiện nhiệm vụ: Học sinh hoạt động tự lực giải quyết nhiệm vụ (Cá
nhân, cặp đôi hoặc nhóm nhỏ). Hoạt động giải quyết vấn đề có thể (thường)
được thực hiện ở ngoài lớp học và ở nhà.
+ Báo cáo, thảo luận: Sử dụng kỹ thuật được lựa chọn, giáo viên tổ chức
16
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015


cho học sinh báo cáo và thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm vụ.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là phải xây dựng đề thi, kiểm tra
theo ma trận; chỉ đạo việc ra các câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa
chọn đúng thay vì chỉ có các câu hỏi 1 lựa chọn đúng như trước đây và bài kiểm
tra bao gồm các loại câu hỏi, bài tập theo 4 mức độ yêu cầu:
+ Nhận biết: học sinh nhận biết, nhắc lại hoặc mô tả đúng kiến thức, kỹ
năng đã học khi được yêu cầu.
+ Thông hiểu: học sinh diễn đạt đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kỹ năng
đã học bằng ngôn ngữ theo cách của riêng mình, có thể thêm các hoạt động
phân tích, giải thích, so sánh; áp dụng trực tiếp (làm theo mẫu) kiến thức, kỹ
năng đã biết để giải quyết các tình huống, vấn đề trong học tập.
+ Vận dụng: học sinh kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kỹ năng đã học
để giải quyết thành cồng tình huống, vấn đề tương tự tình huống, vấn đề đã học.
+ Vận dụng cao: học sinh vận dụng được các kiến thức, kỹ năng để giải
quyết các tình huống, vấn đề mới, không giống với những tình huống, vấn đề đã
được hướng dẫn; đưa ra những phản hồi hợp lý trước một tình huống, vấn đề
mới trong học tập hoặc trong cuộc sống.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP, KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
1.4.1. Các phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở môn Công nghệ
* Phương pháp dạy học dựa trên giải quyết vấn đề.
Là phương pháp dạy học lấy các vấn đề làm điểm xuất phát, làm bối cảnh
cũng như động lực cho quá trình học tập. Thông qua giải quyết vấn đề đặt ra,
người học sẽ tự định hướng, chủ động, tự lực nắm vững kiến thức cũng như cách
thức đạt được kiến thức đó.
Thông qua phương pháp dạy học này, người học sẽ trải nghiệm, hình thành
và phát triển năng lực giải quyết vấn đề (phát hiện và biểu đạt vấn đề; đề xuất
giải pháp giải quyết vấn đề; lựa chọn giải pháp, thực hiện và đánh giá giải quyết
vấn đề). Bên cạnh đó, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực thiết kế sẽ

được hình thành và phát triển.
Có chung các ưu điểm như dạy học giải quyết vấn đề là dạy học dựa trên
dự án. Đây là phương pháp học sinh được đóng vai, hợp tác với nhau để thực
hiện một dự án học tập với một yêu cầu rõ ràng về sản phẩm cần đạt. Cách dạy
17
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

này đảm bảo và phù hợp với dạy học định hướng phát triển năng lực người học,
định hướng hoạt động và định hướng sản phẩm.
* Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ.
Việc tổ chức, quản lý học sinh học tập theo nhóm được thực hiện trên lý
thuyết về học tập hợp tác. Theo đó, người học sẽ được kết nhóm theo cách nào
đó và làm việc trong một môi trường có sự kiểm soát, thể hiện được vai trò của
cá nhân thông qua thảo luận, chia sẻ, tranh luận hướng tới nhiệm vụ chung của
tập thể của tập thể. Nhiệm vụ của mỗi cá nhân sẽ được phân công rõ ràng, việc
thực hiện được tiến hành trong sự tuân thủ và thống nhất dựa trên các quy định
đã được đề xuất. Hoạt động trong nhóm nhỏ còn thể hiện được tinh thần “dạy lại
cho người khác”, một thuyết khoa học nhận thức mới đang được quan tâm.
Để thực hiện được những ưu điểm đó của hoạt động nhóm, việc quản lí
nhóm trong quá trình học tập đóng vai trò quan trọng. Theo đó, nhiệm vụ thực
hiện của nhóm cần phải được phát biểu rõ ràng, kích thích hứng thú học tập;
việc hình thành nhóm cần được thực hiện theo chủ ý với nhiều kỹ thuật đa dạng,
sinh động và hấp dẫn; vai trò các thành viên trong nhóm cần được phân công rõ
ràng, đặc biệt là bộ ba: trưởng nhóm, người ghi chép, người theo dõi thời gian;
và cuối cùng là sự báo cáo, tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau, đánh giá của giáo
viên về kết quảhoạt động của nhóm. Bao trùm lên tất cả là sự quản lí, điều hành,
theo dõi, quan sát, giúp đỡ, khích lệ, xử lý xung đột của giáo viên. Phương pháp

dạy học này có tác dụng tích cực trong hình thành và phát triển các năng lực như
năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực ngôn ngữ kỹ thuật.
1.4.2. Một số kỹ thuật dạy học tích cực
Các kỹ thuật dạy học tích cực có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự
tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo
và sự cộng tác làm việc của HS.
* Động não.
Khái niệm:
Động não (công não) là một kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới
mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành viên
được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra
“cơn lốc” các ý tưởng).
Quy tắc của động não
Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các
thành viên.
18
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

-

Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày.
Khuyến khích số lượng các ý tưởng.
Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.

Các bước tiến hành.
Bước 1: Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề.
Bước 2: Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý

kiến, không đánh giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối
nhau.
Bước 3: Kết thúc việc đưa ra ý kiến.
Bước 4: Đánh giá:
+ Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng.
+ Có thể ứng dụng trực tiếp.
+ Có thể ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm.
+ Không có khả năng ứng dụng.
+ Đánh giá những ý kiến đã lựa chọn.
+ Rút ra kết luận hành động.
* Kỹ thuật XYZ.
Kỹ thuật XYZ là một kỹ thuật nhằm phát huy tính tích cực trong thảo luận
nhóm. X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút
dành cho mỗi người. Ví dụ kỹ thuật thực hiện như sau:
-

Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 5 phút
về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh.
Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của mình, có thể
lặp lại vòng khác.
- Con số X-Y-Z có thể thay đổi.
- Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá các ý kiến.
* Kỹ thuật “bể cá”.
Kỹ thuật “bể cá” là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một
nhóm HS ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những HS khác trong lớp
ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc
cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những HS thảo
luận. Trong nhóm thảo luận có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý
kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc
phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này

19
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có
thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một
bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người
thảo luận sẽ trao đổi vai trò với nhau.
* Tranh luận ủng hộ - phản đối (tranh luận chia phe).

-

-

-

Tranh luận ủng hộ - phản đối là một kỹ thuật dùng trong thảo luận, trong đó
đề cập về một chủ đề có chứa đựng xung đột. Những ý kiến khác nhau và những
ý kiến đối lập được đưa ra tranh luận nhằm mục đích xem xét chủ đề dưới nhiều
góc độ khác nhau. Mục tiêu của tranh luận không phải là nhằm “đánh bại” ý
kiến đối lập mà nhằm xem xét chủ đề dưới nhiều phương diện khác nhau.
Cách thực hiện:
Các thành viên được chia thành hai nhóm hướng ý kiến đối lập nhau về một luận
điểm cần tranh luận. Việc chia nhóm có thể theo nguyên tắc ngẫu nhiên hoặc
theo nguyện vọng của các thành viên muốn đứng trong nhóm ủng hộ hay phản
đối.
Một nhóm cần thu thập những lập luận ủng hộ, còn nhóm đối lập thu thập những
luận cứ phản đối đối với luận điểm tranh luận.

Sau khi các nhóm đã thu thập luận cứ thì bắt đầu thảo luận thông qua đại diện
của hai nhóm. Mỗi nhóm trình bày một lập luận của mình: Nhóm ủng hộ đưa ra
một lập luận ủng hộ , tiếp đó nhóm phản đối đưa ra một ý kiến phản đối và cứ
tiếp tục như vậy. Nếu mỗi nhóm nhỏ hơn 6 người thì không cần đại diện mà mọi
thành viên có thể trình bày lập luận.
Sau khi các lập luận đã đưa ra thì tiếp theo là giai đoạn thảo luận chung và đánh
giá, kết luận thảo luận.
* Kỹ thuật tia chớp.
Kỹ thuật tia chớp là một kỹ thuật huy động sự tham gia của các thành viên
đối với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm cải thiện
tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua việc các thành
viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (như chớp!) ý kiến của mình về câu
hỏi hoặc tình trạng vấn đề.
* Kỹ thuật “3 lần 3”.
Kỹ thuật “3 lần 3” là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động
sự tham gia tích cực của HS. Cách làm như sau:

-

HS được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó (nội dung buổi thảo
luận, phương pháp tiến hành thảo luận...).
20
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

-

Mỗi người cần viết ra: 3 điều tốt; 3 điều chưa tốt; 3 đề nghị cải tiến.

Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi.

* Lược đồ tư duy.
+ Khái niệm
Lược đồ tư duy (bản đồ tư duy, bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình
bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc
của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy,
trên bảng trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
+ Cách làm:
- Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
- Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một
khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA.
Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó
đượcnối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên
các nhánh.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung
thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
+ Ứng dụng của lược đồ tư duy.
Lược đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như:
Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề; trình bày tổng quan một chủ đề; tóm tắt
nội dung, ôn tập một chủ đề; trình bày tổng quan một chủ đề; chuẩn bị ý tưởng
cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng; thu thập, sắp xếp các ý tưởng;
ghi chép khi nghe bài giảng.
+Ưu điểm của lược đồ tư duy.
- Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu.
- Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng.
- Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại.
- Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
* Kỹ thuật khăn trải bàn.

Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động
cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân người học.
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa người học với nhau.
Cách thực hiện:
+ Hoạt động theo nhóm 4 thành viên
+ Mỗi thành viên ngồi vào vị trí.
+ Nhận nhiệm vụ và suy nghĩ (công việc này có thể được thực hiện trước
21
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

đó).
+ Viết vào ô mang số của mình câu trả lời hoặc ý kiến về chủ đề,... Mỗi
cá nhân làm việc độc lập trong vài phút.
+ Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận
và thống nhất các câu trả lời.
+ Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn.
*Lắp ghép (Jigsaw)
Kỹ thuật học tập hợp tác theo kiểu lắp ghép có tác dụng thúc đẩy học tập,
nâng cao động lực cho học sinh. Nó cho phép các học sinh trong một nhóm
nghiên cứu và chia sẻ khối lượng nội dung môn học lớn hơn.
Cách thực hiện:
Cách 1:
Người học được chia thành các nhóm nhỏ, gồm 5 -6 người. Nhiệm vụ của
mỗi nhóm là tìm hiểu về một khía cạnh của chủ đề môn học và trở thành
“chuyên gia” trong lĩnh vực đó. Trong nhóm “chuyên gia” này, người học sẽ

cùng nhau nghiên cứu và hợp tác để xây dựng một báo cáo hoặc bài trình bày.
Khi thành các viên này đã trở thành “chuyên gia”, các nhóm sẽ được chia lại.
Mỗi nhóm mới tạo thành từ những “chuyên gia” của các nhóm trước đó. Nhiệm
vụ của mỗi “chuyên gia” là dạy cho các thành viên khác trong nhóm nội dung
mà mình đã nghiên cứu trước đó. Kết quả, mỗi thành viên trong nhóm mới đều
được thảo luận, lĩnh hội về tất cả các chủ đề học tập.
Cách 2:
Thành lập nhóm hợp tác một cách ngẫu nhiên, và nhóm này gọi là nhóm
gốc. Trong nhóm gốc, mỗi thành viên trong nhóm được giao một phần của bài
dạy để tự nghiên cứu, sau đó thành viên của các nhóm khác nhau có chung chủ
đề gặp nhau để thảo luận trong một nhóm mới gọi là: “chuyên gia”. Sau khi trở
thành “chuyên gia”, họ quay về nhóm gốc và lần lượt trình bày phần kiến thức
được phân công trước đó. Kết quả, tất cả các thành viên trong nhóm đều có cơ
hội dạy và học lẫn nhau về tất cả các chủ đề của bài học.
1.5. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH Ở MÔN CÔNG
NGHỆ THPT.
1.5.1. Đặc điểm dạy học định hướng phát triển năng lực.
22
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

Năng lực được hiểu là thuộc tính cá nhân có được trên cơ sở vận dụng
kiến thức, kỹ năng, thái độ để thực hiện thành công một hoạt động nhất định,
đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Như vậy, dạy học định
hướng phát triển năng lực không dừng lại ở việc hình thành kiến thức, kỹ năng,
thái độ cho người học mà cần quan tâm tới việc vận dụng kiến thức, kỹ năng,
thái độ để thực hiện một công việc, giải quyết một vấn đề trong học tập cũng
như trong thực tiễn. Như vậy dạy học nhằm phát triển năng lực có các đặc điểm

sau đây:
Lấy người học làm trung tâm.
- Mục tiêu học tập trung vào mức vận dụng (vận dụng cấp thấp, cao).
- Nội dung học tập thiết thực, bổ ích.
- Phương pháp dạy học được lựa chọn thể hiện được định hướng hoạt động, định
hướng thực hành, và định hướng sản phẩm; tăng cường dạy học vận dụng và giải
quyết các vấn đề thực tiễn.
- Hình thức tổ chức đa dạng, tăng cường hợp tác, tìm hiểu và khám phá trong thực
tiễn địa phương.
- Đánh giá và tự đánh giá được tiến hành ngay trong tiến trình dạy học.
1.5.2. Các năng lực cần phát triển cho HS trong dạy học môn Công nghệ.
Năng lực được biểu hiện thông qua hai loại là năng lực chung và năng lực
chuyên biệt.Trong đó năng lực chung được hình thành và phát triển thông qua
tất cả các lĩnh vực học tập; năng lực chuyên biệt được hình thành và phát triển
thông qua lĩnh vực học tập Công nghệ.
* Năng lực chung.
Năng lực chung là những năng lực quan trọng, nhất thiết phải hình thành ở
tất cả học sinh. Hình thành và phát triển năng lực chung cho học sinh là nhiệm
vụ của tất cả các lĩnh vực học tập và hoạt động giáo dục. Nói cách khác, mỗi
lĩnh vực học tập, hoạt động giáo dục cần phải xác định rõ vai trò của mình trong
hình thành và phát triển năng lực chung như thế nào. Với những lĩnh vực học
tập, hoạt động giáo dục khác nhau, sẽ có thế mạnh (vai trò) khác nhau khi hình
thành và phát triển năng lực chung.
Trên tinh thần đó, lĩnh vực Công nghệ, ngoài việc đóng góp hình thành và
phát triển tất cả các năng lực chung, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển các năng lực như: năng lực giải quyết vấn đề; năng lực sáng
tạo; năng lực sử dụng ICT. Cụ thể, trong lĩnh vực giáo dục công nghệ cần hình
thành và phát triển các năng lực chung sau:
Năng lực tự học.
23

GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

Năng lực giải quyết vấn đề.
Năng lực sáng tạo.
Năng lực tự quản lý.
Năng lực giao tiếp.
Năng lực hợp tác.
Năng lực sử dụng ICT.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
Năng lực tính toán.
* Năng lực chuyên biệt.
Ngoài chức năng hình thành và phát triển các năng lực chung, nhiệm vụ
chính của lĩnh vực Công nghệ là hình thành và phát triển các năng lực công nghệ
(được gọi là năng lực chuyên biệt cho mỗi lĩnh vực học tập). Trên cơ sở so sánh
và tìm ra những yếu tố chung từ cấu trúc của hai lý thuyết về “năng lực kỹ
thuật” (nhận thức, thiết kế, vận dụng) và “năng lực C,D,I,O” (theo tiếp cận
CDIO –hình thành ý tưởng, thiết kế, triển khai, vận hành); căn cứ vào kết quả
phân tích thực trạng chương trình giáo dục công nghệ hiện hành; căn cứ vào
kinh nghiệm giáo dục công nghệ Quốc tế và thực tiễn Việt Nam, có thể đề xuất
năng lực công nghệ phổ thông gồm 6 năng lực thành phần sau:
Năng lực sử dụng ngôn ngữ kỹ thuật.
Năng lực hình thành ý tưởng và thiết kế công nghệ.
Năng lực triển khai công nghệ.
Năng lực lựa chọn và đánh giá công nghệ.
Năng lực sử dụng công nghệ cụ thể.
Năng lực tiêu dùng và kinh doanh.
Việc xác định và làm rõ các năng lực cần hình thành ở học sinh (năng lực

chung và năng lực chuyên biệt), sẽ là căn cứquan trọng để xác định mục tiêu, lựa
chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá
của bộ môn Công nghệ nói chung và môn Công nghệ lớp 12 nói riêng.

1.6. TÌNH HÌNH DẠY HỌC MÔN CÔNG NGHỆ LỚP 12 HIỆN NAY.
Qua nghiên cứu, phân tích nội dung, chương trình, tài liệu sách giáo khoa và
thực tế dạy học ở một số trường THPT hiện nay, có thể rút ra mấy nét chính về
tình hình dạy học môn Công nghệ 12 hiện nay như sau:
24
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi cấp Tỉnh - năm 2015

1.6.1. Thuận lợi.
+ Môn Công nghệ được dạy ở lớp 12, cuối cấp, nên học sinh đã quen với
môi trường, cách học tập ở THPT.
+ Đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các thiết bị máy móc (điện
thoại di động, máy vi tính, máy giặt, tivi...) trở nên phổ biến và quen thuộc đối
với học sinh, cùng với tác dụng ngày càng tăng của phương tiện thông tin đại
chúng nên học sinh phần nào đã được làm quen, tiếp xúc, do đó chúng đã có ít
nhiều vốn kiến thức thực tế.
+ Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã thấy rõ sự mất cân đối
nghiêm trọng trong cơ cấu đào tạo nghề nghiệp với sự thiếu hụt nghiêm trọng
của đội ngũ lao động có kỹ thuật cao, được đào tạo cơ bản. Chính vì vậy đã có
nhiều chủ trương, đường lối để khắc phục tình trạng trên, coi kiến thức nghề
nghiệp là vốn văn hóa phổ thông cần được đào tạo: “Dạy người, dạy chữ, dạy
nghề và hướng nghiệp”… Công nghệ phổ thông là cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực, đội ngũ lao động có tay nghề, vì vậy môn Công nghệ nói chung và môn
Công nghệ lớp 12 nói riêng ngày càng được quan tâm và đầu tư từng bước, mục

tiêu nội dung, chương trình đang dần đổi mới. Mặt khác đời sống của giáo viên
trong những năm gần đây đã ổn định và được nâng cao, nên đội ngũ giáo viên
ngày càng quan tâm đến nghề nghiệp, họ có tinh thần phấn đấu nâng cao năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng dạy học.
1.6.2. Khó khăn và tồn tại.
+ Chương trình bộ môn Công nghệ phổ thông còn nặng tính hàn lâm, chưa
phù hợp với mọi đối tượng, chưa đảm bảo được tính vùng miền. Bộ môn được
coi là môn phụ nên học sinh không lo sợ kết quả, không có hứng thú học tập.
Chủ yếu học sinh tập trung vào ôn thi tốt nghiệp nên đa số các em không đầu tư
nhiều thời gian cho bộ môn này. Mặt khác, một số trường phân công giáo viên
dạy không đúng chuyên môn….
+ Công tác quản lý, theo dõi, đánh giá chưa kích thích được tinh thần, khí
thế của người dạy và người học, chưa thúc đẩy được chất lượng, hiệu quả dạy
học và cũng chưa kịp thời uốn nắn được những lệch lạc xảy ra. Kết quả học tập
(thể hiện chất lượng dạy học) ở từng trường, từng lớp chủ yếu phụ thuộc vào sự
đánh giá của cá nhân giáo viên dạy ở lớp đó, trường đó. Bởi vì thường là người
dạy, người ra đề, người chấm thi là một.
25
GV: Phùng Thị Thu HiềnTHPT Nguyễn Du - Nam Trực - Nam Định


×